Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận cao học thực trạng tuyên truyền, giáo dục phổ biến kiến thức tính dục cho sinh viên cac truong dai hoc o HN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 25 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tính dục là một chủ đề nhạy cảm đối với không ít người dân Việt Nam,
đặc biệt là với các bạn trẻ, trong đó có sinh viên đang học tập ở các trường
Đại học và Cao đẳng. Những từ khóa như tình dục, hoặc tình dục học, quan
hệ tình dục (trước hơn nhân), tuổi có quan hệ tình dục lần đầu…đã, đang xuất
hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông đại chúng thì thuật ngữ tính dục
lại có vẻ như xa lạ đối với nhiều người.
Trong xã hội hiện đại, thông tin trở thành nhu cầu không thể thiếu đối
với con người. Người ta ví thế giới như một ngơi làng nhỏ mà chìa khóa để
mở ngơi làng ấy chính là thơng tin. Tuy nhiên, với thơng tin về tính dục – một
chủ đề vẫn được coi là “nhạy cảm” đối với khơng ít người dân Việt Nam thì
nhóm sinh viên, nhóm thế hệ tương lai sắp bước vào lực lượng lao động, làm
chủ đất nước đã và sẽ tìm kiếm thơng tin này ở đâu? Khi mà nhiều gia đình
vẫn xem việc nói chuyện về tình dục là điều cấm kị. Nhiều bậc cha mẹ, thầy
cô cũng cảm thấy lung túng khi đề cập đến vấn đề này trước con trẻ.
Nhiều năm qua, đối mặt với những thách thức của sự bùng nổ dân số,
đại dịch HIV/AIDS và tỷ lệ nạo phá thai đáng báo động, đặc biệt với nhóm
thanh niên và vị thành niên, đối tượng được xác định là một trong các nhóm
có “hành vi nguy cơ” cao ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước.
Sau Hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển tổ chức tại Cairo năm 1994, vị
thành niên đã thực sự được coi là một trong những nhóm đối tượng chính
sách quan trọng.
Cùng với những nỗ lực chính sách này đã có nhiều nghiên cứu khảo sát
đánh giá nhận thức, hiểu biêt và hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản, tình dục
của vị thành niên do các tổ chức trong và ngoài nước tài trợ thực hiện. Các
nghiên cứu đều có một nhận xét chung là kiến thức, hiểu biết của học sinh,
sinh viên về tình dục cịn khá hạn chế và còn nhiều lệch lạc. Việc thiếu kiến
1



thức về tính dục đã dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc khơng chỉ cho bản than
mà cịn gia đình các em và xã hội.
Cuôc điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm
2003 là cuộc điều tra lớn và toàn diện nhất về thanh thiếu niên ở nước ta từ
trước đến nay. Cuộc điều tra được thực hiện ở 42 tỉnh thành phố với các bạn
trẻ độ tuổi từ 14 đến 25. Trong phần tìm hiểu về vai trị của gia đình đối với
Sức khỏe sinh sản vị thành niên được đánh giá thông qua các chỉ báo: Người
đầu tiên mà vị thành niên nói chuyện trước khi bắt đầu có dấu hiệu của tuổi
dậy thì; các nguồn cung cấp thơng tin cho các em về các chủ đề như kế hoạch
hóa gia đình, sự thụ thai, kinh nguyệt, giới tính và tình dục, tình u, hơn
nhân và gia đình….Tuy nhiên, sự giao tiếp giữa cha mẹ và con cái đơn thuần
chỉ là tìm hiểu vai trị của gia đình trong việc cung cấp thông tin sức khỏe cho
vị thành niên chứ chưa đề cập đến phương pháp, cách thức và mức độ cũng
như hiệu quả của sự giao tiếp cha mẹ - con cái về tính dục.
Chính vì thế, câu hỏi đặt ra là: Mức độ tiếp cận nguồn thơng tin về tính
dục của sinh viên như thế nào? Sinh viên có mong muốn như thế nào đối với
các chủ đề liên quan đến tính dục? Dựa trên các nghiên cứu khoa học của một
số tác giả và nghiên cứu định tính trong khn khổ đề tài: “Báo chí trong vấn
đề tun truyền, giáo dục tính dục cho sinh viên hiện nay”, em xây dựng giả
thuyết trả lời cho câu hỏi nghiên cứu: Sinh viên chủ yếu tiếp cận các thông tin
liên quan đến tính dục thơng qua phương tiện truyền thơng đại chúng; Đa số
sinh viên muốn biết được kiến thức về tính dục thơng qua báo chí; Các
phương tiện truyền thơng đại chúng là nguồn cung cấp thông tin cơ bản và
phong phú nhất cho sinh viên đặc biệt là sách, báo.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng tuyên truyền, giáo dục tính dục trên báo chí. Tìm
hiểu mong muốn của sinh viên hiện nay đối với vấn đề tính dục. Từ đó em rút
ra một số kết luận và đưa ra một số khuyến nghị cho việc tuyên tuyền phổ
biến kiến thức tính dục trên báo chí cho sinh viên.
2



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Thực trạng tuyên truyền, giáo dục phổ biến kiến thức tính
dục cho sinh viên
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trên một số kênh thơng tin đại
chúng, báo chí và trong bộ phận sinh viên của một số trường Đại học trên địa
bàn Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được tiến hành dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và một số lý thuyết xã hội học.
- Thông qua phương pháp khảo sát thực tiễn, phân tích, tổng hợp, thống
kê…
- Chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, xử lý tài liệu
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung chính (có 3 chương), phần
kết luận và một số khuyến nghị.

3


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
TÍNH DỤC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TUYÊN TRUYỀN GIÁO DỤC
TÍNH DỤC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
1.1.

