Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thu hoạch diễn án dân sự 07 ly hôn hoàng thị hảo và nguyễn văn nguyệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.41 KB, 12 trang )

BỘ TƯ PHÁP
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
---o0o---

BÀI THU HOẠCH DIỄN
ÁN
KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ THAM GIA GIẢI QUYẾT VỤ, VIỆC DÂN SỰ
HỒ SƠ VỤ ÁN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
(HỒ SƠ: LS.DS 07/B4.TH4_DA1/HNGĐ)

VAI DIỄN: LUẬT SƯ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CHO BỊ ĐƠN

Họ và tên

:

Ngày sinh

:

Số báo danh

:

Lớp Luật sư

:

Ngày diễn án



:

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm
MỤC LỤC


2
2


I.

TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU HỒ SƠ

1. Tóm tắt nội dung vụ án
1.1 Tóm tắt nội dung vụ án


Ngun đơn: Hồng Thị Hảo, sinh năm: 15/11/1978

Địa chỉ: Thôn Nam Giàng, xã Thượng Đạt, thành phớ Hải Dương, tỉnh Hải Dương.


Bị đơn: Nguyễn Văn Ngụt, Sinh năm: 08/01/1976

Địa chỉ: Thôn Thượng Trệt I, xã Thượng Đạt, thành phớ Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Ơng Nguyễn Văn Nguyệt và bà Hoàng Thị Hảo qua thời gian tìm hiểu nhau và
được hai bên gia đình đồng ý đã đăng ký kết hôn với nhau tại UBND xã Thượng Đạt,
huyện Nam Sách (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương ngày 26/03/1999,

trên cơ sở tự nguyện (BL02).
Thời gian đầu hai vợ chồng chung sống rất hạnh phúc. Nhưng về sau thì giữa hai
vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi cọ, bất đồng quan điểm với nhau. Nên
hai vợ chồng đã ly thân từ năm 2014.
Trong thời gian chung sớng, hai vợ chồng có hai con chung là: cháu Nguyễn Thị
Nhi (sinh ngày 04/01/2000) và cháu Nguyễn Đức Anh (sinh ngày 13/06/2007).
Cháu Nhi có đơn đề nghị được ở với bà Hảo (BL 30). Kể từ khi ông Nguyệt và
bà Hảo ly thân thì cháu Nhi đang sớng cùng bà Hảo.
Cháu Đức Anh có đơn đề nghị được ở với bà Hảo, sau làm đơn đề nghị được ở
với ông Nguyệt (BL 31 và BL 32). Kể từ khi ly thân, cháu Đức Anh sống cùng ông
Nguyệt.
Về tài sản chung:
Về phía nguyên đơn cho rằng: Trong thời kỳ chung sống hai bên đã tạo lập được
khối tài sản như sau: Quyền sử dụng đất tại thửa đất tọa lạc tại xã Thượng Đạt, huyện
Nam Sách, tỉnh Hải Dương; Thửa 496, tờ bản đồ 01, diện tích 216 m 2 và tài sản gắn
liền trên đất bao gồm: 01 căn nhà cấp 04 diện tích 18 m 2 mái ngối, 01 gian bếp và nhà
vệ sinh 10 m2, 01 giếng khơi, 01 bể xây gạch xi măng khoảng 1,6 m 2. Nguyên đơn
không đề nghị chia giá trị tài sản trên đất, riêng về quyền sử dụng đất thì ngun đơn
u cầu chia ½ quyền sử dụng đất là 108 m 2, nguyên đơn đồng ý nhận phần khơng có
tài sản trên đất.
Bị đơn cho rằng: Trong thời kỳ hôn nhân, hai bên đã tạo lập được khối tài sản
gắn lền trên đất, cụ thể như sau: 01 căn nhà cấp 04 diện tích 18 m 2 mái ngối, 01 gian
bếp và nhà vệ sinh 10 m2, 01 giếng khơi, 01 bể xây gạch xi măng khoảng 1,6 m 2. Cịn
thửa đất 496 tờ bản đồ sớ 1 có nguồn gớc đất là của bớ mẹ bị đơn và các anh chị em
của bị đơn góp tiền mua của UBND xã Thượng Đạt vào năm 1994. Vào năm 1999
nguyên đơn và bị đơn ra ở trên đất và xây dựng nhà và bếp nêu trên là chỉ cho ở nhờ.
Năm 2005 UBND xã Thượng Đạt và UBND huyện Nam Sách cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đứng tên ơng Nguyệt và bà Hảo. Ơng Nguyệt khơng đứng ra kê
khai chỉ đến khi xã thơng báo thì ơng ra xã ký và nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Do không đồng ý đây là tài sản chung của vợ chồng nên ông không đồng ý chia

