MỤC LỤC
TRANG
Mục lục .......................................................................................................... 1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................ 2
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................... 2
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 3
3. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 3
4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm .......................................................... 3
8. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 3
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .......................................................................... 5
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ............................................. 5
1.1. Cơ sở lí luận ...................................................................................... 5
1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................. 6
2. BIỆN PHÁP ............................................................................................... 7
2.1. Giáo viên cần nắm vững kiến thức về từ và nguyên tắc dùng từ 7
2.2. Học sinh cần có sự chuẩn bị kĩ càng trước khi học các tiết Luyện từ
và câu, Tập làm văn............................................................................ 11
2.3. Thống kê các dạng lỗi dùng từ của học sinh lớp 5 ........................ 11
2.4. Giáo viên hướng dẫn từng lỗi cho học sinh ................................... 12
2.5. Giáo viên tổ chức cho học sinh luyện tập, thực hành ................... 18
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ........................................................ 20
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 21
V. PHỤ LỤC.................................................................................................. 22
1/21
I.
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Từ ngữ có vai trị cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và
trong đời sống mỗi con người. Đó là cơng cụ để giao tiếp và tư duy. Đối
với học sinh (HS), từ ngữ càng có vai trị quan trọng. Từ ngữ có tính chất
hai mặt: nó vừa là đối tượng học tập của HS, vừa tạo cho các em công cụ
để học tập các môn học khác. Trong trường Tiểu học, HS được học từ ngữ
một cách trực tiếp và khoa học qua môn Tiếng Việt. Môn Tiếng Việt ở
Tiểu học bao gồm các phân môn: Học vần (Lớp 1), Tập viết (Lớp 1, 2, 3),
Tập đọc, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu và Tập làm văn. Mỗi một
phân mơn lại có một nhiệm vụ chính:
Phân mơn Học vần là phân môn khởi đầu giúp HS chiếm lĩnh và làm
chủ công cụ giao tiếp mới. Cùng với Tập viết, Học vần hướng dẫn
HS biết cách sử dụng từ ngữ tiếng Việt trong học tập và giao tiếp.
Phân môn Tập viết trang bị cho HS bộ chữ cái Latinh và những yêu
cầu kĩ thuật để sử dụng bộ chữ cái đó trong học tập và giao tiếp, từ
đó giúp các em viết thạo chữ quốc ngữ.
Tập đọc có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu hình thành và phát triển năng
lực đọc cho HS.
Chính tả dạy cho HS tri thức và kĩ năng chính tả, phát triển năng lực
sử dụng ngôn ngữ ở dạng viết trong hoạt động giao tiếp.
Dạy học Luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong
phú vốn từ của HS, cung cấp cho HS những hiểu biết sơ giản về từ và
câu, rèn cho HS kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để
diễn đạt tư tưởng, tình cảm của mình, đồng thời có khả năng hiểu
người khác nói gì.
Kể chuyện giúp HS phát triển ngơn ngữ, đặc biệt kĩ năng nghe nói.
Phân mơn Tập làm văn nối tiếp tự nhiên các bài học của môn Tiếng
Việt nhằm giúp HS tạo ra năng lực mới: năng lực sản sinh ngơn bản
nói hoặc viết. Tập làm văn có khả năng hàng đầu trong việc rèn cho
HS nói và viết đúng tiếng Việt, có tác dụng lớn trong việc củng cố
nhận thức cho HS.
Tuy rằng mỗi một phân môn Tiếng Việt lại có một vị trí, nhiệm vụ
riêng nhưng tất cả đều có quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau, bổ
sung hỗ trợ cho nhau để đạt được mục tiêu cao nhất của mơn Tiếng Việt,
đó là hình thành bốn kĩ năng cho HS: nghe, nói, đọc, viết; từ đó, HS có
2/21
2.
3.
4.
5.
thể sử dụng thành thạo từ ngữ tiếng Việt, phục vụ vào công việc và trong
cuộc sống.
Tuy nhiên, thực tế tại các trường Tiểu học cho thấy việc dạy và học
từ ngữ cịn gặp nhiều khó khăn. Đối với giáo viên (GV), khi dạy phân
môn Luyện từ và câu, GV chưa khai thác sâu các dạng bài tập để từ đó
tìm ra phương pháp dạy tốt giúp HS mở rộng vốn từ. Bên cạnh đó, khi
dạy các tiết viết hay trả bài Tập làm văn, GV cũng chưa có nhiều biện
pháp uốn nắn cách dùng từ của các em sao cho chính xác. Đối với HS,
đặc biệt là HS Tiểu học, trong việc học tập và giao tiếp, các em mắc rất
nhiều lỗi về từ vựng khiến cho việc diễn đạt suy nghĩ, tư tưởng tình cảm
của các em cịn hạn chế. Điều đó ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động học
tập, lao động và trong sinh hoạt đời sống của các em.
Bản thân tơi rất u thích tiếng Việt và muốn tìm ra biện pháp để
việc dạy và học từ ngữ của GV và HS bớt khó khăn hơn, qua đó nâng cao
chất lượng các giờ học Tiếng Việt.
Chính bởi những lí do trên, tơi lựa chọn đề tài “Một số biện pháp
chữa lỗi dùng từ cho học sinh lớp 5”.
Mục đích nghiên cứu
- Xác định được các lỗi dùng từ, nguyên nhân, giải pháp khắc phục phù
hợp với học sinh lớp 5 có hiệu quả trong nghiên cứu và giảng dạy.
- Đề xuất một số biện pháp chữa lỗi dùng từ cho học sinh lớp 5.
- Góp phần làm tăng hiệu quả dạy và học phân môn Luyện từ và câu,
Tập làm văn nói riêng và mơn Tiếng Việt nói chung.
Đối tượng nghiên cứu
- Các lỗi dùng từ của học sinh lớp 5 trong dạy học phân môn Luyện từ
và câu, Tập làm văn.
Đối tượng khảo sát, thực nghiệm
- Học sinh lớp 5
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát: Dùng các giác quan (có thể kết hợp với sử
dụng các phương tiện kĩ thuật) để tri giác các sự vật, hiện tượng, các tài
liệu học tập trong những điều kiện tự nhiên của chúng.
- Phương pháp điều tra: Khảo sát một số đối tượng trên một diện rộng
nhằm phát hiện các quy luật phân bố, trình độ phát triển, những đặc điểm
về mặt định tính và định lượng của đối tượng cần nghiên cứu.
3/21
- Phương pháp thống kê: Thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu, tính tốn
các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho q trình phân
tích, dự đoán và ra quyết định.
- Phương pháp tổng hợp: Người nghiên cứu tổ hợp các tài liệu lí thuyết
đã thu thập từ các nguồn khác nhau, các kết quả quan sát và thống kê
được về sự vật, hiện tượng, đối tượng giáo dục trong và sau quá trình
nghiên cứu, từ đó đưa ra những kết luận cần thiết về sự vật, hiện tượng,
đối tượng giáo dục đó. Đây là một phương pháp hết sức quan trọng trong
nghiên cứu khoa học.
4/21
II.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
1.1. Cơ sở lí luận
Việc sử dụng từ ở các lứa tuổi khác nhau đều bị chi phối bởi sự phát
triển tâm sinh lí của lứa tuổi. Muốn đưa ra một số biện pháp chữa lỗi dùng từ
cho HS Tiểu học, chúng ta phải chú ý đến các đặc điểm tâm lí và việc sử
dụng từ ngữ của các em để chiểu theo đó mà có phương hướng và phương
pháp, biện pháp chữa thích hợp.