Tính dục và tuyên truyền, giáo dục tính dục

Tính dục là thuật ngữ tương đối nhạy cảm nhưng cũng được đề cập tới

khá nhiều nhưng không phải người nào cũng hiểu rõ về nội hàm của khái
niệm này.
Trước hết về tính, Theo “Hán ngữ đại từ điển” (Trung Quốc) thì, tính
có nghĩa là bản tính đầu tiên con người mới sinh ra.
Trong hệ từ thượng của sách “ Kinh dịch” có viết: “Nhất âm, nhất
dương gọi là đạo. Sự tiếp tục của Đạo thì gọi là Thiện. Sự thành quả của nó
gọi là Tính”. Khổng Dĩnh Đạt chú sớ câu này như sau: “Nếu như đạo này đạt
được thành tựu thì đấy là bản tính của con người”.
Trong “Luận ngữ” của Khổng Tử, thiên “Dương hóa” có câu rằng,
“tính thượng cận dã tập tương viễn dã”, nghĩa là: “Tính thì gần giống nhau,
tập luyện thì ngày càng khác xa nhau. Với nghĩa này, chúng ta có thể hiều:
Con người khi mới sinh ra thì cơ bản giống nhau, nhưng do mơi trường sống,
rèn luyện, giáo dục, học tập…nên tính cách dần dần khác nhau.
Lưu Bảo Nam chính nghĩa cũng cho rằng, “nhân tính tương cận, nhi tập
tương viễn”, nghĩa là: Tính người khi mới sinh ra thì giống nhau, do học tập
rèn luyện… mà khác nhau.
Tư Mã Quang đời Tống, khi bàn về tính nói rằng, “phù tính giả, nhân
chi sở thụ ư thiên dĩ sinh giả dã”, nghĩa là: phàm nói về tính thì là do con
người bẩm thụ, ở trời mà sinh ra.
Vương An Thạch, trong sách “Thượng chấp chính thư” nói: “Điểu thú,
ngư quy, cơn trùng, thảo mộc, hạ sở dĩ dưỡng chí giác các đắc tận kỷ tính nhi
bất thấn dã”, nghĩa là: Chim mng, rùa cá, cơn trùng, thảo mộc có thể tự
4


dưỡng được cho mình bởi vì tất cả các loại này đều được trời sinh ra, ban cho
bản năng sinh tồn (tính) mà khơng bị mai một trong tự nhiên.
Như vậy, có thể nói tính là bản tính của con người, khi mới sinh ra đã
có, và cũng với giáo dục, rèn luyện mơi trường sống…mà bản tính đó thay
đổi. Tính dục cũng thuộc về bản tính của con người, ai được sinh ra ở trên đời

cũng có, và qua giáo dục trong mơi trường sống, tính dục của con người cũng
có ảnh hưởng.
Về mặt thuật ngữ khoa học, tính dục (sexuality) được hiểu là khả năng
của con người thực hiện hành vi tình dục, tức là đáp lại các kích thích tình dục
và kiếm tìm sự thỏa mãn về các hoạt động tình dục như vuốt ve, giao hợp, tự
kích thích. Nói đến tính dục khơng chỉ nói đến cơ quan sinh dục mà cả các
vùng nhạy cảm của cơ thế cũng như mong muốn khát vọng và tưởng tượng
liên quan đến tình dục.
Tính dục là thuộc tính của con người. Tất cả mọi người đều có tính dục
bết kể là nam hay nữ, già hay trẻ, độc thân hay kết hơn, có hành vi tình dục
hay khơng có hành vi tình dục…tính dục phát triển trong q trình trưởng
thành của con người, nó bao hàm tình dục và có thể biểu hiện qua tình dục.
Tính dục được xác định là cơ sở sinh học nhưng lại là sản phẩm mang tính
chất xã hội bởi hành vi của con người là hành vi mang bản chất xã hội.
Năm 2012 WHO đưa ra định nghĩa về tính dục:
Tính dục là trọng tâm của toàn bộ đời sống con người, bao gồm tình
dục, các đặc điểm và vai trị giới, định hướng tình dục, giới tính, sự thỏa mãn,
quan hệ riêng tư và tái sinh sản. Tính dục là sự trải nghiệm và sự thể hiện
trong suy nghĩ, tưởng tượng, ham muốn, quan niệm, thái độ, giá trị, hành vi,
hoạt động, vai trị của các mối quan hệ. Trong khi tính dục có thể bao gồm tất
cả các khía cạnh đều được trải nghiệm và thể hiện. Tính dục chịu ảnh hưởng
của sự phân phối giữa các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, kinh tế, chính trị,
văn hóa, đạo đức, luật pháp, lịch sử, tín ngưỡng và tinh thần.

5


Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng, tính dục là nhân cách bao hàm tổng thể
những tính cách, tâm lý, tình cảm, hành vi ứng xử cảu con người.
Tình dục (sex) là sự thể hiện (cụ thể hóa) của tính dục tình dục tồn tại

như một bộ phận hoạt động cấu thành đời sống của con người. Nó như là cơ
sở sâu xa cho sự xuất hiện tình yêu, tình vợ chồng và nhờ vậy mà loài người
tồn tại và phát triển. Tình dục là sản phẩm xã hội, được quy định bởi các yếu
tố văn hóa và xã hội. Mọi nền văn hóa đều có chuẩn mực liên quan đến giới
tính và tình dục. Các chuẩn mực xã hội thể hiện trong vai trị giới, trong các
mối quan hệ hơn nhân, tình bạn, tình u và gia đình. Nó quy định các hành vi
hoạt động tình dục, các thơng lệ trong hôn nhân, sự trừng phạt đối với những
hành vi tình dục khơng được chấp nhận, thái độ đối với mại dâm, cấm kị tình
dục đồng giới, tránh thai và giáo dục tính dục… Do đó việc tìm hiểu, học hỏi
để có những tri thức về tính dục và ứng xử có văn hóa trong lĩnh vực này là
quyền lợi và trách nhiệm của mỗi con người.
Ở phương Đông, theo ngơn ngữ nhà Phật, tính dục gọi là tập tính, lạc
dục. Trong cuốn sách Kim “Vô lượng nghĩa kinh, thuyết pháp phẩm” có nói:
“Nhi nhập chúng sinh chư căn tính dục, tính dục vơ lượng, cổ thuyết pháp vơ
lượng, cố nghĩa diệt vô lượng”, nghĩa là: Đi vào thế giới mn vàn chúng sinh
để bàn căn ngun của tính dục thì tính dục vơ lượng (tức là khơng thể đo
đếm được). Do đó mọi phương pháp thuyết trình về nó cũng khơng thể bàn
hết được. Vì vậy, vấn đề tun truyền giáo dục tính dục là một vấn đề hết sức
khó, nhạy cảm địi hỏi sự tinh tế, tế nhị, không thể bàn hết trong một hoặc một
số nghiên cứu.
1.2. Sự cần thiết của việc tuyên truyền giáo dục tính dục cho sinh
viên trên báo chí hiện nay
1.2.1. Những căn cứ để lồng ghép nội dung, xây dựng chương trình
liên quan đến tính dục trên báo chí hiện nay
Ở Việt Nam, vào những năm 70 của thế kỉ XX, khi nghe những thơng
tin về giáo dục giới tính, tính dục ở các nước Liên Xô, Đức, Ba Lan, Thụy
6