theo yêu cầu của bà Hảo. Bị đơn đồng ý chia đôi phần tài sản trên đất, bị đơn đồng ý
3
3


trả phần chênh lệch bằng tiền cho nguyên đơn, cụ thể là bị đơn sẽ trả cho nguyên đơn
số tiền 2.050.000 đồng (Số tiền này căn cứ vào BL 162 Biên bản thỏa thuận giá trị tài
sản và không yêu cầu Tòa án định giá tài sản. Cụ thể, trong biên bản các bên thống
nhất các tài sản trên đất có giá là 4.100.000 đồng).
1.2 Tư cách đương sự


Ngun đơn: Hồng Thị Hảo, sinh năm: 15/11/1978

CMND sớ: 141978672
Địa chỉ: Thơn Nam Giàng, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.


Bị đơn: Nguyễn Văn Ngụt, Sinh năm: 08/01/1976

CMND sớ: 142533710
Địa chỉ: Thôn Thượng Trệt I, xã Thượng Đạt, thành phớ Hải Dương, tỉnh Hải Dương.


Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- UBND thành phố Hải Dương – Đại diện
- Bà Nguyễn Thị Thoa (mẹ ruột bị đơn)
- Ông Nguyễn Văn Cang (cha ruột bị đơn)

Cùng địa chỉ: Khu dân cư số 2, thôn Thượng Trệt, xã Thượng Đạt, thành phớ Hải

Dương, tỉnh Hải Dương.


Người làm chứng: Ơng Nguyễn Văn Bích – cán bộ địa chính xã Thượng Đạt, thành
phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: “Nguyên
đơn là người khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền
và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Bà Hoàng Thị Hảo đã nộp đơn khởi kiện
đến Tòa án nhân thành phố Hải Dương yêu cầu ly hôn với ơng Nguyễn Văn Nguyệt, vì
tình cảm giữa bà Hảo và ơng Nguyệt khơng cịn, bà Hảo khai rằng ơng Nguyệt thường
xuyên đánh đập vợ con. Bởi vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của bà Hảo bị xâm phạm,
nên bà Hảo có quyền nộp đơn u cầu Tịa án giải quyết ly hôn.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: Bị đơn là
người bị nguyên đơn khởi kiện. Như vậy, bà Hảo kiện ơng Nguyệt ra Tịa án nhân dân
thành phớ Hải Dương. Nên ông Nguyệt là bị đơn.
1.3 Yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn
Ngày 02/01/2016 bà Hoàng Thị Hảo nộp đơn khởi kiện đến Tịa án nhân dân
thành phớ Hải Dương, yêu cầu:
- Cho bà ly hôn với ông Nguyễn Văn Nguyệt.
- Về việc nuôi con: Yêu cầu được nuôi 2 con Nguyễn Thị Nhi; Nguyễn Đức Anh
và không yêu cầu ông Nguyễn Văn Nguyệt cấp dưỡng.
- Về tài sản chung: Yêu cầu chia đôi tài sản chung của ông bà là quyền sử dụng
đất tại thửa đất 496, tờ bản đồ sớ 01, diện tích 216m 2 do UBND huyện Nam Sách, tỉnh
Hải Dương cấp ngày 31/12/2005, mỗi người 108 m 2, không đề nghị chia giá trị tài sản
trên đất.
4
4


