Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Những điều chỉnh về chính sách đối ngoại của các nước lớn trong khu vực Đông Bắc Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.07 KB, 6 trang )

Tapchicongsan.org
Đơng Bắc Á là một trong những khu vực có vị trí địa - chiến lược quan
trọng trên thế giới. Trong thời gian qua, cục diện chính trị - an ninh tại
khu vực này có nhiều biến động nhanh chóng và khó lường. Từ những
điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của các nước lớn trong khu vực
đến những thay đổi trong quan hệ giữa các chủ thể, tạo nên những nét
mới trong bức tranh về chính trị - an ninh của khu vực Đơng Bắc Á. Bên
cạnh đó, các “điểm nóng” trong khu vực với những diễn biến phức tạp
tiếp tục là những thách thức đe dọa đến hòa bình và ổn định của khu
vực.
Những điều chỉnh về chính sách đối ngoại của các nước lớn trong khu
vực
Đối với Trung Quốc, có thể nói Đại hội XIX của Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn
ra vào tháng 10-2017 đã đưa nước này bước vào một giai đoạn phát triển mới,
tác động sâu sắc đến cục diện chính trị - an ninh tại khu vực Đơng Bắc Á nói
riêng và cục diện thế giới nói chung. Thành quả của hơn 40 năm cải cách, mở
cửa đã đưa Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, tạo đà cho
những bước phát triển tiếp theo về chính trị. Báo cáo chính trị tại Đại hội XIX
của Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua hai “mục tiêu 100 năm”, cho thấy
Trung Quốc muốn vươn lên trở thành cường quốc hàng đầu thế giới, đóng vai
trị chủ đạo đối với các vấn đề của khu vực và toàn cầu. Trung Quốc đã chuyển
từ phương châm đối ngoại “giấu mình chờ thời” sang “tích cực hành động”,
theo đó, Trung Quốc điều chỉnh hoạt động đối ngoại theo hướng chủ động và
quyết liệt hơn nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược của mình. Từ đó, có thể
khẳng định sự thay đổi tương quan so sánh lực lượng và điều chỉnh chính sách
đối ngoại của các nước lớn sẽ là một trong những thách thức địa - chính trị đối
với khu vực Đơng Bắc Á trong thời gian tới.
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tại Hội
nghị thượng đỉnh Trung Quốc - Nhật Bản - Hàn Quốc được tổ chức tại thành phố
Thành Đô (Trung Quốc), ngày 24-12-2019_Ảnh: AP
Tại Hàn Quốc, chính quyền của Tổng thống Mun Chê-in lên nắm quyền từ năm


2017 đã bước đầu đưa ra những điều chỉnh chính sách để cải thiện tình hình
trong nước và ứng phó với những biến động khó lường của tình hình khu vực và
thế giới. Bên cạnh những thay đổi về đối nội, Tổng thống Mun Chê-in đã cụ thể
hóa chính sách đối ngoại của mình thơng qua “Chính sách phương Bắc mới” và
“Chính sách phương Nam mới”. Trong đó, Chính sách phương Bắc mới tích cực
đẩy mạnh trao đổi, hợp tác với CHDCND Triều Tiên và các nước phương Bắc
khác là Trung Quốc và Nga, cịn Chính sách phương Nam mới tập trung phát
triển quan hệ giữa Hàn Quốc với Ấn Độ và các nước ASEAN lên ngang tầm quan
hệ giữa Hàn Quốc với các cường quốc như Mỹ, Nga, Trung Quốc và Nhật Bản (1).
Mục tiêu của những chính sách này nhằm hướng tới kết nối một cộng đồng hịa
bình, thịnh vượng và trách nhiệm tại khu vực, tạo nền tảng quan trọng cho tiến
trình hịa bình trên bán đảo Triều Tiên. Điều này cho thấy vai trò và nỗ lực của
Hàn Quốc trong gần hai năm qua là không thể phủ nhận trong việc xoa dịu tình
trạng căng thẳng tại khu vực, kết nối các bên đàm phán, tạo ra những đột phá
trong tiến trình giải quyết vấn đề phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.


