Development of a nonradioactive receptor-
ligand binding assay towards drug development 
strategy in Vietnam 
 
Nguyen Anh Luong 
 
Hanoi university of Science, VNU; Faculty of Biology 
Major: Genetics; Code: 60 42 70 
Supervisors: Assoc.Prof.PhD. Dinh Doan Long 
Date of Presenting Thesis: 2011 
 
 
Abstract. Tổng quan về phương pháp đo tương tác thụ thể và phối tử đặc hiệu không sử 
dụng phóng xạ phục vụ định hướng phát triển thuốc ở Việt Nam: Khái quát về dược lý 
phân tử; Các đích tác dụng của thuốc; Về thụ thể kết cặp G protein (GPCR); Thụ thể 
angiotensin II; Các phương pháp nghiên cứu xác định tương tác thụ thể và phối tử; Y 
học cổ truyền và tài nguyên dược liệu. Trình bày các phương pháp nghiên cứu: Quy 
trình chiết xuất dịch chiết methanol; Thu thụ thể màng; Xác định nồng độ protein sử 
dụng phương pháp Bradford; Phương pháp elisa để xác định lượng phối tử gắn 
fluorescein; Quy trình thí nghiệm liên kết (binding assay); Phản ứng tương tác giữa các 
phối tử đã biết và dịch chiết với thụ thể đích; Phương pháp xử lý kết quả. Trình bày kết 
quả và thảo luận: Xác định nồng độ protein thu được từ gan chuột; Tối ưu phản ứng 
ELISA; Tối ưu nồng độ protein thụ thể trong phản ứng liên kết; Thí nghiệm liên kết thụ 
thể - phối tử đặc hiệu (thí nghiệm bão hòa); Phản ứng cạnh tranh của F-AT II với các 
phối tử đã biết; Nghiên cứu sàng lọc một số dịch chiết thực vật. 
 
Keywords. Di truyền học; Thuốc Việt Nam; Đồng vị phóng xạ; Thụ thể 
 
Content 
Việt Nam là một trong những nước có nguồn tài nguyên sinh vật đa dạng và phong phú 
trên thế giới với hơn 13.200 loài thực vật và khoảng 10.000 loài động vật đã được xác định, với 
nhiều nhóm loài sinh vật có tính tính đặc hữu cao, có giá trị khoa học và thực tiễn lớn. 
Xuất phát từ nền văn hóa đa dạng bản sắc với rất nhiều dân tộc sống trải dài trên khắp 
lãnh thổ với các điều kiện tự nhiên và lịch sử riêng đã hình thành nên một nền Y học cổ truyền 
với lịch sử lâu đời hàng nghìn năm, với rất nhiều kinh nghiệm trong sử dụng thuốc trong đời 
sống. Việc dùng thuốc trong nhân dân đã có từ rất lâu đời, tích lũy dưới dạng kinh nghiệm, 
thường chỉ được truyền miệng qua nhiều thế hệ. Hơn 3800 bài thuốc đã được sưu tầm lại, cùng 
với hàng nghìn bài thuốc lưu truyền trong dân gian, đặc biệt là trong cộng đồng các dân tộc 
thiểu số. Tuy nhiên, rất nhiều các bài thuốc và các nguyên liệu làm thuốc như vậy vẫn chưa 
được nghiên cứu cơ chế tác động cũng như cơ sở khoa học vẫn chưa được xác định. 
Có nhiều phương pháp nghiên cứu sàng lọc các hợp chất có hoạt tính sinh học trong 
phát triển thuốc trên thế giới, trong đó phổ biến là phương pháp sử dụng đồng vị phóng xạ (như 
3
H, 
125
I) để nghiên cứu trên các đích phân tử của thuốc. Tuy nhiên, những phương pháp này 
chưa được áp dụng trong điều kiện Việt Nam với nguyên nhân chính là hầu hết các phòng thí 
nghiệm sinh dược học của ta thiếu trang thiết bị nghiên cứu, bảo quản và loại thải các chất 
phóng xạ. 
