ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH CHỦ TRƯƠNG,QUAN ĐIỂM CỦA
ĐẢNG VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HĨA – XÃ HỘI,
ĐỐI NGOẠI TRONG ĐẠI HỘI X
A. MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh diễn ra đại hội X
Sau gần 20 năm tiến hành đổi mới, tình hình đất nước ta đã có những đổi
thay to lớn. Kiên trì đường lối đổi mới của Đại hội VI, được bổ sung và phát
triển qua các đại hội và hội nghị Trung ương, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, nhân dân ta đã thu được những thành tựu hết sức quan
trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc mở rộng hợp tác quốc tế,
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững mơi trường hịa bình tạo
thêm nhiều thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với nhịp
độ nhanh hơn, góp phần nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, tăng
cường sức mạnh quốc gia, tạo thế và lực cho đất nước tiếp tục phát triển đi lên.
Song, bên cạnh những thuận lợi đó, đất nước ta cũng đang phải đối mặt với
những thách thức to lớn. Tình hình trong nước và quốc tế tiếp tục có những thay
đổi to lớn, ảnh hưởng sâu sắc đến công cuộc đổi mới của nhân dân ta. Tồn cầu
hóa kinh tế là một xu thế khách quan, tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa
đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc gia,
nhất là các nước đang phát triển. Khoa học - công nghệ tiếp tục có những bước
đột phá mới, tác động nhiều mặt đến tất cả các nước trên thế giới. Chiến tranh
khu vực, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp, lật đổ, khủng bố... diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng
phức tạp. Nền kinh tế đất nước vẫn trong tình trạng kém phát triển, nguy cơ tụt
hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại, tốc độ
phát triển kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độ khoa
học - cơng nghệ quốc gia cịn lạc hậu trên nhiều phương diện. Tình trạng suy
thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên
gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí rất nghiêm trọng. Các lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế... Địi hỏi bức bách của
tồn dân tộc ta lúc này là phải ra sức tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển với tốc độ nhanh và bền
vững, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã được
triệu tập. Sau một ngày họp trù bị, từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006, Đại hội họp
chính thức, với sự tham dự của 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 3,1 triệu đảng
viên trong cả nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp từ ngày 18 đến 25-42006 tại Thủ đô Hà Nội, với sự tham dự của 1.176 đại biểu, đại diện cho 3,1
triệu đảng viên.
II. Mục tiêu, phương hướng của đại hội X
Mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006 - 2010 đề cao và
nhấn mạnh việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, huy động và
sử dụng tốt mọi nguồn lực cho cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước; phát
triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; tăng cường quốc phịng và
an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
B. NỘI DUNG
I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HĨA –
XÃ HỘI, ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM TRONG 2006 – 2010.
1.Kinh tế
- Năm 2006, đánh dấu kết quả 20 năm đổi mới, đưa đất nước ra khỏi khủng
hoảng, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới –
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Trong hai năm đầu (2006 – 2007) Việt Nam đã tiến thêm một bước trên
chặng đường phát triển mới, đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Sang
những năm cuối của thời kỳ kế hoạch, nhất là từ Quý II năm 2007 mặc dù lạm
phát trong nước bắt đầu tăng cao, tiếp đến là cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thối kinh tế tồn cầu đã tác động khơng thuận lợi đến nền kinh tế nước ta,
nhưng Việt Nam đã sớm vượt qua và vẫn giữ vững được ổn định kinh tế vĩ mơ,
duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân cả thời kỳ 2006 – 2010 khoảng 7%.
- Vốn đầu tư khu vực ngoài Nhà nước trong thời kỳ 2006 – 2010, bình quân
mỗi năm tăng 11,4%. Vốn đầu tư khu vực FDI bình quân mỗi năm thời kỳ 2006
– 2010 tăng 25,7%. Điểm đáng chú ý trong bức tranh về đầu tư nước ngoài ở
nước ta là đã xuất hiện hàng loạt các dự án đầu tư có quy mơ lớn do các tập đồn
xun quốc gia đầu tư (công ty thép Posco, công ty TNHH Intel Products Việt
Nam...).
- Thời kỳ 2006 – 2010, hoạt động xuất khẩu đạt được những bước tiến
mạnh nhờ việc Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế như WTO, FTA, EPA...
Các mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao trong giai đoạn này là: hàng dệt may
đứng đầu với bình quân 8,6 tỷ USD/ năm, giày dép đạt 4,3 tỷ USD/ năm, hải sản
đạt 4,2 tỷ USD/ năm. Kim ngạch gạo xuất khẩu tăng mạnh với mức tăng
17,9%/năm.
- Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tăng mạnh trong thời kỳ 2006-2010, đặc
biệt trong 2 năm đầu khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Kim ngạch
hàng hóa nhập khẩu đạt bình quân 68,5 tỷ USD/năm trong thời kỳ này, bằng 2,6
lần thời kỳ 5 năm trước và tăng bình quân 18%/năm. Đáng chú ý là nhập khẩu
của khu vực FDI tăng cao, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch
nhập khẩu, thường chiếm trên 34%.
2. Chính trị
- Độc lập chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị được giữ vững,
trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân có
nhiều thành tích trong xây dựng lực lượng, nâng cao tinh thần chiến đấu và sẵn
sàng chiến đấu. Việc kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng ở một số địa bàn
có hiệu quả. Thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân
được củng cố.
- Quốc hội có những đổi mới quan trọng trong công tác lập pháp, tiếp tục
sửa đổi, bổ sung Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Tổ chức bộ máy các cơ quan
đảng, nhà nước các cấp được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao
hiệu quả.