Hầu hết HS lớp 5 có ngơn ngữ nói thành thạo, ngơn ngữ viết bắt đầu
hồn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Cũng với đó, nhờ có bộ não
phát triển, trí tưởng tượng của các em phát triển phong phú hơn. Các em bắt
đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh... Tuy nhiên tưởng tượng
của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình
cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình
cảm của các em. Các em vẫn còn nhỏ tuổi, vốn sống cịn ít nên vốn từ cũng
ít. Những từ ngữ mà các em sử dụng thường có tính chất khẩu ngữ, hồn
nhiên, chủ yếu là bắt chước theo lối nói của người lớn hoặc trong những cuốn
truyện tranh hàng ngày các em hay đọc.
Do tư duy của trẻ ở lứa tuổi Tiểu học cịn nặng tính hình tượng nên các
em tiếp nhận từ trừu tượng khó hơn nhiều so với từ cụ thể. HS lớp 5 bắt đầu
biết khái quát hóa lí luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức
của các em vẫn cịn sơ đẳng. Trí nhớ của HS lớp 5 được phát triển và tăng
cường nhưng hiệu quả ghi nhớ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ
tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố
tâm lí tình cảm hay hứng thú của các em. Vì thế phần đơng học sinh lớp 5
cịn kém trong việc nắm bắt cũng như khả năng ghi nhớ kiến thức về từ.
Trong quá trình học tập, sự tập trung chú ý của HS lớp 5 đã bắt đầu
bền vững. Các em có thể tập trung vào bài giảng và ít bị phân tán trong giờ
học. Kĩ năng tổ chức, điều chỉnh sự chú ý của trẻ dần hình thành. Các em đã
có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập cũng như trong việc tiếp nhận
các kiến thức về từ ngữ. Tuy vậy, các em vẫn còn nhỏ tuổi nên thường quan
tâm chú ý đến những mơn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp
dẫn, có nhiều tranh ảnh, trị chơi... Nhưng thơng thường, những tiết dạy hàng
ngày của GV ít khi sử dụng những đồ dùng dạy học đó. Vì thế, sự tập trung
chú ý của HS vào bài học cũng thấp hơn, nếu có thì cũng chỉ tập trung ở
những HS có học lực khá giỏi.
5/21
Như ta thấy, HS lớp 5 đã nắm được tiếng mẹ đẻ khá vững. Các em đều
có thể nói năng chính xác, trơi chảy. Tiếp nhận lời nói của người khác, các
em cũng đều hiểu đầy đủ, rõ ràng. Tuy nhiên, ngơn ngữ của các em cịn nhiều
hạn chế. Trong cuốn sách “Từ ngữ ở trường Tiểu học” (1975), tác giả
Ch.Hondard cho biết: Về mặt số lượng, những gì HS Tiểu học có được vẫn
chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu, tuy các em có được một vốn liếng
khoảng 4900 từ (vốn từ này, đối với một số người học ngoại ngữ sẽ là rất
quý, đạt được thật không phải là đơn giản), nhưng so với yêu cầu đối với một
người lớn có trình độ văn hóa trung bình, cần đến 25000 từ trong giao tiếp
thơng thường thì quả còn thiếu nhiều. Số lượng các từ chưa đủ để có thể vận
dụng trong những hồn cảnh nói năng đa dạng trong cuộc sống. Về mặt chất
lượng, khiếm khuyết trong ngôn ngữ của HS lại càng cần phải chú ý nhiều
hơn. Từ ngữ các em dùng thường được hiểu một cách hạn hẹp, phiến diện,
thậm chí có lúc cịn sai lệch nữa. Khi diễn đạt những ý tương đối phức tạp thì
từ mà các em sử dụng mang nhiều sai phạm về ngữ pháp. Những từ ngữ mà
các em vẫn dùng là một kiểu loại có tính chất khẩu ngữ, hồn nhiên nhưng
thiếu gọt giũa nên nhiều chỗ không được chuẩn, nếu khơng muốn nói là sai
trầm trọng.
Tóm lại, với HS lớp lớp 5, đặc điểm tâm sinh lí của các em bao gồm tư
duy, trí tưởng tượng, ngơn ngữ, chú ý, trí nhớ... đều có sự phát triển hơn lứa
tuổi đầu bậc Tiểu học. Tuy nhiên, những đặc điểm đó vẫn cịn có những hạn
chế nhất định và ảnh hưởng đến các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày
cũng như việc sử dụng từ ngữ của các em.
1.2. Cơ sở thực tiễn
- Nội dung kiến thức:
Phân môn Luyện từ và câu có nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho HS và
trang bị cho các em một số kiến thức về từ và câu. Khảo sát chương trình
SGK Tiếng Việt, tơi thấy ở lớp 5 có hai tiết Luyện từ và câu mỗi tuần (chưa
kể các tuần ôn tập). Ở lớp 5 các kiến thức lí thuyết được học thành tiết riêng.
Đó là các nội dung như từ và cấu tạo từ, biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa),
các lớp từ đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, từ loại… Ngồi ra, chương trình
cịn cung cấp cho HS một số kiến thức ngữ âm – chính tả như tiếng, cấu tạo
tiếng. Những nội dung này được phân bố như sau:
+ Về vốn từ: Nội dung vốn từ cung cấp cho HS: Ngoài các từ ngữ được
dạy qua các bài Tập đọc, Chính tả, Tập viết… HS được cung cấp vốn từ
một cách có hệ thống trong các bài từ ngữ theo chủ đề. Chương trình đã
xác định vốn từ cần cung cấp cho HS. Đó là, những từ ngữ thơng dụng tối
6/21
thiểu về thế giới xung quanh như công việc của HS ở trường và ở nhà,
tình cảm gia đình và vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, những phẩm chất và
hoạt động của con người… Những từ ngữ được dạy ở Tiểu học gắn với
việc giáo dục HS tình gia đình, nhà trường, yêu Tổ quốc, yêu nhân dân,
yêu lao động… Chúng làm giàu nhận thức, mở rộng tầm mắt của HS,
giúp các em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người, dạy
các em biết yêu và ghét. Nội dung chương trình từ ngữ ở Tiểu học phù
hợp với yêu cầu phát triển ngôn ngữ của HS đồng thời đảm bảo nguyên
tắc giáo dục trong dạy từ. Ở lớp 5, HS được học thêm khoảng 600 – 650
từ ngữ (kể cả thành ngữ, tục ngữ và một số yếu tố gốc Hán thông dụng)
theo các chủ đề: Tổ quốc, Nhân dân; Hịa bình, Hữu nghị, Hợp tác; Thiên
nhiên; Bảo vệ môi trường; Hạnh phúc; Công dân; Trật tự, An ninh;
Truyền thống; Nam và nữ; Trẻ em, Quyền và bổn phận.