Vì vậy lý do đó, chúng tôi tiến hành đề tài “Xây dựng phương pháp đo tương tác thụ 
thể và phối tử đặc hiệu không dùng đồng vị phóng xạ phục vụ định hướng phát triển 
thuốc ở Việt Nam” nhằm tiến tới ứng dụng mô hình này nhằm sàng lọc các hợp chất có hoạt 
tính sinh học trên đích phân tử có nguồn gốc từ các cây thuốc, bài thuốc được sử dụng hiệu quả 
trong y học cổ truyền với các tác dụng chữa bệnh tương ứng. 
Trong Luận văn này, chúng tôi tập trung vào đích phân tử là thụ thể angiotensin II, đây 
là đích tác dụng đã được biết của nhiều thuốc có tác dụng hạ huyết áp với cơ chế phân tử đã 
được nghiên cứu tương đối rõ, đồng thời bước đầu tiến hành thử nghiệm với một số dịch chiết 
từ một số cây thuốc Việt Nam đã được biết trong y học cổ truyền với tác dụng trong điều hòa 
huyết áp và điều trị các chứng bệnh liên quan đến tim, mạch và hệ tuần hoàn . 
1. Xác định nồng độ protein thu được từ gan 
Ở chuột và thỏ, có hai nhóm phụ thụ thể angiotensin II khác nhau, là thụ thể Agtr1 (hay 
Agtr1a, hoặc AT
1A
) và Agtr1b (hay AT
1B
). Hai loại thụ thể này do các gen khác nhau quy định 
có trình tự tương đồng quan trọng trong vùng mã hóa. Các thụ thể này tương đồng về ái lực với 
với angiotensin II và các chất đối vận không peptide và không thể phân biệt về mặt dược lý 
mặc dù chúng có sự phân bố khác nhau và được điều hòa khác nhau [25]. So sánh trình tự gen 
mã hóa thụ thể AT
1
 ở người và chuột, có tới hơn 95% trình tự axit amin tương đồng [22], và có 
ái lực tương đồng với chất chủ vận tự nhiên là angiotensin II [25]. 
Gan chuột là mô có sự phân bố của thụ thể angiotensin II cao thứ hai, chỉ sau tuyến 
thượng thận [40]. 
Trong nghiên cứu này chúng tôi chọn mô gan để thu protein thụ thể này do mô gan lớn 
hơn và thu mẫu cũng dễ dàng hơn. 
Sau khi mẫu mô thu được được nghiền đồng thể, tiến hành đo nồng độ protein thu được 
theo phương pháp của Bradford. Với BSA là protein chuẩn, đường chuẩn được xây dựng, với 
phương trình y = ax + b; trong đó y là giá trị OD ở bước sóng 595nm, còn x là giá trị nồng độ 
protein (mg/ml). Với các mẫu pha loãng từ mẫu protein gốc thu được sau khi nghiền đồng thể, 
sau khi đo OD
595
 ta tìm được giá trị OD của mẫu pha loãng trong giới hạn của đường chuẩn đã 
xây dựng, từ đó tính được nồng độ của mẫu pha loãng này rồi từ số lần pha loãng suy ngược ra 
nồng độ của mẫu protein gốc ban đầu. Trong thí nghiệm này, chúng tôi xác định được giá trị 
của nồng độ protein thu được từ gan chuột, nồng độ thu được là 50 mg/ml. 
2. Tối ưu phản ứng ELISA 
Để tối ưu phản ứng ELISA cho các phản ứng giúp xác định được lượng phối tử đặc hiệu 
F-AT II từ phản ứng liên kết, chúng tôi tiến hành thí nghiệm xác định nồng độ thích hợp của 
phản ứng ELISA có thể xác định được. 
 Hình 1. Tối ưu nồng độ pha loãng kháng thể với F-BSA. 