Đối với Nhật Bản, do tính chất nhạy cảm của lịch sử và mối ràng buộc trong
quan hệ liên minh với Mỹ(2), Nhật Bản khơng có nhiều cơ hội để thể hiện sức
mạnh của một nền kinh tế lớn. Tuy nhiên, trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung
Quốc và những mối đe dọa về an ninh trong khu vực mà tiêu biểu là tình hình
trên bán đảo Triều Tiên, nước này đã có những nhìn nhận lại vai trị và sức
mạnh của mình, trong đó có sức mạnh về quân sự. Một trong những dấu ấn là
việc chính quyền của Thủ tướng S. A-bê sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản, cho phép
nước này được dùng quyền phòng vệ, triển khai lực lượng ra nước ngoài để hỗ
trợ các đồng minh trước sự tấn cơng của bên ngồi. Chính quyền của Thủ tướng
S. A-bê quyết tâm “đưa Nhật Bản trở lại bình thường” để sẵn sàng đảm nhận
vai trị lớn hơn trong việc duy trì hịa bình và ổn định khơng chỉ tại khu vực
Đơng Bắc Á mà cịn trên tồn thế giới. Những điều chỉnh chính sách của Nhật
Bản nhằm đưa quốc gia này vươn xa hơn hình ảnh của một cường quốc kinh tế,

từ đó nâng cao vai trị và tầm ảnh hưởng về chính trị trong q trình định hình
cấu trúc chính trị - an ninh của khu vực.
Quan hệ giữa các cường quốc ghi nhận những diễn biến mới trong khu
vực
Cục diện chính trị - an ninh khu vực Đông Bắc Á chịu tác động bởi mối quan hệ
giữa các cường quốc chủ chốt trên thế giới, trong đó có quan hệ Mỹ - Trung
Quốc. Với Mỹ, Đơng Bắc Á có ý nghĩa đặc biệt khi tại đây có hai đồng minh thân
cận của Mỹ là Hàn Quốc và Nhật Bản, cũng như tồn tại các vấn đề chứa đựng
lợi ích của Mỹ. Quan trọng hơn, Đông Bắc Á là một trong những khu vực ưu tiên
hàng đầu của Mỹ trong chiến lược cạnh tranh với Trung Quốc. Với Trung Quốc,
Đông Bắc Á là địa bàn truyền thống, là “sân nhà” mà Trung Quốc có thể phát
huy tối đa vị thế của một cường quốc khu vực, từ đó vươn lên cường quốc tồn
cầu. Trước năm 2017, cả Mỹ và Trung Quốc đều coi việc ổn định và phát triển
quan hệ giữa hai nước là mục tiêu hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mỗi
nước, tuy nhiên từ năm 2017, sự cạnh tranh chiến lược giữa hai cường quốc trở
nên gay gắt. Minh chứng điển hình cho sự cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung
Quốc là cuộc chiến thương mại giữa hai quốc gia này bắt đầu từ năm 2018 và
cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Chính quyền của Tổng thống Đ.
Trăm đã thực thi chính sách thương mại cứng rắn đối với Trung Quốc khi áp
thuế quan cao với các hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, cáo buộc Trung Quốc
lấy cắp công nghệ của Mỹ, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ... Để đáp trả, sau mỗi
lần tăng thuế quan của Mỹ, Trung Quốc cũng lần lượt nâng mức áp thuế quan
đối với các mặt hàng mà quốc gia này nhập khẩu từ Mỹ, áp dụng hàng loạt biện
pháp phi thuế quan khác. Gần hai năm kể từ khi cuộc chiến thương mại diễn ra,
thiệt hại đối với mỗi bên là không hề nhỏ nhưng Mỹ và Trung Quốc vẫn chưa
thể đi đến một thỏa thuận nhằm chấm dứt tình trạng đối đầu căng thẳng này.
Nguyên nhân là do cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc không chỉ nhằm giải
quyết vấn đề bất bình đẳng trong thương mại song phương hay sự minh bạch
trong vấn đề sở hữu trí tuệ mà thực chất là sự thể hiện của chiến lược kiềm chế
lẫn nhau giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới. Không chỉ dừng lại ở lĩnh vực

kinh tế - thương mại, cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc cịn được biểu hiện
rõ nét thơng qua các chiến lược nhằm tập hợp lực lượng của mỗi bên. Phía
Trung Quốc cho rằng việc Mỹ cơng bố và triển khai “Chiến lược Ấn Độ Dương Thái Bình Dương” là nhằm bao vây và kiềm chế Trung Quốc, trong khi đó Sáng
kiến “Vành đai, con đường” của Trung Quốc được Mỹ xem như biện pháp chiến
lược nhằm đẩy lùi ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực. Trên mặt trận quân sự, cả hai