+ Các mạch kiến thức và kĩ năng về từ: Các lớp từ (từ đồng nghĩa, từ trái
nghĩa, từ đồng âm, dùng từ đồng âm chơi chữ, từ nhiều nghĩa), Cấu tạo từ
(ôn tập về từ và cấu tạo từ), Từ loại (đại từ, đại từ xưng hô, quan hệ từ,
luyện tập về quan hệ từ, ôn tập về từ loại)
- Cấu trúc các dạng bài: Khảo sát các kiểu bài học Luyện từ và câu
trong SGK, tôi thấy các bài học được chia thành hai dạng bài:
+ Dạng bài tìm hiểu kiến thức mới: Dạng bài này được đặt tên theo
một mạch kiến thức và có phần ghi nhớ được đóng khung. Một bài gồm có
ba phần. Phần “Nhận xét” đưa ngữ liệu chứa hiện tượng cần nghiên cứu và
hệ thống câu hỏi giúp HS nhận xét, phân tích để tìm hiểu nội dung bài học,
giúp HS rút ra được những nội dung của phần ghi nhớ. Phần “Ghi nhớ” tóm
lược những kiến thức và quy tắc của bài học. Phần “Luyện tập” là một tổ hợp
bài tập nhằm vận dụng kiến thức đã học vào trong hoạt động nói, viết.
+ Dạng bài mở rộng vốn từ: Dạng bài này chỉ gồm các bài tập nhưng
lại chứa những nội dung kiến thức mới để HS tự tìm và lĩnh hội kiến thức.
Qua giảng dạy, tôi nhận thấy HS thường mắc rất nhiều lỗi về từ vựng,
ví dụ như dùng từ khơng hợp văn cảnh, dùng từ chưa chính xác, dùng thừa
từ, lặp từ, thiếu từ… GV chưa có nhiều biện pháp uốn nắn cách sử dụng từ
của các em một cách chính xác. Vì thế HS vẫn cịn tái diễn những lỗi dùng từ
trong các bài tập làm văn viết, trong cách nói năng hàng ngày, khiến cho việc
diễn đạt suy nghĩ, tư tưởng tình cảm của các em cịn hạn chế, gây nhiều khó
khăn trong hoạt động học tập, lao động hay trong sinh hoạt đời sống.
2. Biện pháp
2.1. GV cần nắm vững kiến thức về từ và nguyên tắc dùng từ:
7/21
2.1.1. Khái niệm về từ:
Trong cuốn sách “Từ vựng – Ngữ nghĩa tiếng Việt” (NXB Giáo dục,
1999), Giáo sư Tiến sĩ Đỗ Hữu Châu viết: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một
số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm
trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất
định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”.
Khái niệm trên đã đưa ra những cái chung nhất, những đặc tính cơ bản
nhất của từ tiếng Việt và đây được coi là một khái niệm đầy đủ.
2.1.2. Vai trị của từ:
Trong ngơn ngữ, từ là cái quan trọng nhất. Nói cách khác, từ là chất
liệu cơ bản, được sử dụng để tạo ra những đơn vị, kết cấu ở bậc cao hơn. Vì
thế, khơng có từ con người không thể tiến hành giao tiếp được. Và như vậy,
bản thân ngôn ngữ cũng không tồn tại.
Từ ngữ có vai trị đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ, từ là
đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Vai trị của từ trong hệ thống ngơn ngữ quy
định tầm quan trọng của việc dạy từ ngữ ở Tiểu học. Khơng có một vốn từ
đầy đủ thì khơng thể nắm ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp.
Việc học từ ở Tiểu học sẽ tạo cho HS năng lực từ ngữ, giúp HS nắm
tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện để học tập tiếp theo và phát triển toàn diện. Vốn từ
của HS càng giàu bao nhiêu thì khả năng lựa chọn từ càng lớn, càng chính
xác, sự trình bày tư tưởng, tình cảm càng rõ ràng, đặc sắc bấy nhiêu. Vì vậy,
số lượng từ, tính đa dạng, tính năng động của từ được xem là điều kiện quan
trọng hàng đầu để phát triển ngơn ngữ. Cũng chính vì vậy, ở Tiểu học, từ ngữ
được dạy trong tất cả các giờ học của các mơn học khác: Tốn, Tự nhiên xã
hội…, được dạy trong tất cả các phân môn tiếng Việt: Tập đọc, Chính tả,
Luyện từ và câu, Tập làm văn… Ở đâu có dạy nghĩa từ, dạy sử dụng từ thì ở
đó có dạy từ ngữ.
2.1.3. Ngun tắc dùng từ:
2.1.3.1. Dùng từ phải đúng âm thanh
Âm thanh và hình thức cấu tạo là mặt vật chất, là cái biểu đạt của từ.
Chữ viết tiếng Việt theo nguyên tắc ngữ âm học, cho nên cần ghi đúng âm
thanh và cấu tạo của từ được sử dụng, nếu không sẽ khơng biểu hiện chính
xác nội dung ý nghĩa của từ, sự giao tiếp sẽ không đạt hiệu quả như mong
muốn.
2.1.3.2. Dùng từ phải đúng về nghĩa
Nội dung ý nghĩa là một bình diện của từ. Nó là cái được biểu đạt của
mỗi từ. Do đó, muốn đạt được hiệu quả giao tiếp, khi nói, cũng như khi viết,
8/21
phải dùng từ cho đúng với ý nghĩa của từ. Hướng tới yêu cầu này, cần chú ý
tới các phương diện cụ thể sau:
- Mỗi từ gắn với nội dung ý nghĩa nhất định. Vì vậy, từ được dùng phải
biểu hiện được chính xác nội dung cần thể hiện, ý nghĩa của từ phải phù hợp
nội dung định thể hiện. Có những trường hợp khơng đạt được sự phù hợp
này.
Ví dụ: “Lớp 5B còn tồn tại một số yếu điểm như đi học muộn, nói
chuyện trong giờ học”.
“Yếu điểm” có nghĩa là “chỗ quan trọng”. Với nghĩa này, nó khơng
phù hợp với nội dung định thể hiện. Trong câu trên cần dùng từ “điểm yếu”
với nghĩa là “nhược điểm”.
- Nghĩa của từ bao gồm cả thành phần nghĩa sự vật, cả thành phần
nghĩa biểu thái (biểu hiện thái độ, tình cảm, cảm xúc của con người). Trong
tiếng Việt, có một số từ biểu thị cùng một nghĩa nhưng có rất nhiều từ để diễn
đạt. Vì vậy, khi sử dụng, chúng ta phải chú ý để làm sao dùng từ không chỉ
đúng về nghĩa mà còn phải thể hiện được thái độ, tình cảm của mình đối với
vấn đề cần hướng tới.
Ví dụ như các từ: chết, mất, hi sinh, qua đời, từ trần, băng hà, ngỏm,
ngoẻo, toi…; cho, biếu, tặng, hiến, dâng, thí, bố thí,…
- Nghĩa của từ bao gồm cả nghĩa đen và nghĩa bóng (nghĩa gốc, nghĩa
chuyển đổi, nghĩa phát sinh) tạo nên hiện tượng nhiều nghĩa. Các nghĩa này
phát triển từ nghĩa gốc và có quan hệ với nhau trên cơ sở duy trì một nét
nghĩa giống nhau nào đó.