Thí nghiệm được tiến hành với các nồng độ kháng nguyên (fluorescein-BSA) ở các nồng 
độ 0,1; 0,5; và 1 µg/ml. Với mỗi nồng độ kháng nguyên như trên, chúng tối tiến hành với các 
nồng độ kháng thể có gắn enzym horseradish peroxidase lần lượt ở các nồng độ pha loãng là từ 
250 đến 8000 lần (theo giới hạn được khuyến cáo của nhà cung cấp). Kết quả thí nghiệm được 
trình bày trên hình 1. Từ kết quả này, chúng tôi xác định được một số nồng độ cho kết quả thí 
nghiệm đảm bảo các tiêu chí đó là cho kết quả OD ổn định, và giá trị OD
405
 ở trong khoảng giá 
trị đủ lớn (nếu giá trị OD nhỏ, sẽ cho sai số lớn khi kết quả có sự sai số). Tiếp theo, chúng tôi 
tiến hành các thí nghiệm để tìm ra khoảng giới hạn về nồng độ của phối tử đặc hiệu trong phản 
ứng liên kết với thụ thể, đó là angiotensin II được đánh dấu fluorescein (fluorescein-angiotensin 
II, ký hiệu F-AT II). Nhờ phản ứng ELISA cạnh tranh giữa F-AT II với kháng nguyên phủ trên 
đĩa trước đó (F-BSA), chúng ta có thể xác định được khả năng của phương pháp trong việc đo 
lượng phối tử liên kết thụ thể. 
Hình 3.5 biểu diễn kết quả xác định đường chuẩn F-AT II được thiết lập với phản ứng 
elisa với nồng độ kháng nguyên phủ đĩa là 1 µg/ml và nồng độ kháng thể kháng fluorescein là 
pha loãng 3000 lần.  
Hình 2. Đường chuẩn nồng độ F-AT II. 
Như vậy, chúng tôi đã tối ưu hóa thành công phản ứng ELISA giúp đo được nồng độ của 
phối tử đặc hiệu trong phản ứng liên kết với thụ thể đích-thụ thể angiotensin II. Và dải nồng độ 
của phối tử đặc hiệu cũng được xác định trong khoảng từ 10
-11 
M - 10
-8 
M. Đây là khoảng nồng 
độ rất phù hợp cho việc xác định nồng độ của phối tử trong phản ứng liên kết thụ thể - phối tử, 
vì các phản ứng này thường đo được trong khoảng nM (10
-9 
M). 
3. Tối ưu nồng độ protein thụ thể trong phản ứng liên kết 
Để thực hiện được các thí nghiệm liên kết giữa thụ thể và phối tử chúng tôi tiến hành thí 
nghiệm xác định nồng độ protein thụ thể phù hợp cho thí nghiệm. Thí nghiệm được thực hiện 
với dải nồng độ protein thụ thể từ 2,5 mg/ml đến 80 mg/ml. Nồng độ của phối tử đặc hiệu F-
AT II trong các phản ứng này là 10
-8
 M, đây là nồng độ được tham khảo từ những nghiên cứu 
trước đây trên thụ thể này với phối tử đặc hiệu là AT II đánh dấu phóng xạ [47].  
Hình 3. Ảnh hưởng của nồng độ protein với phối tử. 
Kết quả được trình bày trong hình 3, cho thấy ở nồng độ lượng phối tử liên kết đặc hiệu 
với thụ thể đích tăng dần cho đến nồng độ protein là 10 mg/ml, ở đó phản ứng bắt đầu đạt được 
giá trị tối đa. Từ kết quả này, giá trị nồng độ protein thích hợp cho các phản ứng liên kết thụ thể 
- phối tử được chúng tôi thực hiện trong các thí nghiệm tiếp theo là 10 mg/ml. 
Cùng với thí nghiệm này, thời gian ủ cho phản ứng liên kết thụ thể - phối tử cũng được 
thực hiện. Giá trị thời gian ủ phù hợp nhất là 40 phút. 
4. Thí nghiệm liên kết thụ thể - phối tử đặc hiệu (thí nghiệm bão hòa) 
Với các điều kiện thí nghiệm đã tối ưu, đó là thời gian ủ 40 phút, và nồng độ protein thụ 
thể 10 mg/ml đã được xác định thông qua các thí nghiệm trước đó, chúng tôi tiến hành thí 
nghiệm tiếp theo để xác định được các giá trị K
d
 và B
max 
đặc trưng cho phối tử đặc hiệu F-AT 
II. Thí nghiệm được thực hiện với phản ứng liên kết với dải nồng độ phối tử đặc hiệu từ 10
-7
 M 
đến 10
-9
 M.  