- Đảng Nhà nước ta đã quan tâm đến vấn đề bài trừ tham nhũng, năm 2006
nổi lên như một năm thể hiện quyết tâm cao độ của Đảng khi Ban phòng chống
tham nhũng Trung ương được thành lập đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra về
kinh tế xã hội, phát hiện nhiều sai phạm điển hình là năm 2006 với vụ PMU 18.
3. Văn hóa – xã hội
- Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn. Cơ sở
vật chất được tăng cường. Quy mô đào tạo mở rộng, nhất là ở bậc trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề. Trình độ dân trí được nâng lên.
- Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân
sách; việc huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo
dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số được quan tâm.
- Thị trường khoa học, cơng nghệ bước đầu hình thành. Đầu tư cho khoa
học, công nghệ được nâng lên. Bước đánh dấu cho sự hình thành ngành cơng
nghệ thơng tin là năm 2006, tập đồn Intel chính thức đầu tư xây dựng nhà máy
sản xuất chíp ở Tp.Hồ Chí Minh.
- Trong giai đoạn 5 năm, giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu lao động,
tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm cịn 9,5%.
Cơng tác dân số, kế hoạch hố gia đình, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân,
bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ đạt được một số kết quả quan trọng; mức
hưởng thụ các dịch vụ y tế của nhân dân tăng lên, đặc biệt với trẻ em, người
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Chỉ số phát triển con người không ngừng tăng
lên; Việt Nam đã hoàn thành phần lớn các Mục tiêu Thiên niên kỷ.
- Việc phịng ngừa, khắc phục suy thối, ô nhiễm môi trường được quan
tâm và đạt một số kết quả tích cực. Cơng tác bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ đa dạng
sinh học có tiến bộ. Chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu bước
đầu được triển khai.
- Hạ tầng giao thông được xây dựng thêm nhiều cơng trình mới, việc nhận
nguồn vốn ODA từ nước ngồi đã giúp Việt Nam có nguồn đầu tư lớn cho cơ sở
hạ tầng giao thông.
4. Đối ngoại
- Việt Nam gia nhập WTO sau 11 năm đàm phán đa phương và song
phương, ngày 7/11/2006 Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã kết nạp Việt
Nam. Ngày 28/11/2006, Quốc hội đã chính thức phê chuẩn Nghị định thư về
việc Việt Nam gia nhập WTO. Việt Nam chính thức trở thành thành viên đầy đủ
thứ 150 của WTO vào ngày 11/1/2007.
- Thơng qua Quy chế Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR)
của Chính phủ Hoa Kỳ với Việt Nam đã đánh dấu việc bình thường hố hồn
tồn quan hệ song phương giữa hai nước trong các lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế,
thương mại và đầu tư. Hai nước sẽ cùng áp dụng cho nhau những cam kết của
mình trong khn khổ WTO.
- Đăng cai và tổ chức thành công APEC 14, sự kiện đã gây một tiếng vang
lớn, góp phần mở rộng quan hệ và nâng cao vị thế của Việt Nam tại Diễn đàn
hợp tác kinh tế lớn nhất thế giới cũng như trên trường quốc tế.
- Việt Nam được bầu vào vị trí ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 – 2009, thể hiện sự tín nhiệm của cộng đồng quốc
tế đối với vai trò và vị thế ngày càng tăng của Việt Nam.
- Đảm nhiệm cương vị chủ tịch ASEAN 2010, Việt Nam đã thúc đẩy việc
thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và xử lý tốt một
số vấn đề phức tạp như: Biểu tình tại Thái Lan, tình hình Mianma, vụ chìm tàu
Cheonan..., vừa bảo đảm được các nguyên tắc “đồng thuận” và “không can thiệp
vào công việc nội bộ” của ASEAN, vừa thể hiện sự chủ động và trách nhiệm của
Việt Nam trong việc củng cố đồn kết nội khối. Những đóng góp của Việt Nam
đối với ASEAN là rất thực chất và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
II. CHỦ TRƯƠNG, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CÁC VẤN ĐỀ
KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA – XÃ HỘI, ĐỐI NGOẠI TRONG ĐẠI
HỘI X.
Qua một vài nét tổng quan về tình hình Việt Nam từ năm 2006 – 2010,
nhóm chúng em xin đưa ra phân tích về chủ trương, quan điểm của Đảng để có
thể đạt được những sự kiện đáng chú ý trên đây.
1. Về kinh tế.
Đại hội toàn quốc lần thứ X của đảng được khai mạc trong bối cảnh toàn
cầu hóa về nền kinh tế đang ngày một sâu rộng, nền kinh tế tri thức phát triển
mạnh tạo ra cơ hội nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức lớn , nhất là đối với
những quốc gia đang phát triển như nước ta. Sau 20 năm đổi mới Việt Nam đã
đạt được nhiều thành tựu về nền kinh tế nhưng nguy cơ tụt hậu vẫn luôn tiềm ẩn
rất lớn ở nước ta. Nắm rõ được tình hình đó đại hội X đã diễn ra với các chủ
trương, quan điểm phát triển kinh tế:
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức. Đây là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về đường lối tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm này được chính thức khởi đầu tại Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa
nhiệm kỳ (khóa VII) và được bổ sung, hoàn thiện trong các kỳ Đại hội sau đó
của Đảng.
Từ đấy trung ương đảng đã họp và đề ra các chủ trương lớn sau:
Một là, thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và cho rằng:
Đối với Việt Nam, biển có vị trí địa kinh tế và chính trị rất quan trọng. Với
nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, biển Việt Nam có vai trò to lớn đối với sự
phát triển đất nước và khẳng định: Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về
biển, làm giàu từ biển. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo
đảm quốc phòng, an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường; kết hợp chặt
chẽ giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo
hướng CNH, HĐH. . Phát huy đầy đủ, có hiệu quả các nguồn lực bên trong,
tranh thủ hợp tác quốc tế thu hút mạnh các nguồn lực bên ngồi theo ngun tắc
bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước và phát triển kinh tế biển
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
nhằm: Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển
của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Bảo đảm đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế; giữa các
yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị,
xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hố và bảo vệ mơi trường.
+ Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại
và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta.
+ Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của
Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong q trình hồn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
Ba là, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn với quan điểm chỉ đạo:
+ Nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính
trị, đảm bảo an ninh, quốc phịng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hố dân tộc và
bảo vệ mơi trường sinh thái của đất nước.
+ Nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu gắn với q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước.
+ Phát triển nơng nghiệp, nơng thơn và nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
+ Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả
hệ thống chính trị và tồn xã hội.
Nhận thức rõ việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế
tri thức là hai nội dung có quan hệ thống nhất, hữu cơ của tiến trình phát triển
theo phương thức "rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước
nhảy vọt" để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, Văn kiện Đại hội X của Đảng đã khẳng định: "trong 5 năm tới,
chúng ta chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát triển kinh
tế tri thức”
Từ các chủ trương, quan điểm quan trọng nêu trên đã thể hiện rõ nhận thức
mới và tầm nhìn xa của Đảng, mở ra hướng mới phát triển kinh tế đất nước.
Trong thời đại ngày nay, cả tồn cầu hố kinh tế lẫn kinh tế tri thức đều là những
xu thế phát triển tất yếu, khách quan. Chúng đã, đang và sẽ tiếp tục làm thay đổi
một cách mạnh mẽ, sâu sắc nội dung và bước đi của q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố. Khơng chỉ thế, tồn cầu hố kinh tế và kinh tế tri thức cịn địi hỏi
tiến trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở các quốc gia đi sau, trong
đó có Việt Nam, phải được gắn liền với phát triển kinh tế tri thức.
2. Về chính trị.
2.1. Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
a, Phát huy dân chủ
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng
thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có
sự tham gia ý kiến của nhân dân.
Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức
phải thực sự là công bộc của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ
chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hố, xã hội. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với nhân
dân. Bộ máy nhà nước, các thiết chế khác trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ
đề xuất ý kiến với Đảng trong quá trình xây dựng, hoạch định và tổ chức thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng.
b, Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng
tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và
quyết định của các cơ quan công quyền.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu
cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu
chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội.
Tổ chức lại một số Uỷ ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của
Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình xây
dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính
phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt,
hiện đại. Luật hố cơ cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành,
đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ động
hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân
sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với
Trung ương.
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy
cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt
động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong
hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân,
bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong
phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của hội đồng nhân dân. Tổ
chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính
quyền ở nơng thơn, đơ thị, hải đảo.
Thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của
cơ quan, cán bộ, công chức. Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo,
bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo
đức. Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo
hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có
thẩm quyền xem xét, quyết định. Có cơ chế kịp thời đưa ra khỏi bộ máy nhà
nước những công chức không xứng đáng, kém phẩm chất và năng lực.
c, Tích cực phịng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí
Tồn Đảng, tồn bộ hệ thống chính trị và tồn xã hội phải có quyết tâm
chính trị cao đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Bổ sung, hồn thiện các cơ
chế, quy định về quản lý kinh tế - tài chính, quản lý tài sản cơng, ngân sách nhà
nước, các quỹ do nhân dân đóng góp và do nước ngồi viện trợ; về thanh tra,
giám sát, kiểm tra, kiểm kê, kiểm sốt. Đẩy mạnh cải cách hành chính; thực hiện
cơ chế giám sát của nhân dân, thông qua các đại diện trực tiếp và gián tiếp, đối
với đảng viên, công chức, cơ quan, đơn vị. Bảo đảm công khai, minh bạch các
hoạt động kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch
vụ cơng và doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục đổi mới chế độ tiền lương đối với
cán bộ, công chức.
Khẩn trương và nghiêm chỉnh thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng,
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Bổ sung, hồn thiện Luật Khiếu nại
và tố cáo.
Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng, bất kể ở
chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu, sung công tài sản có nguồn
gốc từ tham nhũng; những người bao che cho tham nhũng, cố tình ngăn cản việc
chống tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại
người khác, gây mất đoàn kết nội bộ. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những
người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Biểu dương và nhân rộng
những gương cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư.
Hồn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy
vai trò của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, phát
hiện, đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng. Đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế
về phòng, chống tham nhũng.
Các cấp uỷ và tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân,
cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ cấp cao, phải trực tiếp tham gia và đi đầu
trong việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
2.2. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng.
a, Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết
thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc
sống đặt ra.
Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục
làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính sách của
Đảng trong thời kỳ mới.
Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng trong Đảng, trước hết
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp; đổi mới nội dung,
phương pháp học tập và giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, nâng cao tính
thiết thực và hiệu quả của chương trình.
Củng cố, nâng cao chất lượng các cơ quan chuyên ngành về công tác tư
tưởng, lý luận. Tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý
luận, nhất là cán bộ chủ chốt. Tiến hành đồng bộ công tác tư tưởng, công tác lý
luận, gắn với công tác tổ chức - cán bộ và phát triển kinh tế; chống sự suy thối
về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối,
quan điểm của Đảng; phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch.
b, Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên
Mỗi tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm tổ chức và quy tụ sức mạnh của
toàn đơn vị hồn thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt cơng tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên; đấu tranh chống những biểu
hiện tiêu cực, suy thoái trong Đảng. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ đảng.
Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở Đảng. Xác định vị thế pháp lý, thể chế
hố về mặt nhà nước vai trị, chức năng, nhiệm vụ của các loại hình cơ sở. Chú ý
xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở vùng sâu, vùng xa. Tập trung
củng cố các cơ sở yếu kém.
Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất,
đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ;
kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của
Đảng; năng động, sáng tạo, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách.
Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính
sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban
Chấp hành Trung ương.