Điển…nhiều người đã lo lắng, băn khoăn và cảm thấy dường như có điều bất

ổn. Song cùng với sự phát triển của xã hội, việc nhìn nhận giáo dục giới tính
tính dục ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi với dấu mốc lịch sử là sự ra đời của
chỉ thị 176a của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng giao nhiệm vụ
giáo dục giới tính, hơn nhân gia đình…
Đặc biệt từ khi vấn đề giáo dục và chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành
niên được đề cập trong Chương trình hành động Cairo 1994: “các nước, với
sự hỗ trợ của cộng đồng Quốc tế, nên bảo vệ và đề cao quyền của vị thành
niên được giáo dục thơng tin về tính dục và chăm sóc sức khỏe sinh sản để
giảm các dịch bệnh lây nhiễm qua đường tình dục cũng như có thai ngồi ý
muốn ở vị thành niên” mà Việt Nam đã ký cam kết triển khai thực hiện thì
vấn đề giáo dục giới tính, giáo dục tính dục đã được quan tâm hơn.
Để đáp ứng nhu cầu thông tin và dịch vụ sức khỏe tính dục cho vị thành
niên. Tại Hội nghị bàn trịn về sức khỏe, quyền tình dục và sinh sản vị thành
niên do Ban Dân số Liên Hiệp Quốc và Qũy Fonrd tổ chức tại New York từ
ngày 14 đến ngày 17/4/1998, hầu hết các nước, trong đó có Việt Nam đã công
nhận quyền của vị thành niên được đáp ứng nhu cầu thơng tin, dịch vụ chăm
sóc sức khỏe sinh sản và giáo dục giới tính cho thế hệ trẻ vì vấn đề sức khỏe
sinh sản của tuổi trẻ có tác động và ảnh hưởng đến sự tồn vong của một dân
tộc.
Kể từ đó, tun truyền giáo dục tính dục và chăm sóc sức khỏe sinh sản
vị thành niên trở thành một trong bảy nội dung của chiến lược sức khỏe sinh
sản ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 nhằm nâng cao chất lượng dân cư, đáp
ứng nhu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Sau một thời kì triển khai, cơng tác giáo dục giới tính, tính dục đã đạt
được nhiều thành tựu. Những bài học giới tính, tính dục đã trở thành những
chuyên mục lớn và tuyên tuyền phổ biến rộng khắp trên khắp các phương tiện
truyền thơng đại chúng, báo chí đặc biệt là trên mạng Internet.

7



1.2.2. Sự cần thiết của tuyên truyền, giáo dục tính dục cho sinh viên
hiện nay
Giai đoạn vị thành niên có vị trí rất quan trọng trong chu kì đời người,
nhưng cũng dễ bị tổn thương về thể chất và tâm lí, dễ bị ảnh hưởng của tệ nạn
xã hội và hành vi phạm tội. Là đối tượng của những rủi ro về sức khỏe tính
dục như các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, HIV/AIDS, có thai ngồi ý
muốn…nếu như họ khơng có đủ thơng tin, kiến thức để chăm sóc sức khỏe và
biết tự bảo vệ mình. Vì vậy hành động đúng về Sức khỏe sinh sản vị thành
niên và thanh niên hơm nay là vì một ngày mai tốt đẹp cho chính họ và cả
tồn dân tộc.
Ở Việt Nam, nhóm vị thành niên chiếm khoảng 20% dân số, là thế hệ
tương lai sắp bước vào lực lượng lao động và làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội. Trong những thập kỉ này, ở Việt Nam, số vị thành niên và thanh niên trẻ
ngày một nhiều thêm do kết quả của tỷ lệ sinh cao của những thập kỷ trước.
Chính vì thế, việc giáo dục giới tính, giáo dục tính dục vì một ngày mai tốt
đẹp cho dân tộc lại càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Mặt khác, mặc dù quan hệ tình dục trước hơn nhân là điều chưa được
chấp nhận rộng rãi trong xã hội chúng ta, nhưng hiện nay đang là hiện tượng
nổi cộm ở các thành phố lớn. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã
có những nghị quyết và luật liên quan đến chăm sóc và bảo vệ sức khỏe vị
thành niên và thanh niên, nhưng trên thực tế, vấn đề SKSS vị thành niên và
thanh niên vẫn còn những biểu hiện đáng lo ngại.
Tỷ lệ gái mại dâm tuổi vị thành niên có xu hướng tăng theo thời gian.
Theo Cơng trình nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS… của Bộ Y tế thì năm
1989, gái mại dâm chiếm 2,1% dân số, đến năm 1996 là 12%... đây là đối
tượng có nguy cơ cao lây truyền các bệnh qua đường tình dục và HIV/AIDS;
tỷ lệ nạo phá thai tuổi vị thành niên chiếm khoảng 25 – 30% tổng số người
nạo phá thai (ước tính 300.000 ca/ năm). Trong số đó phần lớn các em chưa
biết đến những tai biến dễ xảy ra do nạo phá thai khơng an tồn ở độ tuổi q