1.4 Chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

Để chứng minh cho yêu cầu của phía nguyên đơn là có căn cứ. Nguyên đơn đưa
ra những tài liệu, chứng cứ chứng cứ gồm:
- 01 bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (BL 02);
- 01 bản sao Giấy khai sinh cháu Nguyễn Thị Nhi (BL 04);
- 01 bản sao Giấy khai sinh cháu Nguyễn Đức Anh (BL 03);
- 01 bản sao Sổ hộ khẩu gia đình (BL 05-07)
- 01 bản sao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (BL 08-11);
- 01 đơn đề nghị của cháu Nguyễn Thị Nhi (BL 30);
- 01 đơn đề nghị của cháu Nguyễn Đức Anh (BL 31);
1.5 Ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Về ly hơn: Về phía Ơng Nguyệt cho rằng ngun nhân của mâu thuẫn vợ chồng
ơng và gia đình nhà bớ mẹ bà Hảo nên ông đồng ý ly hôn với bà Hảo.
Về việc ni con: Ơng Nguyệt đề nghị được nuôi cháu Nguyễn Đức Anh, riêng
cháu Nguyễn Thị Nhi giao cho bà Hảo nuôi dưỡng và không ai phải cấp dưỡng ni
con cho ai.
Về tài sản chung: Ơng Nguyệt cho rằng tài sản chung của ơng, bà chỉ có 01 căn
nhà cấp 04 diện tích 18 m 2 mái ngới, 01 gian bếp và nhà vệ sinh 10 m 2, 01 giếng khơi,
01 bể xây gạch xi măng khoảng 1,6 m2 và ông đồng ý các tài sản này chia đơi, ai sử
dụng thì trả phần tiền chênh lệch. Cụ thể, ông Nguyệt sẽ trả cho bà Hảo số tiền
2.050.000 đồng. Còn quyền sử dụng đất tại thửa đất 496, tờ bản đồ sớ 01, diện tích
216m2 do UBND huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương cấp ngày 31/12/2005 đây không
phải là tài sản chung của hai vợ chồng ông. Nguồn gốc này là do bố mẹ ông Nguyệt
mua của UBND xã Thượng Đạt vào năm 1994. Năm 1999 hai vợ chồng mới xây nhà
và ở tại mảnh đất đó. Vợ chồng ông ra xây dựng nhà ở trên mảnh đất đó nhưng chưa
được bớ mẹ tun bớ cho vợ chồng mảnh đất trên. Năm 2005 UBND xã Thượng Đạt
và UBND huyện Nam Sách tự làm giấy chứng nhận QSDĐ mang tên vợ chồng ông bà
nhưng không ai khiếu kiện và có ý kiến gì. Bà Hảo đề nghị chia đơi thửa đất trên ơng
Nguyệt khơng đồng ý vì cho rằng quyền sử dụng đất trên là của bố mẹ ông.
1.6 Chứng cứ để chứng minh của bị đơn
- 01 bản tự khai của bị đơn (BL 24);

- 01 bức thư của bà Thoa - mẹ Bị đơn (BL 143-145);
- 01 đơn đề nghị của cháu Đức Anh (BL 32).
1.7 Những vấn đề nguyên đơn và bị đơn đã thỏa thuận được:
Thứ nhất, về nợ chung: giữa nguyên đơn và bị đơn xác nhận số tiền nợ ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn là 30.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh.
Nguyên đơn đã trả 10.000.000 đồng và lãi phát sinh. Bị đơn đã trả 10.000.000
đồng và lãi phát sinh. Vậy, nợ chung còn lại là 10.000.000 đồng và lãi phát sinh, nên
các bên đã thống nhất mỗi bên trả 5.000.000 đồng và lãi phát sinh.
5
5