Ví dụ như các từ “đầu” (đầu năm, đầu tháng, đầu tuần, đầu nhà, đầu
làng, đầu núi,…), “chân” (chân thành, chân tình, chân núi, chân mây,…)
Bởi vậy, khi muốn dùng một từ theo cách chuyển đổi ý nghĩa, cần phải
dựa vào nghĩa đen, nghĩa gốc của từ. Hơn nữa, khi đánh giá một từ là đúng
hay sai phải căn cứ vào mối liên hệ với nghĩa gốc của từ. Có những từ lần
đầu tiên được dùng với nghĩa chuyển đổi nào đó, nhưng theo đúng quy luật
chuyển đổi thì vẫn được coi là dùng đúng và có phần sinh động. Chẳng hạn,
với cách dùng từ “sống” trong câu “HS được thực hành trên máy sống” thì từ
“sống” ở đây không phải được dùng theo nghĩa gốc “sinh vật ở trạng thái có
trao đổi chất với mơi trường, có sinh đẻ, lớn lên và chết” mà với nghĩa
chuyển đổi “ở trạng thái vận động được, làm việc được”. Nghĩa chuyển đổi
này có liên hệ với nghĩa gốc. “Máy sống” tức là “máy còn vận hành, hoạt
động được”. Cho nên, từ “sống” trong trường hợp này được công nhận là
đúng.
9/21
2.1.3.3. Dùng từ phải đúng với kết hợp ngữ pháp
Các từ trong câu, trong văn bản ln có mối quan hệ với nhau về ngữ
nghĩa và ngữ pháp. Chúng nằm trong mối quan hệ giữa với những từ đi trước
hoặc đi sau chúng. Vì vậy, khi dùng từ, cần thiết lập cho chúng mối quan hệ
của các từ vì các quan hệ này do bản chất ngữ nghĩa – ngữ pháp của các từ
quy định.
Trong tiếng Việt, một số từ chỉ có khả năng rất hạn chế với một số từ
ngữ nhất định. Chẳng hạn những từ “lườm”, “liếc”, “trợn”, “nhắm”… thường
đi với “mắt”; “vẫy”, “nắm” chỉ biểu thị hành động của tay; từ “nỗi” thường
kết hợp với những từ mang ý nghĩa tiêu cực, từ “niềm” thường kết hợp với
những từ mang ý nghĩa tích cực. Ví dụ như: nỗi đau đớn, niềm sung sướng;
nỗi bất hạnh, niềm hạnh phúc; nỗi thất vọng, niềm hi vọng; nỗi nghi ngờ,
niềm tin tưởng…
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần lưu ý, từ “đã”, “sẽ”, “đang” chỉ kết
hợp với động từ mà không kết hợp với danh từ; số từ không kết hợp với danh
từ tổng hợp.
Tuy nhiên, có những kết hợp bất thường nhưng lại tạo ra giá trị tu từ
như các trường hợp sau: “Nỗi sung sướng của thằng bé khốn nạn” (Nguyễn
Công Hoan), “Hạnh phúc của một tang gia” (Vũ Trọng Phụng), “Bi kịch lạc
quan” (Tuốc-ghê-nhép), “Âm thanh im lặng” (Vũ Quần Phương), “Kẻ sát
nhân lương thiện” (Lại Văn Long)… Đó là biện pháp tu từ nghịch ngữ gây sự
chú ý, tạo ấn tượng mạnh mẽ, đảo nghĩa của các từ trong kết hợp.
2.1.3.4. Dùng từ phải đúng phong cách ngôn ngữ
Mỗi phong cách ngôn ngữ được sử dụng trong một phạm vi nhất định,
nhằm thực hiện mục đích giao tiếp nhất định. Người sử dụng phải căn cứ vào
hoàn cảnh giao tiếp để sử dụng từ cho phù hợp. HS Tiểu học thường mắc lỗi
dùng từ của ngôn ngữ nói sang ngơn ngữ viết, hoặc ngược lại.
Ví dụ: Cô giáo em đẹp đẹp là. Hai mắt cô nom như thủy tinh.
2.1.3.5. Dùng từ phải tránh sáo rỗng
Người viết thường sử dụng một số từ được lặp lại nhiều lần mà khơng
quan tâm nội dung có phù hợp khơng.
Ví dụ: Nhà bà ngoại ni một con chó. Hàng ngày, em thường sang
thăm nom nó. Càng yêu chó bao nhiêu, em càng chăm học bấy nhiêu.
Trong tiếng Việt, từ càng biểu thị mức độ cùng tăng thêm như nhau.
Tuy nhiên, ở ví dụ trên, 2 vế câu u chó và chăm học khơng có mối quan hệ
đó. Vì thế, việc người viết dùng từ càng lặp lại như trên là không phù hợp về
mặt nội dung.
10/21
2.1.3.6. Dùng từ phải tránh dùng thừa từ, lặp từ, thiếu từ
Khi sử dụng từ trong giao tiếp, để sự diễn đạt chặt chẽ, ngắn gọn,
mạch lạc, cần tránh việc dùng thừa từ, lặp từ hoặc thiếu từ.
Ví dụ:
+ Chúng em đại diện thay mặt lớp chúc cô sức khỏe.
+ Em rất kính u, q mến ơng bà.
Ở các ví dụ trên, cần phải bỏ một trong hai từ đại diện hoặc thay mặt,
cũng như kính yêu hoặc quý mến bởi đó là những từ đồng nghĩa. Có như vậy,
sự diễn đạt của người nói mới chặt chẽ, ngắn gọn và mạch lạc.
Tóm lại, một vốn từ phong phú sẽ giúp chúng ta tự tin, suy nghĩ, ứng
biến nhanh trong mọi tình huống giao tiếp, thuận lợi trong cơng việc và học
tập. Sự phong phú ở đây khơng có nghĩa là nằm ở số lượng, mà là chất lượng
của vốn từ. Bởi vậy, ngoài việc nắm vững nghĩa của từ thì chúng ta khơng chỉ
dừng lại ở việc dùng từ đúng mà còn phải biết lựa chọn từ hay, sử dụng đúng
ngữ cảnh để chuyển tải đúng những thông điệp của mình.
2.2.
HS cần có sự chuẩn bị kĩ càng trước khi học các tiết Luyện từ và
câu, Tập làm văn.
2.3.
Thống kê các dạng lỗi dùng từ của học sinh lớp 5:
Qua những bài viết của học sinh, tôi thấy tần số xuất hiện lỗi dùng từ
của HS lớp 5 khá nhiều với các dạng khác nhau. HS Tiểu học sử dụng hình
ảnh so sánh chưa phù hợp. Vốn từ nghèo nàn nên dẫn đến việc diễn đạt lủng
củng. Đặc biệt HS hay mắc lỗi dùng thừa từ, lặp từ, thiếu từ. Đây là thực
trạng chung rất phổ biến ở HS Tiểu học.
Các dạng lỗi dùng từ của học sinh Tiểu học
Lỗi dùng thừa
từ, lặp từ,
thiếu từ
Lỗi dùng từ
sáo rỗng
Lỗi về âm
thanh của từ
Lỗi dùng từ
không đúng
văn cảnh
CÁC DẠNG
LỖI
Lỗi về so sánh
từ
11/21
Lỗi dùng từ
thiếu hình ảnh
Lỗi về kết
hợp từ
Lỗi về nghĩa
của từ
HS mắc lỗi dùng từ không đúng văn cảnh. Các em thường sử dụng
những từ ngữ thuộc phong cách ngôn ngữ nói vào trong bài văn viết.
Bên cạnh đó, một số HS sử dụng từ nhưng chưa hiểu rõ nghĩa của từ.
Do vốn từ của các em còn hạn chế nên ảnh hưởng nhiều đến khả năng hiểu
và sử dụng từ của các em. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân
dẫn đến kết quả học tập môn Tập làm văn của HS chưa cao.