bên cũng tích cực gia tăng chi phí quốc phịng, tăng cường các cuộc tập trận
quy mô lớn tại Biển Đông và biển Hoa Đông nhằm phô diễn sức mạnh quân sự
và răn đe lẫn nhau.
Trong quan hệ giữa Mỹ với Nhật Bản và Hàn Quốc, thời gian qua, những liên
minh này tiếp tục khẳng định tính bền chặt. Trong bối cảnh chính quyền của
Tổng thống Đ. Trăm triển khai “Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”,
Nhật Bản trở thành một trong những mắt xích quan trọng quyết định thành
cơng của chiến lược này. Trong khi đó, q trình hội đàm và tham vấn liên tục
giữa các lãnh đạo Mỹ và Hàn Quốc liên quan đến vấn đề hạt nhân của CHDCND
Triều Tiên trong gần hai năm qua cho thấy, Hàn Quốc là nhân tố không thể
thiếu trong các nỗ lực của Mỹ nhằm phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.
Quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản cũng là mối quan hệ song phương rất quan
trọng, tác động đến cục diện chính trị - an ninh của khu vực Đông Bắc Á. Đều là
những nước lớn đang trên con đường khẳng định vị trí hàng đầu tại châu Á nói
chung và Đơng Bắc Á nói riêng nên tính chất cạnh tranh trong quan hệ Trung
Quốc - Nhật Bản ngày càng sâu sắc. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa hai quốc
gia này vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi những vấn đề lịch sử, như vấn đề ngôi đền
Y-a-su-ku-ni, vấn đề tranh chấp quần đảo Sen-ka-ku/Điếu Ngư... Tuy nhiên,
khoảng một năm trở lại đây, quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản có xu hướng được
cải thiện hơn so với thời kỳ trước đó. Chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng
Nhật Bản S. A-bê (tháng 10-2018) và chuyến thăm dự kiến Nhật Bản của Chủ
tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình vào đầu năm 2020 cho thấy thiện chí của
hai bên trong việc tăng cường quan hệ hợp tác. Sự cải thiện trong quan hệ

Trung Quốc - Nhật Bản xuất phát từ nhu cầu thiết thực của mỗi bên khi Trung
Quốc hiện là đối tác thương mại quan trọng nhất của Nhật Bản, đồng thời mối
quan hệ tốt với Nhật Bản là một trong những phương cách giúp Trung Quốc
giảm bớt rủi ro từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc.
Trong khi đó, quan hệ Nhật Bản - Hàn Quốc thời gian gần đây lại có xu hướng
xấu đi, chạm mức thấp nhấp trong hơn 50 năm qua kể từ khi hai nước thiết lập
quan hệ ngoại giao. Từ giữa năm 2019 đến nay, Hàn Quốc và Nhật Bản liên tục
có những hành động trả đũa lẫn nhau liên quan đến bất đồng về việc cuối năm
2018, Tòa án Tối cao Hàn Quốc đã ra phán quyết buộc các công ty Nhật Bản bồi
thường cho nạn nhân Hàn Quốc bị cưỡng bức lao động trong Chiến tranh thế
giới thứ hai. Trong khi đó, Nhật Bản khẳng định nước này đã đáp ứng các khoản
bồi thường cần thiết cho Hàn Quốc theo Hiệp ước hữu nghị mà hai nước đã ký
kết năm 1965. Do bất đồng không được giải quyết, Nhật Bản đã sử dụng các
biện pháp trừng phạt thương mại để phản đối, như hạn chế xuất khẩu sang Hàn
Quốc một số loại vật liệu công nghệ cao dùng trong các lĩnh vực điện tử mũi
nhọn của Hàn Quốc, đưa Hàn Quốc ra khỏi “Danh sách trắng” gồm các nước
được hưởng quy chế ưu đãi thương mại. Trong khi đó, Hàn Quốc sử dụng các
biện pháp an ninh để trả đũa, như thông báo quyết định không gia hạn Hiệp
định bảo đảm thông tin quân sự chung (GSOMIA) với Nhật Bản, đình chỉ chương
trình “Giao lưu cán bộ nguồn” của lục quân hai nước. Sự căng thẳng trên trong
quan hệ Nhật Bản - Hàn Quốc không chỉ ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình chính
trị, an ninh, kinh tế của hai nước này mà cịn tác động khơng nhỏ đến mơi
trường hịa bình, ổn định của khu vực Đông Bắc Á vốn đang gặp nhiều thách
thức.