Hình 4. Phản ứng bão hòa thụ thể angiotensin II với F-AT II. 
Sử dụng phần mềm Prism 5.04, với mô hình một vị trí liên kết (one site binding model), 
giá trị K
d
 được tính toán là 11,38 nM, kết quả này tương đồng với các nghiên cứu đã được công 
bố trước đó với phối tử đánh dấu phóng xạ [10, 47]. Như vậy, angiotensin II đánh dấu 
fluorescein trong nghiên cứu này của chúng tôi đã cho kết quả rất khả quan khi so sánh với các 
phương pháp đã công bố, và sự ảnh hưởng của việc gắn thêm gốc fluorescein nếu có thì cũng 
không làm ảnh hưởng nhiều đến kết quả của phương pháp này. 
5. Phản ứng cạnh tranh của F-AT II với các phối tử đã biết 
Để xác định sự chính xác và khả năng thay thế của phương pháp sử dụng angiotensin II 
đánh dấu fluorecein so với phương pháp truyền thống (sử dụng phối tử đánh dấu phóng xạ), 
chúng tôi thực hiện các thí nghiệm liên kết cạnh tranh giữa F-AT II với các phối tử đã biết của 
thụ thể đích. Các phối tử cạnh tranh được chọn là angiotensin II không đánh dấu, và một chất 
đối vận của angiotensin II được dùng làm thuốc rất phổ biến hiện nay là losartan (là một trong 
những thuốc bán chạy nhất hiện nay). Giá trị K
i
 thu được được so sánh với các giá trị K
i
 đã 
công bố của các phương pháp khác.  
 a b 
Hình 5. Sự cạnh tranh angiotensin II (a) và losartan (b) với F-AT II trong liên kết với thụ 
thể angiotensin II. 
Sự ức chế của các phối tử với F-AT II trên thụ thể thu được từ gan chuột với AT II (dải 
nồng độ từ 10
-12
 – 10
-4
 M) và losartan (dải nồng độ từ 10
-10
 – 10
-2
 M). Kết quả thu được được 
xử lý, biểu diễn trên hình 5. Giá trị K
i
 của AT II và losartan lần lượt là 13x10
-9
 M và 3,6x10
-7 
M. Giá trị K
i 
 của AT II trong nghiên cứu này là khá tương đồng với các nghiên cứu đã công bố 
trước đây [7, 48], và so sánh với giá trị K
d
 của F-AT II trong nghiên cứu này ta thấy có sự 
tương đồng cao, cho thấy phối tử đánh dấu F-AT II và phối tử không đánh dấu AT II không có 
nhiều khác biệt về ái lực. Điều này cũng củng cố thêm những đánh giá về sự ổn định và ái lực 
của phối tử được đánh dấu fluorescein sử dụng trong các nghiên cứu trong các lĩnh vực khác 
trên thụ thể angiotensin II như trong các nghiên cứu đã được đề cập trong phần tổng quan tài 
liệu. 
Giá trị K
i
 của losartan được xác định cao hơn trong các nghiên cứu khác được xác định 
trong nghiên cứu này của chúng tôi, có thể lý giải điều này là do đây là thuốc được mua từ các 
nhà thuốc, vì vậy có thêm các chất khác bổ sung và độ tinh khiết không cao, như được dùng 
trong các nghiên cứu khác. Mặc dù vậy, việc sử dụng các phối tử cạnh tranh với phối tử đánh 
dấu đã cho thấy phương pháp này cho kết quả chính xác khá cao, và có thể áp dụng được ở Việt 
Nam để thay cho việc sử dụng các phương pháp đánh dấu phóng xạ mà khó áp dụng ở các nước 
đang phát triển. Hơn nữa, phù hợp với các nghiên cứu đánh giá bước đầu để sàng lọc các dịch 
chiết có tác dụng hoạt động trên thụ thể đích. 