Sớm có quy định và chỉ đạo thực hiện, bảo đảm vừa phát huy khả năng làm
kinh tế của đảng viên, vừa giữ được tư cách đảng viên và bản chất của Đảng.
Phân công đảng viên đúng người, đúng việc, tạo điều kiện để đảng viên
hoàn thành nhiệm vụ. Thường xuyên tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
đảng. Động viên quần chúng giám sát, nhận xét, góp ý kiến với đảng viên. Kịp
thời đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên gắn với việc nâng cao chất lượng tổ
chức cơ sở đảng. Đẩy mạnh và đảm bảo chất lượng cơng tác phát triển Đảng.
Chú trọng trẻ hố và nâng cao trình độ của đảng viên; lấy đạo đức làm gốc, đồng
thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh
đạo, người đi tiên phong trong các lĩnh vực công tác được giao.
c, Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng
cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác kiểm tra, giám sát.
Phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật trong Đảng. Mọi cán bộ, đảng
viên có quyền tham gia quyết định cơng việc của Đảng; quyền được thông tin,
thảo luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức; khi Đảng
đã có nghị quyết thì phải nói và làm theo nghị quyết.
Lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và
nhân dân. Xây dựng quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ
tập thể; có cơ chế để nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham
gia các công việc của Đảng; khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân.
Hoàn thiện quy chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với
cá nhân, của tổ chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân và tổ chức, kể
cả đối với người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên. Kết hợp giám sát trong
Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các
tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối
với công tác tổ chức và cán bộ.
Đổi mới phương pháp kiểm tra và bổ sung chức năng giám sát cho uỷ ban
kiểm tra đảng các cấp. Tăng cường cơng tác kiểm tra, phịng ngừa. Xây dựng
quy chế phối hợp công tác giữa Uỷ ban Kiểm tra của Đảng với Thanh tra của
Chính phủ.
d, Đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ.
Sắp xếp, đổi mới tổ chức, bộ máy của Đảng, đặc biệt là các ban đảng, ban
cán sự đảng, đảng uỷ khối ở Trung ương và các địa phương gắn với kiện toàn tổ
chức, bộ máy của cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, bảo
đảm tinh gọn, hoạt động thiết thực, hiệu quả. Khắc phục tình trạng chồng chéo,
trùng lặp; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan và người
đứng đầu không rõ. Tổ chức các cơ quan tham mưu của Đảng có chất lượng cao,
đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên
hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Cải tiến lề lối làm việc, nâng cao chất lượng nghiên cứu, đề xuất, tham
mưu, hướng dẫn, kiểm tra của các cơ quan tham mưu của Đảng. Tăng cường sự
phối hợp giữa các ban cán sự đảng, đảng đoàn với cấp ủy địa phương.
Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với
Tổ quốc, với Đảng, hết lịng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có
bản lĩnh chính trị vững vàng, khơng dao động trước những khó khăn, thử thách;
có năng lực hồn thành nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực,
trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tơn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán
bộ các dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, chuyên gia trên các lĩnh
vực; bồi dưỡng nhân tài theo định hướng quy hoạch. Đặc biệt quan tâm xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao.
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, bảo đảm thật sự dân chủ, khoa học,
công minh. Xây dựng và hoàn thiện chế độ bầu cử, cơ chế bổ nhiệm và miễn
nhiệm cán bộ; mở rộng quyền đề cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án
nhân sự để lựa chọn.
Có cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng
dụng và đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài; thay thế kịp thời những người
kém năng lực và kém phẩm chất, có khuyết điểm nghiêm trọng.
Khắc phục những biểu hiện cá nhân, cục bộ, không công tâm, nể nang, tuỳ
tiện trong cơng tác cán bộ.
Cụ thể hố và thể chế hóa ngun tắc Đảng thống nhất lãnh đạo cơng tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tổ chức và
người đứng đầu của tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
e, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế; thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng
lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế
hóa, cụ thể hóa thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình cơng tác
lớn của Nhà nước; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức
thực hiện.
Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước; trái lại, phát huy
mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã
hội.
Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về
nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng lĩnh
vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể xác định đúng mục
tiêu, phương hướng hoạt động; đồng thời, phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo
trong xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động của mình.
Đảng thống nhất lãnh đạo cơng tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong
hệ thống chính trị, thực hiện luân chuyển cán bộ, khắc phục tình trạng khép kín,
cục bộ về cán bộ. Tăng cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là thủ trưởng
cơ quan nhà nước. Cơ quan nào vi phạm chính sách, pháp luật, để xảy ra tình
trạng tiêu cực, mất đồn kết nội bộ thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm.
Đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với đổi mới phong cách và lề lối làm
việc thật sự dân chủ, thiết thực, nói đi đơi với làm.
3. Về văn hóa – xã hội
Đảng đề ra các chủ trương:
Một là, về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới với quan
điểm chỉ đạo:
- Công tác tư tưởng, lý luận, báo chí phải đóng vai trị quan trọng trong
việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, những giá trị truyền
thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hố thế giới chiếm vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội.
=> Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư
tưởng là việc quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ
tư tưởng”. Lê-nin cũng chỉ rõ: “nâng cao sự giác ngộ của quần chúng hiện nay
cũng như bất cứ lúc nào, vẫn là nền tảng và nội dung chủ yếu của tồn bộ cơng
tác của chúng ta”
VD: Khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, cách
mạng xã hội chủ nghĩa lâm vào thoái trào, đã tác động vào tư tưởng cán bộ,
đảng viên và nhân dân rất lớn. Lúc này củng cố niềm tin, xây dựng ý chí kiên
định Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội cho toàn Đảng, toàn dân đã trở thành nhiệm vụ hàng đầu
của công tác tư tưởng, và Đảng bộ TP cùng cả nước đã làm tốt việc đó để bảo
đảm sự ổn định chính trị xã hội, tạo điều kiện cho đất nước không ngừng đổi
mới, phát triển. Và, cuối cùng chúng ta cũng đã vượt qua cơn thử thách. Bài học
rút ra là “có niềm tin là có tất cả”!