Nhận xét một cách tổng quát rằng vốn từ ít ỏi, khả năng hiểu biết và
cách dùng từ hạn chế dẫn đến tình trạng làm bài của các em nặng về liệt kê
hoặc thiên về kể theo ngơn ngữ nói làm bài văn, câu từ chưa rõ ràng.
Bên cạnh đó, khi dạy các tiết Mở rộng vốn từ của phân môn Luyện từ
và câu, tôi nhận thấy cách hiểu cũng như cách dùng từ của HS cịn nhiều hạn
chế. Ví dụ: Khi được gọi nêu nhận xét về đoạn văn của bạn trong giờ Tập làm
văn, có HS thay vì nhận xét “câu văn của bạn lủng củng” thì đã nói như sau:
“Đoạn văn của bạn đúng, nhưng một số câu của bạn còn lủng lẳng”.
Chính từ những điều trên, tơi đã tiến hành tìm ra những nguyên nhân
và mạnh dạn đề xuất một số biện pháp chữa lỗi, nhằm giúp HS loại bỏ lỗi
dùng từ trong bài văn của mình, đồng thời giúp HS nâng cao ý thức về việc
dùng từ, hình thành kĩ năng dùng từ đúng và hay.
2.4.
GV hướng dẫn từng lỗi cho HS:
Ta có thể thấy rằng đa số HS chưa biết sử dụng từ như mong muốn. Tỉ
lệ mắc lỗi dùng từ chiếm khá cao. Điều đó phản ánh rõ rằng bản thân các em
hụt hẫng kiến thức về từ vựng. Đồng thời qua nghiên cứu cơ sở lí luận,
nghiên cứu về nội dung, phương pháp dạy học từ ngữ ở Tiểu học và thực
trạng kĩ năng dùng từ của HS, tơi đã tìm ra ngun nhân của một số loại lỗi
dùng từ cơ bản của HS và xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm góp
phần nâng cao chất lượng bài tập làm văn của các em.
2.4.1. Lỗi dùng thừa từ, lặp từ, thiếu từ
Dùng thừa từ, lặp từ, thiếu từ là lỗi mà HS thường mắc phải trong bài
văn. Nguyên nhân của lỗi này là do HS không nắm chắc nghĩa của từ, không
nắm chắc mô hình câu. Đồng thời, do nghèo về vốn từ, khả năng huy động và
lựa chọn từ hạn chế.
- Ví dụ 1: Buổi sáng trên cánh đồng thật im lặng và yên tĩnh.
- Ví dụ 2: Tiếng ve kêu râm ran làm rung động từng chùm hoa đang từ
từ dần dần hé nở.
- Ví dụ 3: Đã đến giờ vào lớp, tất cả học sinh chạy vào lớp của mình và
nghiêm chỉnh xếp hàng vào lớp.
12/21
- Ví dụ 4: Quả dâu tây có màu đỏ và vị rất ngon. Em thấy quả dâu tây
rất tốt, đẹp da, bổ dưỡng. Em rất thích quả dâu tây.
- Ví dụ 5: Mẹ có dáng dong dỏng cao. Mẹ có gương mặt trịn, mái tóc
dài và đen. Mẹ có chiếc mũi cao và chiếc mơi hơi rộng.
- Ví dụ 6: Làng quê em biết bao nhiêu cảnh đẹp.
Để chữa lỗi dùng thừa từ, lặp từ, thiếu từ trong các câu văn trên, GV
cần phải loại bỏ từ ngữ dùng thừa, dùng lặp đó và bổ sung những từ cịn thiếu
trong câu.
Ở ví dụ 1, cần bỏ một trong hai từ: im lặng hoặc yên tĩnh. Cả hai từ
đều có nghĩa là ở trạng thái khơng có tiếng ồn, tiếng động. Tuy nhiên, nên bỏ
từ im lặng để giữ lại từ yên tĩnh vì từ này giúp cho câu văn miêu tả hay và
truyền cảm hơn.
Ở ví dụ 2, cần phải bỏ một trong hai từ: từ từ hoặc dần dần.
Ở ví dụ 3, HS dùng đến 3 từ vào lớp chỉ trong một câu, do đó cần phải
bỏ bớt đi từ này để câu văn được trôi chảy và gọn hơn (Đã đến giờ vào lớp,
tất cả học sinh chạy vào lớp của mình và nghiêm chỉnh xếp hàng).
Đối với các câu văn ở ví dụ 4, 5 cần phải chữa lỗi lặp từ bằng cách loại
bỏ từ trùng lặp và thay thế từ ngữ đó bằng từ ngữ khác thích hợp, chẳng hạn
ở ví dụ 4, có thể thay thế quả dâu tây bằng nó (Quả dâu tây có màu đỏ và vị
rất ngon. Em thấy nó rất tốt, đẹp da, bổ dưỡng. Em rất thích quả dâu tây);
cịn ở ví dụ 5, có thể thay thế mẹ có bằng của mẹ và thay đổi trật tự từ một
chút (Mẹ có dáng dong dỏng cao. Gương mặt của mẹ trịn, mái tóc dài và
đen cùng với chiếc mũi cao và chiếc mơi hơi rộng).
Ở ví dụ 6, HS dùng thiếu động từ, vì thế có thể bổ sung thêm động từ
“có” (Làng quê em có biết bao nhiêu cảnh đẹp).
2.4.2. Lỗi dùng từ không đúng phong cách
Mỗi loại văn bản có đặc điểm riêng về ngơn ngữ, về cách dùng từ. Vì
thế, có những từ chỉ thích hợp hoặc chỉ được dùng trong một phong cách
ngôn ngữ nào đó. Tuy nhiên, do khả năng tiếp thu từ trừu tượng, óc liên
tưởng của HS chưa cao. Các em khơng phát triển được ý, không diễn đạt từ
đúng văn cảnh mà mình muốn nói. Trong thực tế giao tiếp dựa vào văn cảnh,
chúng ta tiếp nhận từ ngữ một cách tự phát. Muốn làm được điều này phải
thông qua việc đọc sách báo. Nhưng do thực tế hiện tại việc sách báo ra đời ồ
ạt, nhất là loại truyện tranh chiếm tỉ lệ khá cao trong các thể loại. Với tính tị
mị, hiếu động của HS, các em thường tìm đọc các loại truyện tranh hơn là
các loại sách có lối hành văn thành văn bản hồn chỉnh. Điều đó đưa đến hạn
chế trong việc sử dụng ngôn ngữ và nhất là dùng từ đúng với văn cảnh, với
13/21
hồn cảnh mà mình cần diễn đạt. Vì thế dẫn đến tình trạng HS đã sử dụng
những từ ngữ thuộc phong cách ngơn ngữ nói (chỉ phù hợp trong sinh hoạt
hàng ngày) vào trong bài văn viết (thuộc phong cách ngơn ngữ viết, sử dụng
ngơn ngữ có tính chất nghệ thuật).
+ Ví dụ 1: Những đêm trăng sáng cùng với bạn bè chơi đuổi bắt, hú
tim rất là vui vẻ.
+ Ví dụ 2: Các em học sinh lớp Một, lớp Hai thì được bố mẹ lai về.
+ Ví dụ 3: Mưa rơi xuống làm cho mọi người giật cả mình về thu quần
áo vào.