6. Nghiên cứu sàng lọc một số dịch chiết thực vật 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã kiểm tra khả năng cạnh tranh của 12 dịch chiết 
methanol của 4 loài cây thuốc được sử dụng trong y học cổ truyền với tác dụng hạ huyết áp, và 
các tác dụng liên quan như giãn mạch. Các loài này bao gồm cỏ mần trầu (Eleusine indica 
Gaertn.), hạ khô thảo (Prunella vulgaris L.), hòe (Sophora japonica Linn.), tầm gửi (Taxillus 
philippensis Cham. & Schl. Ban.). Đây là các cây thuốc được sử dụng lâu đời trong các bài 
thuốc y học cổ truyền, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi, được chúng tôi tham khảo trong tài 
liệu “cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam” do viện Dược liệu biên soạn. Cây tầm gửi 
(Taxillus philippensis Cham. & Schl. Ban.) là một cây đang được chú ý với một số công bố mới 
hiện nay. 
Các thí nghiệm liên kết được tiến hành với thể tích mẫu dịch chiết methanol đưa vào các 
phép thử dưới 5% theo tổng thể tích phản ứng (trong thí nghiệm của mình, chúng tôi thử với 
thể tích dịch chiết chiếm 1% thể tích phản ứng để hạn chế ảnh hưởng của dung môi chiết đến 
thí nghiệm. Dịch chiết của các mẫu được kiểm tra với dải nồng độ từ 0,01 µg/ ml cho đến 1000 
µg/ml. 
Với các mẫu dịch chiết cỏ mần trầu (các mẫu PEI081101, PEI081102 và PEI081101). 
Giá trị IC
50
 thu được lần lượt là 1,6 ± 0,3; 1,1 ± 0,5 và 0,7 ± 0,6. Kết quả này cho thấy các mẫu 
dịch chiết cỏ mần trầu có tiềm lực ức chế phản ứng giữa F-AT II với thụ thể angiotensin II cao. 
Dựa vào phương trình Cheng-Prusoff, giá trị K
i
 của các mẫu được tính toán là 1,2; 0,8 và 0,5 
µg/ml.  
Hình 6. Ức chế liên kết F-AT II với thụ thể angiotensin II bởi dịch chiết cỏ mần trầu. 
Liên kết đặc hiệu và giá trị IC
50
 (trong ngoặc) được xác định với các mẫu  PEI081101 (a);  
PEI081102 (b); ▼ PEI081103 (c). 
Với các mẫu dịch chiết hạ khô thảo (LPV081101, LPV081102, LPV081103), giá trị IC
50 
thu được đạt giá trị xoay quanh 0,8 µg/ml (lần lượt với các mẫu là 1,1 ± 0,4; 0,8 ± 0,6 và 0,5 ± 
0,3). Điều này cho thấy, các dịch chiết này có khả năng ức chế cao phản ứng tương tác giữa thụ 
thể angiotensin II với phối tử đặc hiệu của nó. Giá trị K
i
 của các mẫu này trung bình là khoảng 
0,8 µg/ml. Kết quả cho thấy, có thể có những chất có tác dụng dược lý tác dụng lên thụ thể 
angiotensin II trong các mẫu dịch chiết từ cỏ mần trầu và hạ khô thảo. Đây là những cây cần 
được chú ý cùng trong các nghiên cứu sâu hơn của đề tài này.  
Hình 7. Ức chế liên kết F-AT II với thụ thể angiotensin II bởi dịch chiết hạ khô thảo. 
Liên kết đặc hiệu và giá trị IC
50
 (trong ngoặc) được xác định với các mẫu  LPV081101 (d);  
LPV081102 (e); ▼ LPV081103 (f). 
Log [dịch chiết], µg/ml 
0 0,01 0,1 1 10 100 1000 
 Log [dịch chiết], µg/ml  
Hình 8. Ức chế liên kết F-AT II với thụ thể angiotensin II bởi dịch chiết hòe. Liên kết 
đặc hiệu và giá trị IC
50
 (trong ngoặc) được xác định với các mẫu  FSJ081101 (j);  
FSJ081102 (k); ▼ FSJ081103 (l).  