-> Cơng tác tư tưởng rất quan trọng cần nhấn mạnh
- Công tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng, của tất cả đảng viên, trước
hết là cấp uỷ các cấp và bí thư cấp ủy, của cả hệ thống chính trị với sự tham gia
của nhân dân, trong đó lực lượng nịng cốt là đội ngũ chun trách làm cơng tác
tư tưởng, lý luận, báo chí của Đảng.
- Cơng tác tư tưởng của Đảng là công tác đối với con người, đòi hỏi phải
nắm vững những quy luật riêng của tư tưởng, có thái độ, phương pháp khoa học,
kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu định hướng tư tưởng với sự tự nguyện, giữa lý trí
và tình cảm, giữa lời nói và việc làm, giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” làm
chính, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực.
- Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị-xã hội và
là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động báo chí phải
đảm bảo tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa
dạng.
=> Sở dĩ cơng tác tư tưởng, lý luận quan trọng bởi công tác tư tưởng, lý
luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của
Đảng, là mặt công tác thường xuyên, quan trọng của Đảng, là lĩnh vực trọng yếu
để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ. Để lãnh đạo thành cơng sự
nghiệp cách mạng, địi hỏi Đảng phải khơng ngừng đổi mới, phát triển, hồn
thiện hệ thống lý luận, gắn lý luận với thực tiễn
Hai là, tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ
mới với quan điểm chỉ đạo:
- Văn học, nghệ thuật Việt Nam phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ.
- Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn
học, nghệ thuật là trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước
và của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp.
=> Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn
hoá; nhu cầu thiết yếu thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người.
=> Phát triển kinh tế xã hội cũng đòi hỏi phải đi đôi với phát triển văn học
nghệ thuật bởi văn học nghệ thuật cũng là một trong những động lực to lớn trực
tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện
của con người Việt Nam
Ba là, cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp -ưu đãi
người có cơng giai đoạn 2008-2012 với quan điểm chỉ đạo:
- Coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát
triển, tạo động lực cho phát triển kinh tế-xã hội.
- Cải cách chính sách tiền lương phải tiến tới bảo đảm cho cán bộ, công
chức, viên chức sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội.
- Cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có
cơng phải gắn với việc kiềm chế tốc độ tăng giá, bảo đảm tốt hơn đời sống của
người nghèo, đồng bào dân tộc, đối tượng chính sách xã hội.
=> Chính sách tiền lương là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng
của chính sách kinh tế - xã hội. Cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội
và trợ cấp là tạo động lực để nhân dân lao động nâng cao năng suất và hiệu quả
làm việc. Từ đó, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo
đảm ổn định chính trị-xã hội; thúc đẩy, nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát
triển kinh tế-xã hội bền vững.
Qua 5 năm (2005-2010), đổi mới giáo dục đạt kết quả bước đầu. Chi ngân
sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách. Đến năm
2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm
việc. Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ được đẩy
mạnh. Trong 5 năm, đã giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ lệ
thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%.
4. Về đường lối đối ngoại
Đường lối đối ngoại cũng có những điểm nhấn mới, tương ứng với sự thay
đổi của hoàn cảnh, mục tiêu và yêu cầu phát triển của giai đoạn hội nhập. Kiên
trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển, với chính
sách đối ngoại rộng mở, theo tinh thần đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế. Đường lối đối ngoại của Đại hội X đặc biệt nhấn mạnh hai điểm:
Một là đưa các quan hệ quốc tế đã thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định và bền
vững.
Hai là mở rộng công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động,
linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”.
Đường lối, chính sách đối ngoại ln ln là bộ phận cấu thành rất quan
trọng trong văn kiện của bất kỳ đại hội nào của Đảng, trong đó có Đại hội X.
Điều ấy cũng dễ hiểu vì giống như các quốc gia khác, nước ta thường xuyên
chịu tác động trực tiếp của những biến động trên thế giới; những công việc trong
nước có sn sẻ hay khơng tùy thuộc rất nhiều vào mơi trường bên ngồi mà
đường lối, chính sách đối ngoại góp phần tạo dựng.
Đặc điểm của Đại hội X là khơng chỉ nhìn lại 5 năm sau Đại hội IX mà còn
tổng kết cả 20 năm thực hiện đường lối đổi mới về mọi mặt, trong đó có lĩnh
vực đối ngoại. Đại hội đã khẳng định đường lối đó là "đúng đắn, sáng tạo, phù
hợp thực tiễn Việt Nam", vì vậy đã kế tục đường lối, chính sách đối ngoại được
khởi xướng và kiên trì thực hiện trong suốt thời kỳ đổi mới với một số sự "cập
nhật" cho phù hợp với tình hình mới. Đó là đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
hịa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa,
đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Hoạt động đối ngoại bao giờ cũng phục vụ ba mục tiêu cơ bản là phát triển,
an ninh và nâng cao vị thế quốc tế trong sự gắn quyện và tác động qua lại lẫn
nhau.
Đối với nước ta chính sách đối ngoại đương nhiên phải phục vụ hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nói một cách khác, chính sách đối
ngoại phục vụ hai mục tiêu "phát triển" và "an ninh", trong đó mục tiêu phát
triển được đặt lên hàng đầu vì chỉ có đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội mới có
điều kiện vật chất để giữ vững an ninh, nâng cao vị thế quốc tế.