+ Ví dụ 4: Xuân vừa đến cành đâm chồi nảy lộc nhìn là biết Tết sắp
đến.
Trong các câu văn trên, các từ ngữ: rất là, lai, giật cả mình, nhìn là
biết khơng nên sử dụng trong bài văn, do đó cần phải thay thế bằng các từ
ngữ khác cho phù hợp hơn, chẳng hạn như: rất, đèo, giật mình, báo hiệu…
2.4.3. Lỗi về nghĩa của từ
Nội dung ý nghĩa là một bình diện của từ. Nó là cái được biểu đạt của
mỗi từ. Do đó, yêu cầu đầu tiên khi dùng từ là phải dùng từ cho đúng nghĩa
của từ. Điều đó có nghĩa là từ được dùng phải biểu hiện được chính xác nội
dung cần thể hiện. Đối với HS Tiểu học, việc nắm nghĩa của từ (bao gồm:
nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm và cả nghĩa biểu thái của từ) còn nhiều hạn
chế, cho nên các em thường mắc lỗi dùng từ sai nghĩa trong các bài văn.
Trong đó phổ biến nhất là lỗi thường xảy ra giữa các từ gần nghĩa, hoặc có
yếu tố cấu tạo chung. Tuy có phần giống nhau về nghĩa của các từ đó vẫn có
sự khác nhau và cần sử dụng khác nhau.
+ Ví dụ 1: Quả dưa hấu nhà em khi ăn rất ngon ngọt.
+ Ví dụ 2: Còn rất xa mới đến nơi để sầu riêng mà mùi thơm đã nồng
nặc.
+ Ví dụ 3: Ngồi đường chỉ có lấp lống vài người đi lại.
+ Ví dụ 4: Ơng mặt trời đã mở mắt, nhấp nhơ sau từng dãy núi.
+ Ví dụ 5: Lúc chơi Sếu lê la dưới sàn với một bãi đồ chơi.
Các câu văn trên đều mắc lỗi dùng từ sai nghĩa. Để chữa lỗi này, cần
phải thay thế những từ ngữ dùng sai đó bằng các từ ngữ có khả năng thể hiện
chính xác nội dung, ý nghĩa mà người viết muốn diễn đạt.
Ở ví dụ 1, từ dùng sai về nghĩa là từ ngon ngọt, bởi ngon ngọt có nghĩa
là: khéo léo, ngọt ngào, dễ làm xiêu lịng. Do đó, từ này chỉ dùng cho lời lẽ.
Để miêu tả hương vị của quả dưa hấu nên thay bằng từ ngon và ngọt.
14/21
Tương tự như vậy ở ví dụ 2, từ nồng nặc có nghĩa là có mùi khó ngửi
bốc lên mạnh với nồng độ cao, với ý nghĩa câu văn (miêu tả và ca ngợi
hương thơm của quả sầu riêng) thì cần thay từ nồng nặc bằng từ nồng nàn.
Ở ví dụ 3, HS muốn miêu tả ngoài đường sau cơn mưa chỉ có vài bóng
người đi lại thì phải dùng từ thấp thống mới đúng, khơng thể dùng từ lấp
lống (vì lấp lống có nghĩa là ánh sáng chiếu thành vệt lúc ngắn lúc dài, khi
có khi khơng, liên tiếp).
Từ nhấp nhơ trong ví dụ 4 phải thay bằng từ lấp ló mới chính xác (vì ý
nghĩa của câu văn không phải là “mặt trời nhô lên thụt xuống một cách liên
tiếp”, mà phải là “mặt trời ló ra rồi khuất đi, khi ẩn khi hiện”).
Ở ví dụ 5, HS dùng từ bãi để miêu tả số lượng đồ chơi là khơng thích
hợp bởi từ này chỉ dùng để miêu tả khoảng đất rộng, bằng phẳng, quang đãng
hoặc đống chất bẩn, chất thải nhỏ. Vì thế, cần thay bằng từ khác hợp lí hơn,
chẳng hạn từ đống…
2.4.4. Lỗi về kết hợp từ
Các từ khi được dùng trong câu văn luôn ln có mối quan hệ về ngữ
nghĩa và ngữ pháp. Chúng nằm trong các mối quan hệ với những từ đi trước
và những từ đi sau. Vì thế, do khơng nắm chắc được nghĩa, hoặc không chú ý
mối quan hệ về ý nghĩa và ngữ pháp giữa các từ được dùng trong câu nên HS
đã kết hợp từ không đảm bảo sự tương hợp với nhau, không “ăn khớp” với
nhau.
+ Ví dụ 1: Giữa sân trường có lá cờ đỏ và ngơi sao vàng lấp lánh.
+ Ví dụ 2: Răng Cún trắng bóc.
+ Ví dụ 3: Khn mặt mẹ đã có khá nhiều nếp nhăn vì mẹ vẫn giữ
được nét đẹp của thời con gái.
+ Ví dụ 4: Linh là lớp trưởng nhưng bạn rất gương mẫu.
Ở ví dụ 1, không thể dùng từ lấp lánh để miêu tả ngôi sao vàng trên lá
cờ đỏ vì nghĩa của chúng khơng tương hợp với nhau. Lấp lánh là “có ánh
sáng phản chiếu không liên tục nhưng đều đặn, vẻ sinh động”. Nếu dùng từ
lấp lánh để miêu tả ngôi sao trên bầu trời thì được, nhưng nếu để tả ngơi sao
trên lá cờ thì nghe khơng hợp lí. Vì thế, cần thay thế từ lấp lánh bằng từ ngữ
khác, ví dụ như phấp phới…
Ở ví dụ 2, trắng bóc (nghĩa là trắng nõn nà, phô ra vẻ đẹp) dùng để
miêu tả răng là khơng hợp lí, nên thay từ này bằng từ trắng hoặc trắng
muốt…
Hai câu ở ví dụ 3, 4 đều mắc lỗi sử dụng sai quan hệ từ để thể hiện mối
quan hệ giữa các vế câu. Ở ví dụ 3, từ vì biểu thị quan hệ nguyên nhân,
15/21
nhưng Khn mặt mẹ đã có khá nhiều nếp nhăn khơng phải có ngun nhân
là: vì mẹ vẫn giữ được những nét đẹp của thời con gái. Do đó, cần thay thế
quan hệ từ vì trong câu này bằng quan hệ từ nhưng. Hoặc cũng có thể chữa
bằng cách khác đó là giữ lại quan hệ từ vì, sửa đổi nội dung một trong hai vế
câu (tùy theo ý định miêu tả của người viết), chẳng hạn như: Khuôn mặt mẹ
đã có khá nhiều nếp nhăn vì mẹ phải lao động rất vất vả (hoặc Mới thống
nhìn, mọi người đốn mẹ em chỉ 35 tuổi vì mẹ vẫn giữ được những nét đẹp
của thời con gái). Tương tự như vậy, có thể chữa câu ở ví dụ 4 bằng cách
thay quan hệ từ nhưng bằng quan hệ từ nên. Hoặc giữ lại quan hệ từ nên và
chữa lại một trong hai vế câu cho phù hợp với ý người viết: Linh là lớp
trưởng nhưng đôi khi bạn chưa gương mẫu (hoặc Linh không phải là lớp
trưởng nhưng bạn rất gương mẫu).