Hình 9. Ức chế liên kết F-AT II với thụ thể angiotensin II bởi dịch chiết tầm gửi. Liên 
kết đặc hiệu và giá trị IC
50
 (trong ngoặc) được xác định với các mẫu  LTP081101 (g);  
LTP081102 (h); ▼ LTP081103 (i). 
Hình 8 và 9 biểu diễn đồ thị ức chế của các mẫu hòe và tầm gửi trong với phản ứng thụ 
thể angiotensin II và F-AT II. Kết quả thu được từ các thí nghiệm cho thấy: các mẫu dịch chiết 
từ nụ hòe có tiềm lực ức chế yếu hơn của cỏ mần trầu và hạ khô thảo (hình 7 và 8). 3 mẫu thử 
của hòe cho IC
50
 có khả năng ức chế mạnh nhất với mẫu FSJ081101 (IC
50
 = 13 ± 2 µg/ml) và 
yếu nhất là mẫu FSJ081102 (IC
50
 = 71 ± 45 µg/ml). K
i
 thu được của các mẫu hòe là từ 9,2 đến 
Log [dịch chiết], µg/ml  
Log [dịch chiết], µg/ml 
93,5 µg/ml. Trong khi đó các mẫu dịch chiết của tầm gửi thể hiện khả năng ức chế rất yếu với 
giá trị IC
50
 trên 100 µg/ml, lên tới gần 1000 µg/ml (với mẫu LTP081103). 
Bảng 1. IC
50
 và K
i
 của các mẫu dịch chiết trong nghiên cứu 
Dịch chiết 
Mẫu 
IC
50
 (g/mL) 
K
i
 (g/mL) 
Eleusine indica – Cỏ mần trầu 
PEI081101 
 1.6 ± 0.3 
 1.2 
PEI081102 
 1.1 ± 0.5 
 0.8 
PEI081103 
 0.7 ± 0.6 
 0.5 
Prunella vulgaris – Hạ khô thảo 
LPV081101 
 1.1 ± 0.4 
 0.8 
LPV081102 
 0.8 ± 0.6 
 0.6 
LPV081103 
 0.5 ± 0.3 
 0.3 
Sophora japonica – Hòe 
FSJ081101 
13 ± 2 
 9.2 
FSJ081102 
 71 ± 45 
 52.7 
FSJ081103 
26 ± 9 
 19.2 
Taxillus philippensis – Tầm gửi 
LTP081101 
126 ± 32 
 93.5 
LTP081102 
330 ± 80 
243.9 
LTP081103 
800 ± 53 
591.7  
References 
Tài liệu tiếng Việt 
1. Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Chung, Bùi Xuân Chương, Nguyễn Thượng Dong và các cộng 
sự (2003), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập I và II, NXB Khoa học và kỹ 
thuật, Hà Nội. 
2. Nguyễn Xuân Thắng (2003), Hóa sinh dược lý phân tử, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà 
Nội. 
3. Tăng huyết áp và điều trị trong y học cổ truyền, giáo trình học viện Y dược học cổ truyền 
Việt Nam. 
4. Phạm Nguyễn Vinh, Hồ Quang Trí, Hà Ngọc Bản, Phạn Nguyễn Khoa (2006), Bệnh tăng 
huyết áp: cơ chế - dịch tễ - lâm sàng chẩn đoán và điều trị, Viện Tim thành phố Hồ Chí 
Minh. 
Tài liệu tiếng Anh 
5. Ayensu E.S., DeFilipps R.A. (1978), Endangered and Threatened Plants of the United 
States. Washington, DC:Smithsonian Institution. 
6. Beck-Sickinger, A.G. (1996), Structural characterization and binding sites of G-protein-
coupled receptors. Drug Discovery Today, 1:502–513. 
7. Bergsma DJ, Ellis C, Kumar C, et al. (1992), Cloning and characterization of a human 
angiotensin II type 1 receptor. Biochem Biophys Res Commun, 183:989-995. 
8. Berk BC, Corson MA. (1997), Angiotensin II signal transduction in vascular smooth 
muscle: role of tyrosine kinases. Circ Res, 80:607-616. 
9. Birnbaumer L, Abramowitz J, Brown AM. (1990), Receptor-effector coupling of G 
proteins. Biochim Biophys Acta, 1031:163–224. 