Để phát triển thuận lợi thì hoạt động đối ngoại phải góp phần mở rộng tối
đa quan hệ quốc tế, tạo dựng mối quan hệ đan xen với các nước và trung tâm thế
giới, tạo dựng môi trường êm thấm ở bên ngoài. Trong 20 năm đổi mới chúng ta
đã mở rộng được đáng kể quan hệ hợp tác quốc tế về "chiều rộng"; nay Đại hội
X nhấn mạnh yêu cầu "đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu,
ổn định, bền vững". Đồng thời vì mục tiêu phát triển, các hoạt động đối ngoại
phải hướng mạnh vào các nhiệm vụ kinh tế - xã hội thiết thực như mở rộng thị
trường, có thêm đối tác, tranh thủ tối đa vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý.
Do đó khơng phải ngẫu nhiên mà văn kiện đại hội đã nêu cao yêu cầu "đẩy
mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại".
Điểm mới nữa là Đại hội X đặt cao nhiệm vụ "chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế", "hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế
toàn cầu, khu vực và song phương" vì nước ta đang đứng trên ngưỡng cửa của
sự hội nhập hoàn toàn và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới với việc nỗ lực hoàn tất
thủ tục để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhân đây cần nhấn
mạnh rằng, hội nhập không phải là mục tiêu tự thân hay do sự thúc ép nào từ
bên ngoài, mà là sự chọn lựa của bản thân nước ta. Có thể nói, nền kinh tế nước
ta là một trong những nền kinh tế "mở", gắn kết với nền kinh tế thế giới vào loại
hàng đầu thế giới. Kim ngạch xuất - nhập khẩu của nước ta bằng khoảng gần
140% GDP (so với 56,9% của Trung Quốc, 58,5% của Nga, cao nhất trong
ASEAN, chỉ sau Singapore); ODA và FDI đóng góp khoảng trên dưới 30% tổng
số vốn đầu tư của tồn xã hội. Nói cách khác, ở cả "đầu vào" lẫn "đầu ra" nhân
tố bên ngoài đều chiếm vị trí rất quan trọng; khơng hội nhập để mở rộng thị
trường tiêu thụ hàng hóa và thu hút vốn đầu tư thì khó bề đáp ứng nhu cầu phát
triển.
Vận dụng bài học về sức mạnh tổng hợp, Đại hội lần thứ X đã nhấn mạnh
yêu cầu phối hợp chặt chẽ đối ngoại với quốc phòng và an ninh. Sự phối hợp
này cần được thể hiện không chỉ về nhận thức, không chỉ thông qua việc bảo
đảm môi trường quốc phòng, an ninh ổn định mà còn cần được thể hiện trong
từng hoạt động cụ thể, địa bàn, dự án cụ thể.
Khơng thể chỉ vì mối lợi kinh tế đơn thuần mà "hy sinh" yêu cầu quốc
phòng an ninh. Khi nói đến an ninh khơng thể chỉ nghĩ tới việc đề phịng sự tiến
cơng từ bên ngồi. Khái niệm an ninh ngày nay bao gồm cả việc bảo vệ chủ
quyền, tồn vẹn lãnh thổ, giữ gìn an ninh cả về chính trị lẫn kinh tế, văn hóa, tư
tưởng cả sự an ninh từ bên ngoài lẫn bên trong, bằng nhiều biện pháp, công cụ
khác nhau. Một trong những công cụ hữu hiệu để bảo đảm quốc phòng và an
ninh là tích cực, chủ động tiến hành những hoạt động "ngoại giao quốc phòng và
an ninh" song song với "ngoại giao chính trị" và "ngoại giao kinh tế" nhằm tạo
dựng lịng tin, thúc đẩy hợp tác vì hịa bình và ổn định.
Phát triển và an ninh là những tiền đề không thể thiếu được đối với yêu cầu
nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Điều đó khơng có nghĩa là phải chờ tới
khi kinh tế phát triển, quốc phòng hùng mạnh mới nâng cao được vị thế quốc tế.
Trong 20 năm qua kinh tế nước ta dù có phát triển nhanh song cũng chưa thốt
khỏi tình trạng kém phát triển; an ninh quốc phòng được giữ vững song lực
lượng vũ trang cũng chưa phải là đã được trang bị hiện đại, nhưng một trong
những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của cơng cuộc đổi mới là "vị thế nước
ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao". Vị thế ấy có được nhờ ở
những chiến công trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nhờ ở đường
lối đúng đắn, đưa tới những thành tựu được cả thế giới cơng nhận và nhờ ở
chính sách đối ngoại có tính ngun tắc và khơn khéo tranh thủ được lòng
người. Ngay "lực" của nước ta đã mạnh hơn 20 năm trước, "thế" của nước ta đã
thay đổi về cơ bản; điều đó càng tạo nhiều thuận lợi hơn cho việc nâng cao vai
trò và uy tín của nước ta ở khu vực và trên thế giới.
Để đạt được những mục tiêu trên, chúng ta luôn ln kiên trì tư tưởng chỉ
đạo là nắm vững ngun tắc đi đôi với sự linh hoạt về sách lược. Nguyên tắc ấy
một lần nữa được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội X là "tôn trọng độc lập, chủ
quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và
tranh chấp thơng qua thương lượng hịa bình; tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và
cùng có lợi". Cịn sách lược thì thiên biến vạn hóa tùy theo từng vấn đề, từng
tình huống, từng thời điểm, từng đối tác nhưng ln ln phục tùng những
ngun tắc chỉ đạo nói trên.