Ngày 28/06/2016 phía nguyên đơn và bị đơn đã thanh tốn hết sớ tiền nợ (cả gớc
và lãi) và Ngân hàng cũng đã trả ơng Nguyệt Giấy CNQSDĐ. Vì vậy, phần nợ chung
khơng u cầu Tịa án giải quyết.
Thứ hai, Theo biên bản thỏa thuận ngày 20/06/2016 (BL 162), không u cầu
Tịa án giải quyết đới với diện tích 1950m 2 đất thuê khoán của UBND xã Thượng Đạt
tại Bãi Nam, khu dân cư số 2, Thượng Trệt.
Thứ ba, Do thỏa thuận, thống nhất được với nhau về giá trị tài sản nên không yêu
cầu định giá tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất tại thửa đất 496, tờ bản đồ
số 1 tại thôn Thượng Trệt, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương.
2. Kết quả nghiên cứu hồ sơ
2.1 Quan hệ pháp luật tranh chấp
Tại khoản 1 Điều 28 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 quy định:
“Điều 28. Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tịa án:
1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn.”
→ Vậy quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản”.

2.2 Thời hiệu khởi kiện

Tại khoản 1 điều 155 Bộ Luật dân sự 2015 quy định:
“Điều 155. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện
1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.”
Và tại khoản 1 Điều 39 Bộ Luật dân sự 2015 quy định:
“Điều 39. Quyền nhân thân trong hơn nhân và gia đình
1. Cá nhân có quyền kết hơn, ly hơn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định
cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân
thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành
viên gia đình.
Con sinh ra khơng phụ thuộc vào tình trạng hơn nhân của cha, mẹ đều có quyền và
nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình.”
→ Vậy tranh chấp “Ly hơn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản” không áp dụng thời hiệu

khởi kiện.
2.3 Thẩm quyền của Tòa án
Tại khoản 1 Điều 28 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 quy định:
“Điều 28. Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tịa án
1. Ly hơn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn.”
Từ những căn cứ trên đây, giữa bà Hảo và ông Nguyệt là “Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con, chia tài sản” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Căn cứ tại điểm a, khoản 1 điều 35 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015:
“Điều 35. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
6
6


1. Tịa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những
tranh chấp sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của

Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;”
Vậy, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết.
Tại điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS 2015 về Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh
thổ, quy định:
“1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định
như sau:
a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có
trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này.”
Vậy, Thẩm quyền Tịa án theo lãnh thổ thì tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nơi bị đơn cư trú.
→ Vậy thẩm quyền giải quyết là TAND cấp huyện, nơi bị đơn cư trú. Cụ thể là Tịa án

nhân dân thành phớ Hải Dương, tỉnh Hải Dương có thẩm quyền giải quyết.
2.4 Văn bản luật áp dụng
- Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
- Bộ luật dân sự 2015;
- Luật hơn nhân gia đình 2014;
- Luật đất đai năm 2003;
- Luật đất đai năm 2013;
- Luật chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em năm 2004;
- Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành luật hơn nhân gia đình;
- Thơng tư liên tịch sớ 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
06/01/2016 của TANDTC, VKSNDTC và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014;
- Nghị quyết sớ 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của HĐTP TANDTC hướng
dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của
Quốc hội về việc thi hành Bộ luật TTDS và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày

25/11/2015 về việc thi hành Bộ luật TTHC;
II. KẾ HOẠCH HỎI CỦA LUẬT SƯ
1. Hỏi nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Hảo
Bà Hảo cho biết sau mỗi lần chị ghen tuông và bỏ về nhà bớ mẹ đẻ thì ơng
Nguyệt có qua xin lỗi và thuyết phục chị về nhà hay khơng?
2) Hiện tại bé Nhi cịn đang đi học khơng?
1)