2.4.5. Lỗi về so sánh từ
Việc sử dụng hình ảnh so sánh trong bài văn giúp cho đối tượng được
nhắc đến trong bài trở nên sinh động, gợi hình, gợi cảm như hiện ra trước
mắt người đọc. Đối với HS Tiểu học, nếu trong những bài văn của các em có
những hình ảnh so sánh thì điều đó rất đáng khen. Tuy nhiên, vì lứa tuổi của
các em cịn nhỏ, vốn sống và vốn kinh nghiệm cịn ít, suy nghĩ kiểu trẻ con
nhưng lại bắt chước theo lối nói của người lớn. Vì thế, những hình ảnh mà
HS sử dụng trong phép so sánh thường chưa phù hợp, nếu không muốn nói là
sai trầm trọng.
- Ví dụ 1: Hoa phượng có năm cánh, mọc như nhung.
- Ví dụ 2: Cạnh đó là một hàng ghế đỏ tươi như máu trong tim.
Ở ví dụ 1, động từ mọc khơng thể so sánh cùng với tính từ nhung.
Nhung được dùng theo nghĩa văn chương có nghĩa là bề mặt mượt mà, êm
dịu tựa như nhung, gây cảm giác dễ chịu. HS nên thay từ mọc bằng từ mềm
(Hoa phượng có năm cánh, mềm như nhung) để miêu tả cánh hoa phượng
mượt mà, êm dịu.
Ở ví dụ 2, màu đỏ của máu, đặc biệt là máu trong tim, sẽ hay hơn nếu
được dùng để so sánh với màu đỏ của lá cờ hoặc khăn quàng đỏ. Nghĩa là vật
được đem ra so sánh với máu trong tim thường là những vật có ý nghĩa trang
trọng, thiêng liêng. Vì thế, HS so sánh màu đỏ của hàng ghế như máu trong
tim là chưa hợp lí, có thể sửa thành: Cạnh đó là một hàng ghế đỏ tươi.
2.4.6. Lỗi về âm thanh của từ
Âm thanh và hình thức cấu tạo là mặt vật chất, là cái biểu đạt của từ.
Chữ viết tiếng Việt theo nguyên tắc ngữ âm học, cho nên cần ghi đúng âm
thanh và cấu tạo của từ được sử dụng, nếu không sẽ khơng biểu hiện chính
16/21
xác nội dung ý nghĩa của từ. Lỗi dùng từ sai âm thanh là lỗi mà HS, đặc biệt
là HS vùng ngoại thành thường hay mắc phải trong bài văn. Do đặc điểm
phương ngữ hoặc do HS không nắm chắc cách phát âm của từ từ các lớp
trước nên dẫn đến tình trạng mắc lỗi về âm thanh của từ.
- Ví dụ 1: Bầu trời bao la, xanh thẳng.
- Ví dụ 2: Chị gió đi chơi sớm tạt qua cánh đồng mát rựu.
- Ví dụ 3: Tiếng trống hịn hã, náo nức lịng người.
- Ví dụ 4: Cái mồm chúp chíp xinh xinh.
Để chữa lỗi này, cần phải thay thế những từ ngữ dùng sai đó bằng các
từ ngữ thể hiện chính xác về mặt âm thanh mà người viết muốn diễn đạt. Các
từ xanh thẳng, mát rựu, hòn hã, chúp chíp thay bằng các từ xanh thẳm, mát
rượi, giịn giã, chúm chím. Đồng thời, GV có thể giải thích cho HS hiểu
những từ mà các em dùng là sai về mặt âm thanh, chúng khơng có nghĩa và
hướng dẫn các em sử dụng từ điển tiếng Việt để nắm chắc được về mặt âm
thanh của các từ ngữ được sử dụng.
2.4.7. Lỗi dùng từ sáo rỗng
Lứa tuổi HS Tiểu học cịn nhỏ vì thế trong khi viết văn các em không
tránh khỏi lỗi dùng từ sáo rỗng. Đồng thời do vốn từ nghèo nàn nên dẫn đến
việc diễn đạt lủng củng. Các em thường lặp lại một số từ nhiều lần hoặc sử
dụng từ mà không quan tâm nội dung của từ đó có phù hợp khơng.
Ví dụ: Tơi rất u cánh đồng q tơi bởi vì nó đã in sâu trong lịng tơi.
Ở ví dụ trên, từ bởi vì biểu thị quan hệ nguyên nhân, nhưng hai vế câu
Tơi rất u cánh đồng q tơi và nó đã in sâu trong lịng tơi khơng có mối
quan hệ đó. Do vậy, từ bởi vì có thể bỏ đi và câu văn này tách làm hai câu
riêng rẽ (Tôi rất u cánh đồng q tơi. Nó đã in sâu trong lịng tơi.) thì sẽ
hợp lí hơn.
2.4.8. Lỗi dùng từ thiếu hình ảnh
Khi viết văn, đặc biệt là văn miêu tả, ta có thể coi đó là việc tạo ra một
tác phẩm nghệ thuật giàu hình ảnh. Vì thế, trong bài văn yêu cầu dùng từ
đúng là chưa đủ mà còn phải tiến tới dùng từ hay. Bởi khi được dùng đúng
lúc, đúng chỗ, những từ ngữ gợi tả, gợi cảm, những hình ảnh so sánh, nhân
hóa,… sẽ làm cho đối tượng nhắc đến được hiện ra một cách cụ thể, sinh
động, đồng thời cũng bộc lộ được tình cảm của người viết cũng như khơi gợi
cảm xúc ở người đọc. Chính vì thế, thơng qua thao tác thay thế từ, GV có thể
giúp HS biết cách sử dụng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm… trong bài văn.
- Ví dụ 1: Vào xuân lá cây xanh, thu đến lá cây vàng.
- Ví dụ 2: Hoa phượng có năm cánh, màu đỏ.
17/21
- Ví dụ 3: Phía chân núi, mặt trời màu đỏ đang từ từ nhô lên.
Những câu văn trên đây nếu xét một cách cô lập, tách khỏi bài văn
miêu tả thì hồn tồn bình thường cả về cấu tạo ngữ pháp cũng như về ý
nghĩa. Tuy nhiên, khi đặt trong bài văn miêu tả, có thể thấy là chúng chưa
thực sự hay, chưa hấp dẫn và truyền cảm. Do đó, cần thay thế vào vị trí của
những từ ngữ thiếu hình ảnh và cảm xúc bằng các từ láy, tính từ gợi tả, gợi
cảm hoặc hình ảnh so sánh, nhân hóa… thích hợp.
Ở ví dụ 1, 2, có thể thay từ xanh, vàng, đỏ bằng các từ ngữ như: xanh
lục (hoặc xanh xanh), vàng úa, đỏ thắm … Những từ ngữ được thay thế này
có tác dụng tạo nên những hình ảnh cụ thể, hiển hiện rõ nét trước mắt người
đọc.
Đối với ví dụ 3, cần phối hợp sử dụng hai biện pháp tu từ so sánh và
nhân hóa để viết lại câu văn cho sinh động, gợi cảm hơn: Phía chân núi, ơng
mặt trời như quả cầu đỏ ối đang từ từ nhô lên.