8


trẻ như: Choáng, rong kinh kéo dài, dễ nhiễm trùng bộ phận sinh dục, viêm
tiểu khung, nhiễm trùng máu, thủng tử cung, dính tử cung dẫn đến vơ sinh sau
này…Quan hệ tình dục sớm và nạo phá thai tuổi vị thành niên đã trở thành
vấn đề ảnh hưởng đến nhân cách và cơ hội phát triển của thế hệ trẻ mà phần
thiệt thịi hơn là các em gái. Ngồi ra, hàng năm có khoảng 5% phụ nữ sinh
con trước 18 tuổi và 15% sinh con trước 19 tuổi… nhìn chung có rất nhiều rủi
ro nghiêm trọng có liên quan đến hoạt động tình dục sớm dù là trong hay
ngồi hơn nhân.
Nhón này là nạn nhân chính của HIV/AIDS ở Việt Nam. Trong số
những người nhiễm HIV, thanh niên trẻ từ 15 đến 24 chiếm gần 50% và đang
có khả năng tăng thêm nữa, điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng lực lượng
lao động trẻ của đất nước.
Tỷ lệ mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục dưới độ tuổi 15 là
1,16% với bệnh lậu, 1.5% đối với bệnh hoa liễu…Hậu quả của các bệnh lây
nhiễm này là điều trị tốn kém về tiền bạc, nguy hại về sức khỏe, cũng có thể
gây nên vơ sinh. Lậu nam giới cịn có thể làm hẹp niệu đạo. Bệnh giang mai
vừa khó chữa vừa có thể truyền sang cho thai nhi…
Những vấn đề trên nếu không được xã hội quan tâm giải quyết tốt sẽ
không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng của thể hệ trẻ hiện nay mà còn ảnh
hưởng đến chất lượng các thế hệ mới trong tương lai.
* Nguyên nhân của tình trạng trên
- Do hoạt động tình dục ở tuổi vị thành niên đã tăng lên. Hiện nay, tuổi
dậy thì sớm hơn do bộ phận sinh sản trưởng thành sớm nhưng tuổi kết hơn lại
muộn hơn, do đó hoạt động tình dục trước hơn nhân có xu hướng tăng hơn
trước đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội khoảng 15%, Thành phố Hồ
Chí Minh tới 25%...
- Do con người được sống tự do hơn trong xã hội phát triển. Khác với

chuẩn mực của xã hội phong kiến: “nam nữ thụ thụ bất thân”, “cha mẹ đặt đâu

9


con ngồi đấy”. Giới trẻ hiện nay được sống trong chuẩn mực tự do yêu
đương, không bị ràng buộc nhiều bởi lễ giáo phong kiến như trước đây.
- Do thiếu thơng tin và kiến thức về tính dục và chăm sóc SKSS. Vì vấn
đề này cịn ít được đề cập trong gia đình, nhà trường và ngồi xã hội. Một
trong những trở lực khiến cho nhiều người phương Đông cảm thấy ngần ngại
khi đặt vấn đề giáo dục SKSS vị thành niên là do ảnh hưởng của tư tưởng
Khổng giáo và Nho giáo và vì tuổi trẻ chưa được coi trọng đúng mức. Nhiều
người vẫn coi vị thành niên chưa phải là thanh niên, chưa được phát triển đầy
đủ, chưa có khả năng tự quyết định cuộc đời mình.
Vấn đề giáo dục giới tính và tình dục cho con cái vẫn xem là điều cấm
kị trong nhiều gia đình. Trong số những gia đình quan tâm đến vấn đề này thì
nhiều bậc cha mẹ cảm thấy lung túng, khơng lựa chọn được phương pháp phù
hợp.
- Do chương trình Dân số- Kế hoạch hóa gia đình (DS- KHHGĐ) chưa
quan tâm đến đối tượng vị thành niên. Chương trình DS – KHHGĐ trước năm
2000 chủ yếu quan tâm đến đối tượng các cặp vợ chồng có vợ trong độ tuối
sinh đẻ với mục tiêu giảm mức sinh để hạn chế sự gia tăng dân số.Vấn đề
tuyên truyền giáo dục tình dục và chăm sóc SKSS vị thành niên chưa được
quan tâm, chưa được thực hiện một cách rộng rãi trên các phương tiện thông
tin đại chúng và chưa được chấp nhận để đưa vào chương trình giáo dục chính
thống trong nhà trường.
- Tồn cầu hóa kinh tế bên cạnh những mặt tích cực có những mặt trái
của nó như: sự gia tăng của tệ nạn tham nhũng, tội phạm, bạo lực, cờ bạc,
rượu chè, nghiện ma túy và mại dâm… cùng hậu quả của nó là AIDS đang đe
dọa làm xói mịn những giá trị đạo đức truyền thống của mỗi dân tộc trên thế

giới.
Tồn cầu hóa, sự hội nhập khơng chỉ đem tới cho mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc những thành quả chung của trí tuệ lồi người về kinh tế, khoa học
cơng nghệ, văn hóa xã hội…nhưng mặt trái của nó khơng phải chỉ là nỗi lo
sợ, sự thách thức tụt hậu về kinh tế mà chính là sự “xâm lăng” về văn hóa tự
nhiên rất nhanh chóng bởi thời đại kết nối toàn cầu, thời đại Internet, của
10