7
7


3)
4)
5)
6)
7)
8)
9)
10)
11)

12)
13)

Cơng việc hiện tại của chị là gì? Thời gian làm việc và thu nhập hiện tại của
chị ra sao?
Ngoài khoản thu nhập chị vừa nêu trên thì chị cịn khoản thu nhập nào khác
nữa không?
Đối với khoản thu nhập hiện tại của chị thì chị có đảm bảo được cuộc sớng

của chị và đảm bảo chăm sóc được cho 02 cháu hay không?
Khi chị và ông Nguyệt ly thân, thì 02 cháu có mong ḿn ở với ai khơng?
Vậy tại sao cháu Đức Anh lại có đơn đề nghị muốn ở với ông Nguyệt?
Khi chưa ly thân, ông Nguyệt có quan tâm chăm sóc vợ con hay khơng?
Bên phía gia đình ơng Nguyệt có cho vợ chồng chị thửa đất số 496 tờ bản đồ
số 01 tại xã Thượng Đạt, thành phớ Hải Dương hay khơng?
Có bất cứ văn bản nào thể hiện việc ông Cang và bà Thoa tặng cho mảnh đất
trên cho vợ chồng chị không?
Theo biên bản ngày 23/02/2016 chị cho rằng thửa đất trên được bố mẹ ông
Nguyệt tặng cho vợ chồng anh chị. Nhưng tại biên bản hịa giải 19/05/2016
chị lại khai rằng bớ mẹ ơng Nguyệt khơng có bất kì cuộc họp hay tuyên bố
tặng cho thửa đất trên cho vợ chồng anh chị. Chị có thấy lời khai mình có
mâu thuẫn hay khơng?
Chị có thực hiện bất kỳ thủ tục nào để được UBND cấp Giấy chứng nhận
QSDĐ không?
Anh chị đã sử dụng và xây dựng những gì trên mảnh đất này?

2. Hỏi bị đơn: Ơng Nguyễn Văn Ngụt
1)
2)
3)
4)
5)
6)
7)
8)

9)
10)


Anh có dùng lời lẽ xúc phạm vợ con, thậm chí là dùng vũ lực với vợ con
mỗi khi đi chơi về không?
Công việc hiện tại của anh là gì? Thời gian và thu nhập ra sao?
Nếu anh đi làm về muộn có ai chăm sóc cháu Đức Anh khơng?
Hiện tại, anh có cho cháu Đức Anh đi học khơng?
Anh có thường liên lạc trao đổi về chuyện học tập của cháu Đức Anh với
giáo viên chủ nhiệm và nhà trường khơng?
Anh có biết cháu Đức Anh muốn ở với anh không?
Tại sao anh không yêu cầu bà Hảo cấp dưỡng nuôi con?
Từ khi anh chị sinh sống trên thửa đất 496 tờ bản đồ số 01 tại xã Thượng
Đạt, thành phố Hải Dương, bà Hảo có bỏ cơng sức ra bồi đắp thửa đất này
hay không?
Nguồn gốc thửa đất số 496 tờ bản đồ số 01 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải
Dương có từ đâu?
Anh có thực hiện bất kỳ thủ tục nào để UBND cấp Giấy chứng nhận QSDĐ
hay không?

3. Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thoa
1) Nguồn gốc đất tại thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01 tại xã Thượng Đạt, thành

phố Hải Dương có từ đâu?
2) Có phải vợ chồng bà cho vợ chồng ông Nguyệt và bà Hảo thửa đất này không?
3) Tại sao bà khẳng định thửa đất trên là của vợ chồng bà?
4. Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đại diện UBND TP Hải Dương
8
8