Đối với quan hệ Hàn Quốc - Trung Quốc, sau khi Hàn Quốc quyết định triển khai
Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) của Mỹ vào giữa
năm 2017, kéo theo một loạt hành động trả đũa kinh tế từ phía Trung Quốc,
quan hệ giữa hai quốc gia này lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Tuy nhiên,

kể từ khi nhậm chức, Tổng thống Hàn Quốc Mun Chê-in đã có những động thái
nhằm hàn gắn quan hệ hai nước, xây dựng lịng tin vì mục tiêu chung là duy trì
hịa bình và an ninh tại khu vực Đơng Bắc Á. Tiêu biểu trong những nỗ lực đó là
chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Mun Chê-in diễn ra vào tháng 122017 đã đưa quan hệ Hàn Quốc - Trung Quốc trở lại giai đoạn tốt đẹp. Bên cạnh
sự hợp tác chặt chẽ về kinh tế, vai trò quan trọng của cả Hàn Quốc và Trung
Quốc trong tiến trình tìm kiếm giải pháp ngoại giao nhằm phi hạt nhân hóa bán
đảo Triều Tiên là những nhân tố khiến quan hệ giữa hai quốc gia này tiếp tục
duy trì trạng thái ổn định.
Các “điểm nóng” tại khu vực vẫn chứa đựng nhiều nguy cơ gây mất ổn
định
Đối với tình hình trên bán đảo Triều Tiên, vấn đề thống nhất hai miền và tiến
trình phi hạt nhân hóa của CHDCND Triều Tiên mặc dù đã ghi nhận những
chuyển biến tích cực, song vẫn chưa đi đến được giải pháp triệt để và bền
vững. Trong năm 2018, quan hệ liên Triều đã có những bước tiến triển đột phá
phản ánh phần nào mong muốn hòa giải và hòa hợp dân tộc của nhân dân hai
miền kể từ khi bị chia cắt bởi Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953). Việc hai nhà
lãnh đạo của Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên tổ chức các cuộc gặp thượng
đỉnh liên tiếp chỉ trong vòng 6 tháng là những chuyển động chưa từng có trên
bán đảo Triều Tiên. Nội dung trong các tuyên bố chung đưa ra sau các cuộc gặp
thượng đỉnh cũng đã thể hiện mối quan tâm tồn diện và tinh thần tích cực của
hai bên trong việc đề ra những phương hướng chung và những hành động cụ
thể nhằm giải quyết các vấn đề tồn tại trong quan hệ hai miền bấy lâu nay. Tuy
nhiên, kể từ cuộc gặp thượng đỉnh liên Triều lần thứ 3 (tháng 9-2018) cho đến
nay, quan hệ giữa hai miền dường như vẫn chưa đạt được thêm bước tiến nào
so với những cam kết mà hai bên đã đưa ra trước đó.


Người dân Hàn Quốc theo dõi cuộc gặp giữa Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jongun và Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in tại Thủ đơ Bình Nhưỡng (Triều Tiên),
tháng 9-2018_Ảnh: TTXVN
Kể từ cuộc khủng hoảng hạt nhân đầu tiên diễn ra trên bán đảo Triều Tiên vào

năm 1993, vấn đề phi hạt nhân hóa ln là một “điểm nóng” trên bàn nghị sự
trong suốt hơn 20 năm qua. Tình hình trên bán đảo Triều Tiên từ đó cho đến
nay cũng đã chứng kiến diễn biến thăng trầm, có những thời điểm cho thấy
triển vọng lạc quan với những thỏa thuận tích cực đạt được giữa các bên,
nhưng cũng có những giai đoạn căng thẳng leo thang đến mức tột đỉnh đưa
tình hình khu vực đứng bên bờ một cuộc chiến tranh hạt nhân. Đặc biệt, kể từ
khi Tổng thống Mỹ Đ. Trăm lên nắm quyền vào năm 2017, vấn đề phi hạt nhân
hóa bán đảo Triều Tiên đã có những diễn biến đảo chiều một cách nhanh
chóng, khó lường. Trong suốt năm 2017, thế giới chứng kiến liên tiếp các vụ thử
hạt nhân và tên lửa của CHDCND Triều Tiên và kèm theo là các tuyên bố đầy
cứng rắn của Tổng thống Mỹ về khả năng có thể áp dụng mọi biện pháp cần