Trên đây là một số biện pháp chữa lỗi dùng từ cho HS Tiểu học mà tơi
đã mạnh dạn đề xuất. Bên cạnh đó, để giúp cho HS có vốn từ trong khi nói và
viết, GV cần:
- Trong quá trình dạy tiếng Việt, lấy nghĩa của từ trong từ điển
làm kim chỉ nam để giải nghĩa từ cho HS. Nhưng trong quá trình giải
nghĩa từ, GV khơng thể máy móc đem tồn bộ các nghĩa đó để giải
thích cho HS một cách ơm đồm mà phải linh động dựa vào văn cảnh
cũng như cách thể hiện từ cho thích hợp.
- Sáng tạo trong việc tận dụng tối đa hiệu suất của đồ dùng dạy
học như: mơ hình, vật thật, tranh ảnh,… Từ các sự vật, hiện tượng cụ
thể, HS sẽ nắm được nghĩa của từ một cách dễ dàng hơn.
- Dạy tốt các tiết Luyện từ và câu, đặc biệt là dạy kiểu bài “Mở
rộng vốn từ”. Trong kiểu bài này, GV cần phải chú ý xây dựng vốn từ
cho HS. Ngoài những từ được cung cấp trong SGK, GV cần mở rộng
thêm từ được khai thác trong thực tế cuộc sống.
- Hướng dẫn và tổ chức cho HS đọc thêm nhiều sách báo để tích
luỹ từ hay như: từ gợi tả, gợi cảm hoặc các biện pháp nhân hoá, so
sánh,…
- Nâng cao chất lượng khi chấm bài và trả bài Tập làm văn cho
HS. GV cần chỉ ra các lỗi dùng từ cụ thể, hướng cho HS tự phát hiện
ra lỗi và sửa lỗi.
2.5.
GV tổ chức cho HS luyện tập, thực hành:
18/21
Đối với HS lớp 5, các em đã có một vốn từ nhất định, có hiểu biết
tương đối về nghĩa của từ, về mối quan hệ ngữ nghĩa và ngữ pháp giữa các từ
trong câu. Vì vậy, GV nên áp dụng việc tập phân tích và chữa lỗi dùng từ cho
HS một cách thường xuyên trong các tiết học, đặc biệt trong các tiết trả bài
tập làm văn.
Quy trình chữa lỗi dùng từ có thể được tiến hành theo các bước chủ
yếu sau:
- Phát hiện lỗi.
- Phỏng đoán nguyên nhân mắc lỗi.
- Căn cứ vào nguyên nhân để xác định cách chữa.
19/21
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm
“Một số biện pháp chữa lỗi dùng từ cho học sinh lớp 5”, tôi rút ra những kết
luận như sau:
Để hoạt động chữa lỗi dùng từ đạt hiệu quả cao, GV cần dựa trên cơ sở
kết quả khảo sát, thống kê, phân loại lỗi trong bài văn miêu tả của HS để
chọn những lỗi điển hình, xuất hiện phổ biến trong bài văn của các em. Ngồi
ra, khơng nên chọn những câu văn chứa quá nhiều lỗi dùng từ, bởi những câu
như vậy sẽ làm cho việc chữa lỗi ở lớp rất phức tạp, khiến cho HS khó phát
hiện ra nguyên nhân mắc lỗi cũng như khó tìm ra cách chữa.
Bên cạnh đó, muốn phát hiện và sửa chữa chính xác các lỗi dùng từ,
cần nắm bắt và lĩnh hội thật sát nội dung định miêu tả của người viết. Để đạt
được điều này, nên đặt từ đang xét vào trong câu, trong đoạn văn, thậm chí
trong cả bài văn miêu tả. Thao tác cơ bản được sử dụng để chữa lỗi dùng từ
là lựa chọn và thay thế từ. Do đó, cần tìm tịi, cân nhắc thật kĩ lưỡng để lựa
chọn được từ ngữ thích hợp thay thế vào vị trí của từ dùng không đúng hoặc
không hay. Cũng nên tránh những cách chữa làm thay đổi quá nhiều, làm
khác biệt cả nội dung và cách diễn đạt mà người viết sử dụng.
Có thể nói chữa lỗi dùng từ là một trong những biện pháp có tác dụng
rất tích cực đối với việc rèn luyện kĩ năng dùng từ đúng và hay cho HS Tiểu
học. GV cần căn cứ vào bài văn miêu tả cụ thể của HS để lựa chọn những lỗi
dùng từ cần chữa sao cho phù hợp với HS và đạt hiệu quả cao nhất.
Tôi hi vọng đề tài “Một số biện pháp chữa lỗi dùng từ cho học sinh lớp
5” sẽ là một tài liệu hữu ích, góp phần giúp HS loại bỏ lỗi dùng từ trong bài
văn cũng như trong quá trình giao tiếp của mình, giúp HS nâng cao ý thức về
việc dùng từ, hình thành kĩ năng dùng từ đúng và hay, đồng thời giúp GV
nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học.
Xin trân trọng cảm ơn!
20/21
IV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ch.Hondard (1975), Từ ngữ ở trường Tiểu học, Paris, trang 11.
2. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng – Ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục.
3. Trần Chí Dõi (1997), Tiếng Việt thực hành, NXB Giáo dục.
4. Xuân Thị Nguyệt Hà (2010), Phát hiện và chữa lỗi dùng từ trong bài văn
miêu tả cho học sinh Tiểu học, Tạp chí Giáo dục Tiểu học, tập 46, trang
11-14.
5. Bùi Văn Huệ (2011), Giáo trình tâm lí học Tiểu học, NXB Đại học Huế.
6. Nguyễn Thị Ly Kha (2007), Dùng từ, viết câu và soạn thảo văn bản, NXB
Giáo dục.
7. Trịnh Mạnh (2003), Tiếng Việt lí thú tập 2, NXB Giáo dục.
8. Hà Quang Năng (Chủ biên) (2007), Từ điển lỗi dùng từ, NXB Giáo dục.
9. Lê Phương Nga (1994), Tìm hiểu vốn từ của học sinh Tiểu học, Tạp chí
Nghiên cứu Giáo dục, số 8.
10. Lê Phương Nga (2000), Dạy học ngữ pháp ở Tiểu học, NXB Giáo dục.
11. Lê Phương Nga, Nguyễn Trí (2001), Giáo trình Phương pháp dạy học
Tiếng Việt 2, NXB Giáo dục.
12. Trần Thị Quỳnh Nga (2003), Một số vấn đề về dạy học từ và câu ở Tiểu
học theo quan điểm giao tiếp, Tạp chí Giáo dục, số 305.
13. Trần Thị Phượng (2010), Một vài kinh nghiệm nhằm phát huy tính tích
cực học tập của học sinh trong tiết trả bài Tập làm văn lớp 5, Tạp chí
Giáo dục Tiểu học, tập 38, trang 21-23.
14. Phan Thiều, Trần Mạnh Hưởng, Lê Hữu Tỉnh (1996), Sổ tay từ ngữ Tiếng
Việt Tiểu học, NXB Giáo dục.
15. Phan Thiều, Lê Hữu Tỉnh (2000), Dạy học từ ngữ ở Tiểu học, NXB Giáo
dục.
16. Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên) (1997), Tiếng Việt thực hành, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
17. Lê Hữu Tỉnh, Trần Mạnh Hưởng (2000), Giải đáp 88 câu hỏi về giảng
dạy Tiếng Việt ở Tiểu học, NXB Giáo dục.
18. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp, NXB Giáo dục.
19. Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng (1997), Tiếng Việt thực hành, NXB
Giáo dục.
21/21