1) Trước khi cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, ủy ban nhân dân có nhận được đơn đề


nghị cấp từ ơng Nguyệt và bà Hảo không?
2) Việc cấp GCNQSDĐ cho ông Nguyệt và bà Hảo được căn cứ trên quy định
pháp luật nào?
III. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ BỊ ĐƠN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BẢN LUẬN CỨ
BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO BỊ ĐƠN LÀ ƠNG
NGUYỄN VĂN NGUYỆT
Kính thưa: - Hội đồng xét xử;
Thưa đại diện Viện kiểm sát;
Thưa Luật sư đồng nghiệp!
Tôi tên là Nguyễn Thị X, thuộc VPLS ABC và Cộng sự, thuộc đoàn Luật sư
Thành phố Hồ Chí Minh. Tơi tham gia phiên tịa ngày hơm nay với tư cách là Luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ơng Nguyễn Văn Nguyệt là bị đơn trong vụ án
Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản.
-

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng như diễn biến tại phiên tịa hơm nay, tơi xin
trình bày một sớ ý kiến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn là ơng Nguyễn
Văn Nguyệt như sau:
Về ly hôn: Bị đơn đồng ý về yêu cầu ly hôn của nguyên đơn. Tuy nhiên, lý do dẫn đến
việc ly hôn là giữa hai người khơng cịn tình cảm, khơng cịn hạnh phúc và do tính hay
ghen tng của bà Hảo chỉ vì những lời trêu chọc của bạn bè với ông Nguyệt, bà Hảo
nhiều lần bỏ về nhà mẹ đẻ, khơng chăm sóc con cái, từ đó những mâu thuẫn trong gia
đình ngày càng căng thẳng nên ông Nguyệt đồng ý ly hôn với bà Hảo. Đề nghị HĐXX
đồng ý cho ông Nguyệt và bà Hảo ly hôn căn cứ tại khoản 1 điều 56 Luật hơn nhân và
gia đình năm 2014:
“1. Khi vợ hoặc chồng u cầu ly hơn mà hịa giải tại Tịa án khơng thành thì Tịa án
giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình

hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân
khơng đạt được”.
Về vấn đề nuôi con chung: Tôi xin khẳng định lại rằng, bị đơn ln quan tâm chăm
sóc các cháu, khơng đánh đập hay bạo hành các cháu. Bị đơn khơng có ngăn cấm việc
cháu Đức Anh gặp bà Hảo như lời bà Hảo trình bày.
Về điều kiện ni con của bà Hảo. Bà Hảo không đủ điều kiện để nuôi 02 cháu.
Điều này được thể hiện như sau: thu nhập của bà Hảo hiện tại là từ 4-6 triệu/ tháng,
ngoài ra khơng có thu nhập nào khác (BL 125, BL 126). Chỉ với khoảng thu nhập như
9
9


vậy, chỉ đáp ứng đủ điều kiện của bà Hảo, không đủ điều kiện để nuôi 02 cháu. Ngoài
ra, mỗi ngày bà Hảo phải làm việc từ 8-12h/ ngày chưa kể những ngày bà Hảo phải
tăng ca. Như vậy, bà Hảo khơng đủ thời gian để chăm sóc các con. Việc chăm sóc các
con khơng thể giao phó cho ơng bà ngoại chăm sóc được. Khơng ai có thể chăm sóc
các cháu tớt như bớ mẹ các cháu. Hiện tại, bà Hảo vẫn đang ở nhà bố mẹ đẻ, không có
nơi ở ổn định để có mơi trường tớt cho các cháu phát triển.
Về điều kiện nuôi con của ông Nguyệt: Hiện tại ông Nguyệt đang làm nông
nghiệp và chăn ni tại nhà, có nhà ở và thu nhập ổn định 5 triệu/ tháng, có thời gian
đưa con đi học và quan tâm đến việc học vủa con (BL 104). Ngoài ra, nhà ông Nguyệt
gần nhà ông bà nội, ông bà nội sẽ giúp ông Nguyệt trông nom các cháu. Tại Điều 15
Luật Trẻ em 2016 quy định:“Trẻ em có quyền được chăm sóc, ni dưỡng để phát
triển tồn diện”.
Vì vậy, với điều kiện của ơng Nguyệt thì ơng Nguyệt có điều kiện nhiều hơn để
đảm bảo quyền được ni dưỡng để phát triển toàn diện cho con.
Xét về nguyện vọng cháu Đức Anh (BL sớ 32) ngày 25/1/2016 thì cháu Đức
Anh có nguyện vọng được ở với anh Nguyễn Văn Nguyệt “vì sợ mẹ sẽ khơng cho đi
học như chị Nhi”.