những phương tiện kĩ thuật cao, thời đại mà khoảng cách không gian quá xa
xôi giữa bên này bên kia bán cầu khơng cịn ý nghĩa. Tồn cầu hóa kinh tế
cũng là môi trường thuận lợi khiến bộ phận thanh niên có quan điểm “sống
hiện đại”, khi yêu là phải “yêu hết mình”, dâng hiến tất cả… Họ cho rằng hoạt
động tình dục là biểu hiện của lịng tin và tình yêu chân thành. Hơn nữa, trong
quan niệm của họ, tính chất của hoạt động tình dục phần lớn là khơng dự định
trước đầy tính ngẫu hứng nên hậu quả dễ bị mang thai ngoài ý muốn, dễ mắc
bệnh lây qua đường tình dục và HIV/AIDS… Kết thúc của thai nghén ngoài ý
muốn là phá thai hoặc “đành để đẻ”. Hậu quả tâm lí của thai nghén ở tuổi vị
thành niên rất lớn: Dễ mặc cảm, chán đời vì người yêu phụ bạc,… một số em
gái có thai phải bỏ học, học vấn thấp sẽ làm cho các em khó có cơ may kiếm
được nghề tốt và lương cao, hiệu suất lao động thấp sẽ khổ suốt đời.
Bài học “Xì căng đan Vàng Anh” vẫn cịn đó để lại cho chúng ta những
suy ngẫm về lối sống của thế hệ trẻ và chuyện văn hóa của một đất nước thời
tồn cầu hóa và hội nhập. Mặt trái của tồn cầu hóa hay hội nhập càng trở nên
đe dọa nền tảng văn hóa, bản sắc và những giá trị truyền thống, vừa là tinh
hoa vừa là hồn cốt, đạo lý sống của mỗi đất nước, trong đó có nước ta. Nếu
chúng ta không đủ mạnh, không đủ tâm và tầm để hướng đạo cho tuổi trẻ vừa
biết cách tiếp ứng và tiếp nhận cái mới, cái văn minh, vừa biết “dị ứng” với
cái xấu, cái độc hại.
Truyền thơng về giới tính và tình dục giúp thanh niên thực hiện hành vi

tình dục có trách nhiệm, tránh có thai ngồi ý muốn, hạn chế nạo phá thai
khơng an tồn cũng như các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục,
HIV/AIDS… là những điều cơ bản để tăng khả năng lựa chọn cho thanh niên
sinh viên. Sự hình thành bản sắc cá nhân và xã hơi ở lứa tuổi thành niên,
thanh niên thường có sự thử nghiệm sở thích và những cơ hội, nó rất nhạy
cảm với những phản ứng của người khác, đặc biệt là các bạn cùng trang lứa.
Việc giáo dục thanh niên sinh viên về hậu quả trước mắt và lâu dài của những
hành vi tình dục thiếu trách nhiệm sẽ giúp cho họ có những quyết định đúng
đắn hơn. Đó là trách nhiệm của công dân mà ai cũng phải hành động.

11


Chương 2
THỰC TRẠNG TUYÊN TRUYỀN GIÁO DỤC TÍNH DỤC CHO SINH
VIÊN TRÊN BÁO CHÍ HIỆN NAY
2.1. Hiểu biết của sinh viên về tính dục và các chủ đề liên quan đến
tính dục
Hầu hết thanh niên Việt Nam đã nghe nói về các chủ đề liên quan đến
SKSS và tình dục như: KHHGĐ, sự thụ thai và kinh nguyệt, giới tính – tình
dục, tình u – hơn nhân, gia đình. Tuy nhiên, khoảng cách giữa việc nghe
thấy và hiểu đúng vấn đề cụ thể này còn là một vấn đề đáng lưu tâm.
Việc nhận thức chưa đến nơi đến chốn về các vấn đề liên quan đến chủ
đề tính dục là một thực tế của một nhóm thanh niên nói chung và nhóm sinh
viên nói riêng. Điều này có thể làm tăng tỷ lệ hành vi sức khỏe (hành vi tình
dục) khơng an tồn trong khi quan niệm về tình dục trước hơn nhân của nhóm
này tỏ ra ngày càng cởi mở hơn, khi mà hiện tượng sống chung trước hôn
nhân của sinh viên hiện nay đang trở thành một hiện tượng xã hội đáng báo
động. Và sinh viên là một trong những đối tượng đóng góp tỷ lệ nạo phá thai
cao. Cho nên cùng với việc giáo dục đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục

Việt Nam và các giá trị văn hóa truyền thống đã đến lúc khơng thể né tránh
việc cung cấp kiến thức một cách hệ thống, khoa học và nghiêm túc cho sinh
viên về vấn đề này để các em có hành vi sức khỏe an toàn và khỏe mạnh.
Tuy nhiên làm thế nào để việc cung cấp kiến thức về tính dục cho sinh
viên vừa hiệu quả lại vừa dễ chấp nhận từ phía các em thì việc thực trạng hiểu
biết của các em về vấn đề này như thế nào và nhu cầu thông tin của các em ra
sao để trên cơ sở đó thiết kế các chương trình, nội dung có tính chất tuyên
truyền giáo dục tính dục cho các em trên các phương tiện truyền thơng, báo
chí.
Báo cáo đề tài: “ Nhu cầu giáo dục tính dục của sinh viên hiện nay” của
nhóm tác giả khoa Xã hội học- Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tiến
12


hành ngiên cứu định lượng với 1000 mẫu sinh viên của 5 trường Đại học trên
địa bàn Hà Nội cho biết: Trong số mẫu nghiên cứu đó có hơn một nửa sinh
viên đã nghe hoặc nghe nhiều đến “tính dục” nhưng vẫn cịn gần một nửa cịn
lại thì hiếm khi hoặc chưa bao giời nghe đến thuật ngữ này. Khi nghe đến
thuật ngữ tính dục thì một nửa khơng có cảm xúc gì, một phần nhỏ cịn lại thì
cảm thấy thú vị và phần cịn lại thì thấy ghê sợ. Chỉ 6% trên 1000 trường hợp
trả lời chính xác về tất cả các chi tiết cụ thể liên quan đến tính dục. Ngược lại,
gần 61% ý kiến trả lời đúng rất ít vầ các chi tiết nội hàm khái niệm tính dục
và chỉ khoảng 1/3 ý kiến trả lời đúng phần nhiều chi tiết nội hàm khái niệm
này. Điều này cho thấy sinh viên hiểu về thuật ngữ tính dục cịn mơ hồ và
khơng đầy đủ.
Tuy nhiên, từng chủ đề cụ thể cần thiết như giới tính và giới; sức khỏe
và SKSS; sức khỏe bệnh tật; các bệnh lây truyền qua đường tình dục; tình dục
an tồn…sinh viên tự đánh giá là có hiểu biết nhiều về những vấn đề này.
Thêm vào đó, mặc dù một số nhận định liên quan đến tính dục vẫn cịn nhiều
định kiến trong nhận thức của sinh viên nhưng nhìn chung hầu hết các nhận