10. Bouscarel B., Blackmore P.F., Exton J.H. (1988), Characterization of the angiotensin II 
receptor in primary cultures of rat hepatocytes. J Biol Chem, 263(29): 14913 – 14919. 
11. Bradford M.M. (1976), Rapid and sensitive method for the quantitation of microgram 
quantities of protein utilizing the principle of protein-dye binding, Anal. Biochem. 72: 248–
254. 
12. Carey RM, Wang ZQ, Siragy HM. (2000), Role of the angiotensin type 2 receptor in the 
regulation of blood pressure and renal function. Hypertension, 35:155-163. 
13. Curnow KM, Pascoe L, White PC. (1992), Genetic analysis of the human type-1 
angiotensin II receptor. Mol Endocrinol, 6:1113-1118. 
14. Current Protocols in Molecular Biology John Wiley & Sons; 2003. 
15. Cheng YC, Prusoff WH. (1973), Relationship between the inhibition constant (K
i
) and the 
concentration of inhibitor which causes 50 percent inhibition (IC
50
) of an enzymatic 
reaction. J Biochem Pharmacol, 22: 3099 –3103. 
16. de Jong L.A., Uges D.R., Franke J.P., Bischoff R., (2005), Receptor-ligand binding assays: 
technologies and applications. J Chromatogr B Analyt Technol Biomed Life Sci, 829: 1–25. 
17. Ernst, E. (1999), Efficacy of Herbal Medicine: Do they Work and Are they Safe?, 
Pharmaceutical News, Focus on Contemporary Medicine, Special Issue, p. 17. 
18. Fabricant D.S., Farnsworth N.R. (2011), The value of plants used in traditional medicine 
for drug discovery. Environ Health Perspect, 109:69–75. 
19. Farnsworth N.R., Akerele O., Bingel A.S., Soejarto D.D., Guo Z. (1985), Medicinal plants 
in therapy. Bull WHO 63:965–981. 
20. Fourth Country Report: Vietnam’s Implementation of the Biodiversity Convention, ASEAN 
Biodiversity Magazine. 
21. Gonzalez-Villalobos R, Klassen RB, Allen PL, Navar LG, Hammond TG. ((2005)), 
Megalin binds and internalizes angiotensin II. Am J Physiol Renal Physiol, 288:F420-
F427. 
22. Guo D.F., Sun Y.L., Hamet P., Inagami T. (2001), The angiotensin II type 1 receptor and 
receptor-associated proteins. Cell Research, 11, 165–180. 
23. Harmer, I.J. and Samuel, D. (1989), The FITC-anti-FITC system is a sensitive alternative to 
biotin- streptavidin in ELISA. J. Immunol. Methods, 122. 115-122. 
24. Hernandez-Presa M., Bustos C., Ortego M., et al.(1997), Angiotensin-converting enzyme 
inhibition prevents arterial nuclear factor-kappa B activation, monocyte chemoattractant 
protein-1 expression, and macrophage infiltration in a rabbit model of early accelerated 
atherosclerosis. Circulation, 95:1532-1541. 
25. Hoe K.L., Saavedra J.M. (2002), Site-directed mutagenesis of the gerbil and human 
angiotensin II AT(1) receptors identifies amino acid residues attributable to the binding 
affinity for the nonpeptidic antagonist losartan. Mol Pharmacol., Jun;61(6):1404-15. 
26. Janssen MJ, Ensing K, de Zeeuw RA. (2001), A fluorescent receptor assay for 
benzodiazepines using coumarin-labeled desethylflumazenil as ligand. Anal Chem. Jul 
1;73(13):3168-73. 
27. Jourdain E., et al. (2011), The Pattern of Influenza Virus Attachment Varies among Wild 
Bird Species. PLoS One 6:e24155. 
28. Katzung B.G. (2007), Basis and clinical pharmacology, 10
th
 ed. McGraw Hill, LANGE. 
29. Lefkowitz R.J., Roth J., Pastan I. (1970), Radioreceptor Assay of Adrenocorticotropic 
Hormone: New Approach to Assay of Polypeptide Hormones in Plasma. Science 170: 633. 