Đại hội X khẳng định là kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng
hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Phát triển tư tưởng được nêu ra trong ba
đại hội trước, Đại hội X một lần nữa nhấn mạnh "Việt Nam là bạn, đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế" đồng thời bổ sung thêm một ý về
lịng mong muốn "tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực"
với hàm ý nâng cao tính chủ động, tích cực của mình trong các tổ chức quốc tế
và khu vực mà nước ta tham gia. Đại hội lần này không xếp thứ tự ưu tiên quan
hệ với các đối tác khác nhau mà nhấn mạnh chủ trương "phát triển quan hệ với
tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế" vì thực ra
khi theo đuổi chính sách đa dạng hóa quan hệ quốc tế thì mối quan hệ ấy thường
diễn biến rất linh hoạt tùy từng vấn đề, từng lĩnh vực, từng thời điểm cụ thể chứ
khơng theo một trình tự ưu tiên cứng nhắc. Mặt khác yêu cầu phát triển, an ninh
và nâng cao vị thế quốc tế vẫn đòi hỏi dành nhiều sự quan tâm và công sức củng
cố mối quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước láng giềng có chung biên giới
hoặc trong khu vực Đơng - Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương cũng như các
nước và trung tâm lớn ảnh hưởng trực tiếp tới cả ba mục tiêu của chính sách đối
ngoại.
Thực tiễn cho thấy, chính sách như vậy phù hợp với thực tế khách quan khi
trên thế giới khơng cịn cục diện "hai cực" mà xu thế chung là đa dạng hóa quan
hệ quốc tế, không phân biệt nước lớn, nước nhỏ, đồng thời xuất hiện nhiều tổ
chức, diễn đàn rất đa dạng. Vả lại việc đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế góp phần giữ vững thế chủ động linh hoạt, tạo dựng cục diện lợi ích đan
xen, bổ sung lẫn nhau, làm cho dễ dàng hơn trong việc giữ vững thế độc lập tự
chủ.
Giữa các quốc gia không thể tránh khỏi những khác biệt, bất đồng, thậm
chí xung đột lợi ích. Vì vậy, trong quan hệ quốc tế khó tránh khỏi trạng thái vừa
hợp tác, vừa đấu tranh. Chủ trương của chúng ta là gia tăng điểm đồng, hạn chế
bất đồng, thông qua đối thoại, thương lượng để giải quyết những bất đồng ấy,
không để chúng phá vỡ quan hệ hợp tác cùng có lợi. Ngay như trên một vấn đề
có sự khác biệt lớn giữa nước ta với chính giới nhiều nước trên thế giới như vấn
đề nhân quyền, một mặt Đại hội khẳng định chủ trương "chủ động tham gia
cuộc đấu tranh chung vì quyền con người", mặt khác tỏ ý "sẵn sàng đối thoại với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền".
III. HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM
1. Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển
của đất nước; một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch.
Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng đầu tư, khai thác
tài nguyên; các cân đối vĩ mô chưa vững chắc. Công nghiệp chế tạo, chế biến
phát triển chậm, gia cơng, lắp ráp cịn chiếm tỷ trọng lớn. Cơ cấu kinh tế giữa
các ngành, lĩnh vực chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng cịn chậm. Cơ cấu
trong nội bộ từng ngành cũng chưa thật hợp lý. Năng suất lao động xã hội thấp
hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh quốc gia chậm
được cải thiện. Đầu tư vẫn dàn trải. Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư cịn
thấp, cịn thất thốt, lãng phí, nhất là nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Hệ thống
kết cấu hạ tầng phát triển chậm, thiếu đồng bộ, đặc biệt đối với khu vực đồng
bào dân tộc thiểu số. Chất lượng nhiều cơng trình xây dựng cơ bản còn thấp.
Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, cịn lãng
phí. Tình trạng khai thác rừng, khai thác khoáng sản bất hợp pháp vẫn cịn xảy
ra ở nhiều nơi, nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu, ngăn chặn kịp thời. Trình độ
phát triển giữa các vùng cách biệt lớn và có xu hướng mở rộng. Các chỉ tiêu tốc
độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và chuyển dịch cơ cấu kinh tế không đạt kế hoạch
Đại hội X đề ra.
Những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường chưa được chú ý đúng mức. Một số tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà
nước kinh doanh thua lỗ, gây bức xúc trong xã hội. Chỉ đạo đổi mới, phát triển
kinh tế tập thể, các nông, lâm trường quốc doanh chậm, lúng túng. Chất lượng
xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển một số ngành, vùng, nhất
là quy hoạch sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản cịn yếu, gây lãng phí, thất
thốt lớn. Quản lý thị trường, nhất là thị trường bất động sản, thị trường tài
chính, có lúc cịn lúng túng, sơ hở, thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ, làm
giàu bất chính cho một số người; chính sách phân phối cịn nhiều bất hợp lý.
2. Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, cơng nghệ, văn hố, xã hội,
mơi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội.
Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là
đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn cịn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang
đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số
lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương
trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục
không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn
diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố. Quản lý nhà nước về giáo dục còn lúng túng. Xu hướng thương mại hoá
và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở
thành nỗi bức xúc của xã hội.
Khoa học, công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy, chưa gắn
kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường khoa
học, cơng nghệ cịn sơ khai, chưa tạo sự gắn kết có hiệu quả giữa nghiên cứu với
đào tạo và sản xuất kinh doanh. Đầu tư cho khoa học, cơng nghệ cịn thấp, sử
dụng chưa hiệu quả. Trình độ cơng nghệ nhìn chung cịn lạc hậu, đổi mới chậm.
Tình trạng thiếu việc làm cịn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa
động viên được cán bộ, cơng chức, người lao động gắn bó, tận tâm với công
việc. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa
còn nhiều khó khăn. Xố đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo
cao. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo cịn khá lớn và ngày càng dỗng ra.
Chất lượng cơng tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cịn thấp, hệ thống y tế và
chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh của nhân
dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số. Vệ sinh, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Văn hoá phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn
hố, văn nghệ, báo chí, xuất bản cịn thiếu chặt chẽ. Mơi trường văn hố bị xâm
hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội
phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức,
nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại.
Việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ mơi trường cịn chậm, thực
hiện chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả thấp. Môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị
xuống cấp, một số nơi đã đến mức báo động. Chưa chủ động nghiên cứu, dự báo
đánh giá tác động của biến đổi khí hậu; hậu quả của thiên tai cịn nặng nề.
Cơng tác xã hội hố chưa được đẩy mạnh, chưa huy động được nhiều
nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học,
cơng nghệ, văn hố, giải quyết các vấn đề xã hội, mơi trường.
3. Các lĩnh vực quốc phịng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế.
Một số quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đại hội X về nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh chưa được triển khai thực hiện kịp thời. Nhận thức về quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân của một số cán bộ, đảng viên trong các
ngành, các cấp chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác trước âm mưu “diễn biến
hồ bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ. Cơng tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh vực cịn có những thiếu sót; xử lý
tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc, có nơi cịn bị động, tội phạm hình sự,
tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở một số địa bàn còn diễn
biến phức tạp. Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường sức
mạnh quốc phòng, an ninh, đặc biệt là tại các vùng chiến lược, biển, đảo cịn
chưa chặt chẽ. Cơng nghiệp quốc phòng, an ninh chưa đáp ứng yêu cầu trang bị
cho các lực lượng vũ trang.
Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại có mặt cịn hạn chế.
Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân
dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá đối ngoại chưa thật đồng bộ.
4. Dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy
đầy đủ.
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi
phạm. Việc thực hành dân chủ cịn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng
dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an
toàn xã hội.
Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và
lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được thể chế đầy đủ thành pháp
luật; hoặc đã thể chế hoá nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc; công tác kiểm
tra, đôn đốc chưa thường xuyên; giữa chủ trương và tổ chức thực hiện còn cách
biệt. Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong
trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng
lớp nhân dân và cơ sở.
5. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu
cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước.
Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật
còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan cịn chưa hợp lý, biên chế cán bộ,
cơng chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn
chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu
cầu đề ra; thủ tục hành chính cịn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Năng
lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu;
phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội khơng
nghiêm. Cải cách tư pháp cịn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ,
truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án bị huỷ,
bị cải sửa cịn nhiều.
Cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được u cầu đề ra.
Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh
vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
6. Cơng tác xây dựng Đảng cịn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được
khắc phục.
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một
số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của cơng tác
tư tưởng cịn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn
“diễn biến hồ bình”. Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy
lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hoá giàu nghèo và sự
yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất
nước. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi cịn mang tính hình thức, hiệu quả
chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu.
Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội
chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa rõ
ràng. Việc đổi mới công tác cán bộ cịn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để
thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử dụng người tài;
chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Tình trạng chạy
chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục.
Cơng tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thấp.
Môi trường làm việc, chính sách cán bộ chưa tạo được động lực để khuyến
khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán bộ; chưa cổ vũ ý chí
phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận tụy của cán bộ đối với công việc.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của khơng ít tổ chức đảng cịn thấp;
cơng tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nề nếp, nội dung
sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng tổ chức cơ sở
đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cịn
chậm, vai trị của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt. Động cơ phấn đấu vào Đảng của
một số người có biểu hiện lệch lạc, cơ hội.
Việc xử lý, sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị
cịn phiến diện, thiếu chặt chẽ. Việc xem xét, giải quyết những vấn đề chính trị
hiện nay của cán bộ, đảng viên còn lúng túng. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa
quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác này.
Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi
trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị
quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phòng ngừa tiêu cực và phát
huy nhân tố tích cực. Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng
chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức,
lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật,
kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng khơng nghiêm. Sự đồn kết, nhất trí ở khơng ít
cấp uỷ chưa tốt.
Một số tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân dân chưa
quan tâm đúng mức công tác dân vận. Nội dung, phương thức vận động, tập hợp
quần chúng vẫn nặng tính hành chính.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Chức
năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ ràng, cụ
thể nên hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới chậm; hội
họp vẫn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ cịn bị vi phạm, ảnh hưởng đến sự
đồn kết, thống nhất trong Đảng.
Những hạn chế, yếu kém có nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính, suy thối kinh tế tồn cầu; thiên tai, dịch bệnh;
những yếu kém vốn có của nền kinh tế; sự chống phá của các thế lực thù địch;
nhưng trực tiếp và quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan: Công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu. Nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới cịn hạn chế,
thiếu thống nhất. Cơng tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số
vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không
nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức cịn bất cập.
C. KẾT LUẬN
Ý nghĩa đại hội X
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra
trong thời điểm lịch sử có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
+ Nhân loại đã bước qua năm thứ sáu của thế kỷ XXI trong một thế giới
đầy biến động với các mâu thuẫn chồng chéo, đan xen. Chiến tranh và xung đột
vũ trang tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi. Trong nước, sự nghiệp đổi mới đã trải qua
20 năm. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vừa kết thúc 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng, cũng là 5 năm đầu tiên của thế kỷ XXI. Nhìn khái
quát 20 năm đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử, đã đưa lại cho đất nước ta một sự thay đổi cơ bản, toàn diện, làm cho thế
và lực, uy tín quốc tế của nước ta tăng lên nhiều so với trước.
+ Năm năm 2006 - 2010 có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI do Đại hội IX của
Đảng đề ra.
+ Mở đường cho sự nghiệp đổi mới tiếp tục đi lên, đại hội X có ý nghĩa
trọng đại, các văn kiện được thông qua tại Đại hội “là kết tinh trí tuệ và ý chí của
tồn Đảng, tồn dân ta, là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 20 năm đổi
mới”. Thành công của Đại hội đánh dấu một mốc son trên chặng đường hơn 76
năm lãnh đạo cách mạng của Đảng, mở ra thời kì phát triển mới của công cuộc
đổi mới.