Theo quy định khoản 2 điều 81 luật hôn nhân và gia đình xác định: “Vợ, chồng
thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối
với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tịa án quyết định giao con cho một
bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 7 tuổi trở
lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.
Do đó, để các cháu có thể phát triển tớt nhất thì các cháu phải được tạo điều kiện
cả về vật chất và tinh thần. Không thể để bà Hảo nuôi cả 2 cháu trong khi bà Hảo vừa
đi làm xa lại khơng có thời gian cũng như mức thu nhập khơng đảm bảo cho việc chăm
sóc các cháu.
Từ các lẽ trên, xét về lý lẫn về tình, xét đến quyền lợi về mọi mặt đối với con
chung của nguyên đơn và bị đơn, tơi kính đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Đức Anh
cho bị đơn nuôi dưỡng và chăm sóc, khơng cần ngun đơn cấp dưỡng. Bị đơn đồng ý
để nguyên đơn nuôi dưỡng cháu Nhi và sẽ không cấp dưỡng cho cháu.
Về tài sản chung
Thứ nhất, Về nguồn gốc đất: Căn cứ theo biên bản của UBND xã Thượng Đạt về
việc xét duyệt nguồn gốc đất của ông Nguyễn Văn Nguyệt và bà Hoàng Thị Hảo ngày
08/06/2016 thì thửa đất 496, tờ bản đồ sớ 1 là do ông Nguyễn Văn Cang và bà Nguyễn
Thị Thoa nộp tiền mua đất với giá 1.500.000 một suất với diện tích 216m 2 (BL 147).
Đồng thời sớ tiền mua này là do 2 con trai bà Thoa đóng góp mua cụ thể là anh
Nguyễn Văn Quyết góp 1.000.000 đồng và anh Nguyễn Văn Chuyển góp 500.000
đồng. Bà Thoa là người đi nộp trực tiếp cho UBND xã. Việc mua bán này diễn ra trước
khi ông Nguyệt và bà Hảo kết hôn. Đồng thời theo lời khai của bà Hảo, ông Nguyệt,
bà Thoa, anh Chuyển đều cho rằng nguồn gốc đất trên là do bà Thoa mua bằng tiền
10
10


của anh Chuyển và anh Quyết. Ông Nguyệt và bà Hảo khai rằng, khi cấp Giấy chứng
nhận QSDĐ thì khơng phải ông Nguyệt hay bà Hảo đứng ra kê khai xin cấp Giấy
chứng nhận QSDĐ mà do UBND xã Thượng Đạt và UBND xã Nam Sách tự cấp Giấy