định cụ thể liên quan đến tính dục của họ đã nhận thức đúng.
2.2. Tình hình tuyên truyền giáo dục tính dục cho các bạn trẻ, sinh
viên trên báo chí
Trước thực thực trạng về rủi ro mà vị thành niên, thanh niên và sinh
viên đang gặp phải do thiếu kiến thức, Chính phủ Việt Nam đã quan tâm xây
dựng Chương trình giáo dục tính dục cho thế hệ trẻ nhằm nâng cao chất lượng
của một thế hệ tương lai. Các phương tiện thông tin đại chúng đã đề cập nhiều
hơn đến những chủ đề giới tính, tình dục và SKSS.
Tun truyền giáo dục tính dục cho thế hệ trẻ đã được triển khai nhiều
trên báo chí bằng nhiều hình thức khác nhau như thông qua báo in, báo phát
thanh, truyền hình, mạng điện tử…Khảo sát một số tờ báo, em thấy có nhiều
bài báo mang nội dung liên quan đến tuyên truyền giáo dục định hướng tính
dục cho các bạn trẻ.
13


- Báo in: Kết quả thống kê trong các năm từ năm 1997 đến nay cho
thấy các bài có liên quan đến tính dục tăng đáng kể. Các tác phẩm về chủ đề
tính dục ngày càng nhiều và phong phú về hình thức, thể loại…Cụ thể trong
một nghiên cứu cho thấy kết quả trong các năm 2000, 2002 trên 2 tờ báo lớn
là báo Nhân dân và Thanh niên: Báo Nhân dân có hơn 817 bài/ số báo có bài
viết về tính dục. Cịn báo thanh niên có 1154 bài / 538 số báo, trong đó cớ 24
số viết từ 5 bài trở lên về giới tính, tình dục và SKSS.
- Đài phát thanh: Bắt đầu có nhiều chương trình tư vấn sức khỏe, SKSS
mà điển hình là chương trình Cửa sổ tình yêu phát song vào 10h sáng chủ
nhật và phát lại vào 10h đêm cùng ngày hàng tuần trên song AM của đài
Tiếng nói Việt Nam.
- Truyền hình: Đã có nhiều chương trình truyền hình định kì được phát
thường xuyên trên các kênh VTV1, VTV2, VTV3 và truyền hình địa
phương…

- Báo mạng điện tử: Các tờ báo mạng đề cập rất nhiều đến vấn đề tính
dục, có nhiều bài báo liên quan đến chủ đề này như: Chuẩn mực về tính dục
trong xã hội, tơn giáo và tính dục, hình ảnh về tính dục, quan hệ tình dục,
SKSS rất đa dạng phong phú so với báo in thì báo mạng đã đưa nhiều hơn về
hình ảnh tình dục, sinh học tình dục và thiên hướng tình dục.
Trong số các nguồn tin mà sinh viên nhận được thông tin liên quan đến
tính dục thì Internet là nguồn mà được sinh viên tìm kiếm nhiều nhất, sau đó
đến sách, báo, tạp chí thơng thường và sách, báo, tạp chí chun ngành.
Những kênh truyền thông đại chúng trên đã không chỉ phổ cập thơng
tin mà cịn tiếp nhận và giải đáp ngày càng nhiều những câu hỏi, những băn
khoăn liên quan đến vấn đề tâm sinh lí và sức khỏe tính dục.

14


Chương 3
KHẢO SÁT MỘT SỐ TỜ BÁO VÀ NHU CẦU TÌM KIẾM THƠNG TIN
KIẾN THỨC VỀ TÍNH DỤC CỦA SINH VIÊN QUA BÁO CHÍ
3.1. Nhu cầu tìm kiếm thơng tin kiến thức tính dục của sinh viên
hiện nay
Nhu cầu thơng tin, kiến thức về vấn đề liên quan đến tính dục đối với
sinh viên thể hiện thông qua việc sinh viên chủ động tìm kiếm những thơng
tin có liên quan đến tính dục. Trong nghiên cứu đề tài “Nhu cầu giáo dục tính
dục của sinh viên hiện nay” của nhóm tác giả khoa Xã hội học – Học viện
Báo chí và Tuyên truyền cho thấy, trong số 1000 sinh viên được hỏi thì có tới
92% có mong muốn nhận được các kiến thức về tính dục, 65% thừa nhận họ
ln chủ động tích cực trong việc tìm kiếm các thơng tin liên quan đến tính
dục. Như vậy việc phần lớn sinh viên chủ động tìm kiếm các thơng tin về tính
dục cho thấy nhu cầu được cung cấp thơng tin, kiến thức liên quan đến vấn đề
này là cần thiết. Điều đáng chú ý là phần lớn sinh viên đều tìm đến các nguồn

Internet, sách, báo, tạp chí thơng thường hoặc chun ngành để tìm kiếm
thơng tin này.
Số liệu dẫn chứng từ đề tài khoa học: “Nhu cầu giáo dục tính dục của
sinh viên hiện nay” của nhóm tác giả khoa Xã hội học – Học viện Báo chí và
Tuyên truyền thể hiện nhu cầu và cách tiếp cận kiến thức tính dục của sinh
viên hiện nay:

15


Biểu đồ thể hiện mong muốn nhận được kiến thức tính dục của sinh viên qua các
hình thức

Nhu cầu kiến thức về tính dục là một nhu cầu vừa cấp thiết lại vừa rất
cần thiết cho sinh viên hiện nay. Sinh viên có nhiều sự lý giải cho nhu cầu
cần thiết phải giáo dục kiến thức về tính dục cho họ, lý do mà được nhiều
sinh viên lựa chọn nhất để giải thích cho sự cần thiết phải cung cấp thơng tin
tính dục cho sinh viên hiện nay là để góp phần nâng cao sức khỏe và chất
lượng cuộc sống. Bên cạnh đó, giáo dục tính dục cho sinh viên cần cung cấp
chính xác những thơng tin khoa học và y học liên quan đến sinh học, giải
phẫu, sức khỏe sinh sản, hành vi tình dục… cũng là lí do chính được nhiều
sinh viên lựa chọn để giải thích tại sao giáo dục tính dục là cần thiết đối với
sinh viên.
Hiện tại sinh viên vẫn chủ động tìm kiếm những kiến thức về tính dục
thơng qua nhiều kênh thơng tin khác nhau và việc cung cấp thông tin, kiến
thức về vấn đề này cho các bạn trẻ, học sinh, sinh viên là điều vơ cùng quan
trọng mà báo chí đóng vai trò to lớn.
Kết quả của một số nghiên cứu của các nhóm tác giả cho thấy thơng tin
liên quan đến vấn đề tính dục được sinh viên tiếp cận chủ yếu thông qua các
16



phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt với thông tin liên quan đến bóc
lột, lạm dụng tính dục và vấn đề mại dâm. Cụ thể có trên 90% người trả lời
rằng họ biết được điều này qua thông tin đại chúng, báo chí. Các phương tiện
truyền thơng đại chúng có thể truyền đạt các thơng điệp tới thanh niên nói
chung và sinh viên nói riêng một cách hiệu quả bởi cơng chúng có thể tiếp
nhận thơng tin theo cảm nhận riêng của mình. Hơn nữa, họ có cảm giác hịa
đồng vào đám đơng và khơng cảm thấy ngại ngùng khi tiếp nhận thông tin
nhạy cảm.
3.2. Khảo sát một số tờ báo có nội dung bài viết liên quan đến giáo
dục, phổ biến kiến thức tính dục
Nếu chúng ta gõ một từ khóa “các bài viết về tính dục” trên trang
Google thì sẽ có hiển thị khoảng 1.370.000 kết quả trong vịng 0.23 giây; từ
khóa “giáo dục giới tính” thì hiện lên khoảng 30.700.000 kết quả trong vòng
0.16 giây. Trong đó chủ yếu là các bài viết của các trang báo mạng điện tử và
một số trang mạng. Nhìn chung thơng tin về tính dục khá phong phú và đa
dạng. Tuy nhiên, ở mỗi tờ báo, chương mục, diễn đàn khác nhau thì nội dung
liên quan đến tính dục cũng có những định hướng khác nhau, định hướng theo
chủ đề, lứa tuổi, giới tính....

17


- Báo Tuổi trẻ online
Dưới đây là một trang Báo Tuổi trẻ online, cũng với từ khóa đó có ngay
một loạt các bài liên quan đến giáo dục, phổ biến kiến thức tính dục. Các bài
báo phản ánh nhiều khía cạnh khác nhau.

18



- Báo phụ nữ có khá nhiều các bài viết liên quan đến giáo dục tính dục
và cịn có những diễn đàn để các em bộc bạch những suy nghĩ thầm kiến, tế
nhị của mình

19


- Báo Dân trí có khá nhiều bài viết bàn về giáo dục giới tính cho con
trẻ nhưng các bài thường mang tính chất “đao to búa lớn” về việc nhấn mạnh
“cần làm”, “nên làm”, “phải làm”…

Nhận xét:
Phần lớn báo chí đã có ý thức tập trung xây dựng các diễn đàn, chuyên
mục, chương trình để định hướng giáo dục phổ biến về kiến thức tính dục cho
các bạn trẻ. Chẳng hạn như ở báo Phụ nữ Việt Nam có hẳn một tổng đài tư
vấn tâm lí Thanh Tâm. Chuyên mục về giới tính đã mở rộng trên các trang
báo in, báo mạng, phát thanh, truyền hình, có nhiều chun mục dành riêng
cho giới trẻ như đã phân tích ở trên…Song, thơng tin, kiến thức trên báo chí
vẫn cịn mặt hạn chế, đôi khi những bài viết chỉ chung chung, đại khái, phản
ánh thôi mà chưa thật sự chú ý đến phương pháp cụ thể cho sinh viên có thể
lấy đó làm kiến thức, kinh nghiệm. Nếu để so sánh những bài học về giới tính
trên báo chí chính thống với những trang mạng thì các trang mạng hơn hẳn về
sự phong phú trong cả nội dung lẫn hình thức các bài viết, chuyên mục, diễn
đàn…phổ biến kiến thức tính dục cho các bạn trẻ nói chung và sinh viên nói
riêng.

20



C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
**Kết luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã đưa ra bức tranh tổng quát về tuyên
truyền, giáo dục tính dục trên báo chí cho các bạn trẻ nói chung và sinh viên
nói riêng. Qua nghiên cứu, em có thể rút ra được câu trả lời cho các giả
thuyết, đó là những giả thuyết hồn tồn đúng: Sinh viên chủ yếu tiếp cận các
thơng tin liên quan đến tính dục thơng qua phương tiện truyền thông đại
chúng; Đa số sinh viên muốn biết được kiến thức về tính dục thơng qua báo
chí; Các phương tiện truyền thông đại chúng là nguồn cung cấp thông tin cơ
bản và phong phú nhất cho sinh viên đặc biệt là sách, báo. Điều đó cũng nói
lên tầm quan trọng và vai trị to lớn của báo chí đối với sự hồn thiện nhân
cách, tính dục của sinh viên. Thơng qua các chương trình, chun mục, diễn
đàn nội dung tuyên truyền, phổ biến giáo dục kiến thức tính dục cho sinh viên
sẽ phong phú, đa dạng hơn. Nhờ nguồn thơng tin đó các bạn trẻ sẽ có một cái
nhìn tồn diện và tự trang bị cho mình kiến thức để đảm bảo được chất lượng
cho một thế hệ của tương lai.
**Khuyến nghị
Tính dục khơng đơn thuần chỉ là bản chất sinh dục mà nó là một trong
rất nhiều hình ảnh của nhân cách con người. Sự hình thành và phát triển nhân
cách cùng các mối quan hệ của con người bị chi phối và ảnh hưởng bởi các
yếu tố sinh học, tâm lý, tính dục, tinh thần, mơi trường, truyền thống văn hóa
xã hội…Gáo dục tính dục là một khoa học và nghệ thuật dạy cho con người
có đạo đức và hành vi lành mạnh, xây dựng một nhân cách phù hợp với mong
muốn của xã hội và hình thành mối quan hệ có trách nhiệm trong tình bạn
cũng như tình u.
- Bên cạnh việc tiếp nhận thơng tin từ q trình giáo dục của gia đình
thì vai trị của nhà trường và các phương tiện truyền thông đại chúng đối với
việc cung cấp tri thức cho mỗi cá nhân là vơ cùng quan trọng. Tuy nhiên, có
21