thiết để kiềm chế mối đe dọa an ninh đến từ Triều Tiên. Tuy nhiên, từ đầu năm
2018 đến nay, tình hình trên bán đảo Triều Tiên lại thay đổi theo chiều hướng
ngược lại. Hai hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều diễn ra vào tháng 6-2018 và
tháng 2-2019 lần lượt tại Xin-ga-po và Việt Nam, cùng với cuộc gặp ngắn giữa
hai nhà lãnh đạo tại Khu phi quân sự (DMZ) vào tháng 6-2019 thể hiện thiện chí
của cả hai bên, tạo nên bầu khơng khí tích cực trong tiến trình đàm phán phi
hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.
Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, quá trình đàm phán đang trong tình trạng bế
tắc với việc khơng có một thỏa thuận nào với những bước đi cụ thể được đưa ra
do sự bất đồng quan điểm giữa các bên về tiến trình thực hiện phi hạt nhân
hóa. Bên cạnh đó, sự bế tắc trong việc giải quyết vấn đề hạt nhân của CHDCND
Triều Tiên một phần do đây là vấn đề xung đột về lợi ích của nhiều quốc gia
trong và ngồi khu vực, khơng chỉ liên quan trực tiếp đến Mỹ, Hàn Quốc và
CHDCND Triều Tiên mà các nước lớn khác, như Trung Quốc, Nga và Nhật Bản
cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Bên cạnh các hội nghị thượng đỉnh với
Mỹ, nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Châng-un cũng đã thực hiện chuyến thăm đến
Nga, hội đàm với Tổng thống Nga V. Pu-tin và đặc biệt là liên tiếp thực hiện

nhiều chuyến thăm đến Trung Quốc để trao đổi với Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình. Với vai trị là “vùng đệm” an ninh ở phía Đơng Bắc của Trung Quốc và
là cơ hội để thơng qua đó Nga dần lấy lại vị thế của mình ở khu vực, Triều Tiên
có ý nghĩa quan trọng trong tính tốn chiến lược của hai cường quốc Nga và
Trung Quốc. Do đó, tiến trình phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên khơng thể
khơng tính đến ảnh hưởng của hai quốc gia này.
Bên cạnh những thách thức nổi bật, an ninh của khu vực Đơng Bắc Á cịn chứa
đựng những nguy cơ gây mất ổn định khác, như các tranh chấp chủ quyền tại
quần đảo Senkaku/Điếu Ngư giữa Nhật Bản và Trung Quốc, tranh chấp bãi đá Tô
Nham/Ieodo giữa Trung Quốc và Hàn Quốc, tranh chấp quần đảo
Dokdo/Takeshima giữa Hàn Quốc và Nhật Bản... Nói tóm lại, cục diện chính trị an ninh tại khu vực Đơng Bắc Á trong thời gian vừa qua đã ghi nhận nhiều diễn
biến mới nhanh chóng và phức tạp. Các nước lớn trong khu vực như Trung
Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã có những điều chỉnh về mặt đối ngoại theo
hướng ngày càng chủ động hơn trong các công việc của khu vực và quốc tế,
tích cực khẳng định vị thế trong quá trình định hình cấu trúc an ninh khu vực.
Trong khi đó, quan hệ giữa các cường quốc tại khu vực cho thấy nhiều thay đổi
quan trọng với các mặt cạnh tranh và hợp tác đan xen, tác động lớn đến sự vận
động của cục diện chính trị - an ninh khu vực Đơng Bắc Á. Bên cạnh đó, các
“điểm nóng” trong khu vực vẫn là các thách thức hàng đầu đe dọa đến sự ổn
định và hịa bình của khu vực. Có thể nói, những diễn biến mới diễn ra trên lĩnh
vực chính trị - an ninh tại khu vực Đơng Bắc Á thời gian qua đã có tác động sâu
sắc đến mối quan hệ giữa các chủ thể trong khu vực, góp phần làm cho cục
diện chính trị - an ninh Đông Bắc Á vận động theo những chiều hướng mới./.



×