30. Li XC, Carretero OA, Navar LG, Zhuo JL. (2006), AT1 receptor-mediated accumulation of 
extracellular angiotensin II in proximal tubule cells: role of cytoskeleton microtubules and 
tyrosine phosphatases. Am J Physiol Renal Physiol, 291:F375-F383. 
31. Lloyd R.V. ( 2001), Morphology methods: cell and molecular biology techniques. Humana 
Press. 
32. Lundstrom K.H. and Chiu M.L. (2006), G Protein-Coupled Receptors in Drug Discovery, 
CRC Press Taylor & Francis Group,. 
33. Mahoney CW. (1999), High-throughput nonradioisotopic determination of binding of 
platelet-derived growth factor to platelet-derived growth factor receptor beta-extracellular 
domain using biotinylated ligand with enzyme-linked immunosorbent assay. Anal 
Biochem., 276(1):106-8. 
34. Nakajima M., Hutchinson H.G., Fujinaga M., et al. (1995), The angiotensin II type 2 (AT2) 
receptor antagonizes the growth effects of the AT1 receptor: gain-of-function study using 
gene transfer. Proc Natl Acad Sci USA, 92:10663-10667. 
35. Noda K, Feng YH, Liu XP, et al. (1996), The active state of the AT1 angiotensin receptor is 
generated by angiotensin II induction. Biochemistry, 35:16435-16442. 
36. Noga E.J., Udomkusonsri P.(2002), Fluorescein: A rapid, sensitive, nonlethal method for 
detecting skin ulceration in fish. Vet Pathol 39:726–731. 
37. Nguyen Dao Ngọc Van and Nguyen Tap (2008), An overview of the use of plants and 
animals in traditional medicine systems in Vietnam:A Traffic Southeast Asia report, 
Published by TRAFFIC. 
38. Overington J.P., Al-Lazikani B., Hopkins A.L. (2006), How many drug targets are there? 
Nature Rev. Drug Discov. 5: 993–996. 
39. Pierce KL, Premont RT, Lefkowitz RJ. (2002), Seven-transmembrane receptors. Nature 
Rev, 3:639–650. 
40. Regard JB, Sato IT and Coughlin SR (2008), Anatomical profiling of G protein-coupled 
receptor expression. Cell, Volume 135, Issue 3, 561-571. 
41. Rong Y.P., et al. (2009), The BH4 domain of Bcl-2 inhibits ER calcium release and 
apoptosis by binding the regulatory and coupling domain of the IP3 receptor. Proc Natl 
Acad Sci USA, 106:14397-402. 
42. Ruiz-Ortega M, Lorenzo O, Ruperez M, et al. (2000), Angiotensin II activates nuclear 
transcription factor kappaB through AT(1) and AT(2) in vascular smooth muscle cells: 
molecular mechanisms. Circ, 86:1266-1272. 
43. Solecki R., Shanidar I.V. (1975), A Neanderthal flower burial in northern Iraq. Science 
190:880–881. 
44. Takeuchi T, Tanaka S, Rechnitz GA. (1992), Biotinylated 1012-S conjugate as a probe 
ligand for benzodiazepine receptors: characterization of receptor binding sites and receptor 
assay for benzodiazepine drugs. Anal Biochem., 203(1):158-62. 
45. Trevor A.J, Katzung B.G, Maters S.B. (2010), Pharmacology examination and board 
review, 9
th
 ed. McGraw Hill, LANGE; 2010. 
46. Vogle H.G. (2002), Drug discovery and evaluation: pharmacology assays. 2
nd
 ed. Springer. 
47. Widdowson P.S., Renouard A., Vilaine J.P. (1993), Binding of [
3
H]angiotensin II and 
[
3
H]DuP753 (losartan) to rat liver homogenates reveals multiple sites. Relationship of AT1a 
and AT1b-type angiotensin receptors and novel nonangiotensin binding sites. Peptides, 14(4): 
829 – 837. 
48. World Health Organization (2002), Traditional Medicine Strategy 2002–2005, Geneva. 
49. Zander E.D. (2011), The Science and Business of Drug Discovery. Springer.