nhiều nhà nghiên cứu đưa ra khuyến nghị: Tại Việt Nam chưa có một chương
trình hồn chỉnh nào về chăm sóc sức khỏe sinh sản và tổ chức các hoạt động
để đảm bảo sự phát triển toàn diện của vị vị thành niên. Sức khỏe vị thành
niên chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của tất cả các cơ quan. Một
ngiên cứu nhận định rằng, nguồn thông tin về tính dục mà vị thành niên thu
được chủ yếu là từ các phương tiện thông tin đại chúng, sách, báo. Do đó cần
xây dựng một mạng lưới truyền thơng tốt hơn đặc biệt là phát triển nội dung,
chương trình phổ biến kiến thức tính dục trên báo chí.
- Muốn thực hiện tốt việc tuyên truyền, giáo dục kiến thức tính dục cho
sinh viên thì chúng ta cần phổ biến các kiến thức chuyên môn khoa học về cơ
thể học, sinh lí học, tâm lý học và các vấn đề liên quan đến đời sống tình dục
phải được cơng khai, phong phú đa dạng về nội dung cũng như hình thức biểu
đạt. Giáo dục tính dục và giới tính đang trở nên vấn đề cấp bách của xã hội,
đặc biệt đối với vị thành niên, thanh niên. Trước yêu cầu cấp bách đó, việc
đưa các bài viết, các chương trình có nội dung với cái nhìn đa chiều, phong
phú, đa dạng về kiến thức tính dục trên các phương tiện thơng tin đại chúng
càng trở nên quan trọng.
- Sinh viên hiện nay dành một khoảng thời gian khá lớn cho việc đọc
sách, báo; xem truyền hình và vào mạng Internet. Chính điều này đã giúp cho
sinh viên chủ động hơn trong việc tìm kiếm thơng tin nhất là những thơng tin
“nhạy cảm”, liên quan đến sức khỏe sinh sản, tình dục – nhứng thơng tin ít
khi được trao đổi qua kênh giao tiếp trực tiếp. Kết quả nghiên cứu cũng khẳng
định rằng sinh viên chủ yếu tiếp cận các thông tin liên quan đến tính dục
thơng qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Bởi vậy việc nâng cao
chất lượng của các chương trình truyền hình, xuất bản thêm nhiều ấn phẩm
liên quan đến tính dục nhằm cung cấp thơng tin cơ bản cho vị thành niên,
thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng là điều rất cần thiết và cấp thiết hiện
nay.


22


- Nhu cầu tiếp nhận các kiến thức và thông tin về tính dục trong sinh
viên là rất lớn, 91,6% sinh viên thưa nhận có nhu cầu này. Hình thức truyền
tải mà phần lớn các em mong muốn nhận được các kiến thức về tính dục là
thơng qua sách, báo, tạp chí. Điều đó có nghĩa là đa số sinh viên hiện nay có
nhu cầu biết những thơng tin về tính dục thơng qua sách, báo, tạp chí. Số liệu
này cũng đưa ra một gợi ý cho các nhà tổ chức chương trình trên các phương
tiện truyền thơng đại chúng về tính dục và SKSS cần tiếp tục đầu tư, cải tiến
và cung cấp nhiều hơn nữa số lượng sách, báo, tạp chí có nội dung liên quan
đến tính dục cho sinh viên.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tổng quan đề tài: “Nhu cầu giáo dục tính dục của sinh viên
hiện nay”, Khoa Xã hội học – Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
2. Học viện Báo chí và Tuyên truyền: Các bài báo và cơng trình
nghiên cứu về đề tài tính dục tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền năm 2006
– 2007.
3. Khuất Thu Hồng. Kết quả nghiên cứu về tình dục và nạo phá thai
trước hơn nhân của nữ sinh trên địa bàn Hà Nội
4. Phạm Đình Huỳnh, Đỗ Công Tuấn. Nhận thức và thái độ của sinh
viên các trường đại học về tình dục và ma túy liên quan đến HIV/AIDS, Phân
viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 1999.

24



MỤC LỤC
A.PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................3
5. Kết cấu của đề tài..........................................................................................3
B. PHẦN NỘI DUNG......................................................................................4
Chương 1. TÍNH DỤC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TUYÊN
TRUYỀN GIÁO DỤC TÍNH DỤC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY............4
1.1. Tính dục và tuyên truyền, giáo dục tính dục..............................................4
1.2. Sự cần thiết của việc tuyên truyền giáo dục tính dục cho sinh viên
trên báo chí hiện nay.........................................................................................6
1.2.1. Những căn cứ để lồng ghép nội dung, xây dựng chương trình liên
quan đến tính dục trên báo chí hiện nay............................................................6
1.2.2. Sự cần thiết của tuyên truyền, giáo dục tính dục cho sinh viên hiện
nay.....................................................................................................................8
Chương 2. THỰC TRẠNG TUYÊN TRUYỀN GIÁO DỤC TÍNH
DỤC CHO SINH VIÊN TRÊN BÁO CHÍ HIỆN NAY..............................12
2.1. Hiểu biết của sinh viên về tính dục và các chủ đề liên quan đến tính
dục...................................................................................................................12
2.2. Tình hình tun truyền giáo dục tính dục cho các bạn trẻ, sinh viên
trên báo chí......................................................................................................13
Chương 3. KHẢO SÁT MỘT SỐ TỜ BÁO VÀ NHU CẦU TÌM
KIẾM THƠNG TIN KIẾN THỨC VỀ TÍNH DỤC CỦA SINH
VIÊN QUA BÁO CHÍ...................................................................................15
3.1. Nhu cầu tìm kiếm thơng tin kiến thức tính dục của sinh viên hiện
nay...................................................................................................................15

3.2. Khảo sát một số tờ báo có nội dung bài viết liên quan đến giáo dục,
phổ biến kiến thức tính dục.............................................................................17
C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.............................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................24


×