chứng nhận QSDĐ cho ơng Nguyệt và bà Hảo. Ơng Nguyệt khơng đồng ý với yêu cầu
chia đôi tài sản là thửa đất 496, tờ bản đồ số 1 do đây là tài sản của bố mẹ bị đơn,
không phải là tài sản chung của vợ chồng ông Nguyệt và bà Hảo. Do đó, kính đề nghị
HĐXX xem xét trả lại đất cho bố mẹ bị đơn là ông Nguyễn Văn Cang và bà Nguyễn
Thị Thoa, bị đơn nhận lại hiện vật là tài sản trên đất và đồng ý trả cho nguyên đơn ½
giá trị tài sản trên đất bằng tiền, với số tiền 2.050.000 đồng.
Thứ hai, Việc cấp Giấy CNQSDĐ cho ông Nguyệt và bà Hảo là không đúng.
Điều này thể hiện như sau: UBND xã đã khơng tìm hiểu rõ nguồn gớc đất (đây
là đất của gia đình bà Thoa); không thể thấy ai sinh sống trên đất là cấp giấy CNQSDĐ
đất và khẳng định đó là đất thuộc quyền sở hữu của người sớng trên đất đó được.
Theo quy định tại khoản 1 điều 50 Luật đất đai 2003 về điều kiện cấp giấy
CNQSDĐ như sau:
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau
đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng
đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do
cơ quan có thẩm quyền cấp trong q trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hồ, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền
Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c) Giấy tờ hợp pháp về về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền
với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước
ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận
là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất”.
Theo biên bản lời khai của bà Hảo, ông Nguyệt, bà Thoa thừa nhận thửa đất này

là của bà Thoa. Ngoài ra, ông Nguyệt và bà Hảo cũng xác nhận rằng khơng có bất cứ
giấy tờ nào liên quan đến việc tặng cho thửa đất trên. Vì vậy, việc UBND thành phố
Hải Dương cấp Giấy CNQSDĐ là không đúng theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, tôi phản đối yêu cầu áp dụng Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm
phán TANDTC thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 của phía bên Nguyên đơn. Bởi
các lẽ sau: Án lệ số 03 chỉ xác định hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được xác lập
thông qua hành vi cụ thể mà khơng đề cập đến hình thức của hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất. Mặt khác trong nội dung của án lệ đề cập đến việc người được cấp
GCNQSDĐ đã thống nhất với nhau xin kê khai cấp giấy tại UNBND xã;
11
11


Tuy nhiên tại bút lục số 159-160 chỉ thể hiện danh sách các hộ được giao đất trái
thẩm quyền và danh sách các hộ gia, đình cá nhân xin cấp giấy CNQSDD (trong đó có
gia đình anh Nguyệt) mà khơng có bất kì văn bản nào thể hiện sự đồng thuận của vợ
chồng anh Nguyệt xin kê khai cấp GCNQSD thửa đất số 496 tờ bản đồ số 1; Mặt khác,
Theo lời khai của anh Bích tại bút lục sớ 97 thì tại UBND xã Thượng Đạt cũng khơng
lưu trữ bất cứ tài liệu nào về việc xin cấp giấy CNQSDD của vợ chồng anh Nguyệt.
Điều này càng khẳng định những tình tiết, nội dung quan trong trọng vụ việc không
tương ứng với án lệ 03/2016/AL ngày 6/4/2016 nên không thể áp dụng án lệ này cho
quyết định của vụ việc tranh chấp này.
Từ những luận cứ trên, kính đề nghị HĐXX chấp nhận:
Thứ nhất, yêu cầu ly hôn của ngun đơn;
Thứ hai, cơng nhận ơng Nguyệt có quyền trực tiếp ni dưỡng cháu Nguyễn
Đức Anh và bà Hảo có quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Nhi, không ai
phải cấp dưỡng nuôi con.
Thứ ba, hủy Giấy CNQSDĐ mang tên ông Nguyễn Văn Nguyệt và bà Hoàng
Thị Hảo, công nhận QSDĐ cho gia đình bà Nguyễn Thị Thoa.
Trên đây là những quan điểm tơi trình bày để bảo vệ quyền lợi cho phía bị đơn là

ơng Nguyễn Văn Nguyệt. Kính mong Quý toà cân nhắc xem xét và chấp nhận để ra
một bản án đúng pháp luật.
Cảm ơn Hội đồng xét xử đã lắng nghe!
Tôi chân thành cảm ơn.
Tp.HCM, ngày tháng năm
Luật sư. Nguyễn Thị X

12
12



×