Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Vai trò của đường mòn hồ chí minh trên biển trong sự nghiệp kháng chiến chống mỹ cứu nước của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.98 MB, 25 trang )

BÀI THẢO LUẬN
Đề tài: Vai trò của Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam

Bộ môn

: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 3
1


I.

Giới thiệu về đường mịn Hồ Chí Minh trên biển 4

1. Lịch sử hình thành
2. Vị trí địa lý

4

5

3. Phát triển phương tiện và tuyến vận tải trên biển

6

3.1 Các đơn vị:.........................................................................................................6
3.2 Các phương tiện:................................................................................................6
3.3 Các tuyến chính..................................................................................................6


3.4 Các căn cứ và bến bãi:........................................................................................7
II.
Vai trị của đường mịn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của Việt Nam 12
1. Đường mòn HCM trên biển là chiến trường của cuộc đấu trí, đấu lực giữa quân và dân ta với các
âm mưu thủ đoạn của đế quốc Mỹ
12
2. Đường mòn HCM trên biển là tuyến vận chuyển chuyển biến chiến lược trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nước
14
3. Đường mịn Hồ Chí Minh trên biển là nơi hộ tụ sức mạnh chính trị tinh thần – vật chất của quân và
dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
16
4. Đường mịn HCM trên biển có vai trị thể hiện tầm nhìn chiến lược, nét độc đáo, sáng tạo của Đảng và
Nhà nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
18
III. Ý nghĩa, giá trị của Đường mịn Hồ Chí Minh trên biển20
1.Gía trị ý nghĩa lịch sử 20
2.Gía trị thực tiễn

22

KẾT LUẬN..................................................................................................................... 24

2


LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói năm tháng đã đi qua nhưng những sự kiện vẻ vang, những hào quang trong
lịch sử cùng những công lao to lớn của các anh hùng Việt Nam thế hệ trước đã ngã xuống

để chúng ta đến giây phút này đang được tận hưởng một cuộc sống trong thời bình, tự do
thì ắt hẳn trong lịng mỗi người con Việt Nam ln là niềm tự hào vô bờ.Như chúng ta đã
biết trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, công tác chi viện sức
người, sức của từ hậu phương miền Bắc vào tiền tuyến miền Nam giữ vai trò hết sức
quan trọng, có ý nghĩa quyết định nhát đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Có biết bao kỳ tích đã đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước hào hùng của dân tộc Việt Nam. Mỗi kỳ tích là cả chuỗi những sự kiện mang dáng
dấp một câu chuyện huyền thoại, vượt khỏi sự hình dung thơng thường, nhưng đó là một
thực tế - thực tế hết sức sinh động. Con đường chi viện chiến lược trên biển mang tên Hồ
Chí Minh là một trong những kỳ tích như thế. Con đường ấy chính là biểu hiện của ý chí
sắt đá, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của tồn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta. Trong bức điẹn gửi cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 125 hải quân nhân ngày kỷ
niệm 35 năm mở đường Hồ Chí Minh trên biển (1961-1996), thủ tướng Võ Văn Kiệt đã
đánh giá: “Năm tháng sẽ đi qua, nhưng chiến công anh hùng và sự hy sinh cao cả của các
lực lượng mở đầu vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu trên biển Đông, của
những “con tàu không số” của quân và dân các bến bãi, làm nhiệm vụ chi viện cho chiến
trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại sẽ mãi mãi đi vào
lịch sử đấu tranh anh dung của dân tộc ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
quang vinh, Tổ quốc và nhân dân ta đời đời ghi nhớ công lao cuả những người làm nên
kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển”. Những đóng góp hiệu quả của tuyến chi viện
chiến lược – đường Hồ Chí Minh trên biển (1959-1975) đã góp phần xứng đáng vào
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc, vượt lên những
tính tốn thơng thường về chiến tranh của chính quyền Mỹ- ngụy, để lại nhiều bài học
kinh nghiệm quý giá cho hơm nay và mai sau. Với lịng biết ơn sâu sắc và tự hào dân tộc
với sự hy sinh của các anh hung , nhóm 7 xin tìm hiểu sâu về đề tài “Vai trò của đường
mòn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước”

3



I.

Giới thiệu về đường mịn Hồ Chí Minh trên biển

1. Lịch sử hình thành
-

Đường Hồ Chí Minh trên biển - con đường huyền thoại, một sáng tạo độc đáo
của Đảng Quân đội và Nhân dân ta, con đường đã góp phần quan trọng vào thắng lợi
vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Hình 1.1: Đường mịn Hồ Chí Minh trên biển
-

Hiệp định định Giơnevơ ký kết ngày 21/7/1954, đất nước tạm thời chia cắt 2 miền
Nam - Bắc và vĩ tuyến 17 là ranh giới tạm thời, tổng tuyển cử thống nhất nước nhà sẽ
được tiến hành 2 năm sau. Miền Bắc bước vào thời kỳ cách mạng mới, chuẩn bị mọi
tiền đề cần thiết để cải tạo chế độ cũ và bước đầu xây dựng chế độ mới - chế độ
XHCN. Niềm vui chưa được bao lâu thì đế quốc Mỹ cố tình phá vỡ Hiệp định, ra sức
dùng đơ la, vũ khí biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, nhằm "ngăn
chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản xuống phía Nam", chúng lập ra chính
quyền Sài Gịn.

-

Trước tình hình đó, thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Trung-NamBắc là bờ cõi của ta. Nước ta nhất định thống nhất. Đồng bào cả nước nhất định giải
phóng”, tháng 1/1959 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tổ chức
Hội Nghị lần thứ 15. Hội nghị xác định: “lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực
4



lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh
đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của
nhân dân”. Nhận rõ yêu cầu cấp bách phải kịp thời chi viện cho đồng bào miền Nam
trực tiếp chống Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, ngày 19/5/1959 Tổng Quân
ủy và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập “Đồn cơng tác qn sự đặc biệt” (sau đổi
tên là Đồn 559), có nhiệm vụ mở đường vận chuyển hàng hóa, tổ chức đưa đón bộ
đội, cán bộ từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc. Tiếp đó, tháng 7/1959 Bộ Quốc phịng
quyết định thành lập Tiểu đoàn Vận tải thủy 603 (hoạt động dưới tên gọi “Tập đồn
đánh cá Sơng Gianh” để giữ bí mật) có nhiệm vụ mở đường trên biển vận chuyển vũ
khí, hàng hóa và con người chi viện cho miền Nam. Những ngày đầu hoạt động trong
điều kiện khó khăn, ác liệt, lại chưa có kinh nghiệm và hiểu biết nhiều về tình hình cụ
thể tại các tỉnh dun hải phía Nam nên chuyến vượt biển đầu tiên bằng thuyền buồm
của Tiểu đồn 603 khơng thành cơng, phải tạm ngừng hoạt động. Từ tháng 6 năm
1961 đến tháng 2 năm 1962, những người lãnh đạo của Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam ở các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Bà Rịa đã cử năm con
thuyền gỗ từ miền Nam ra miền Bắc để báo cáo tình hình, xin tiếp tế vũ khí và sau đó
trực tiếp vận chuyển vũ khí cũng như dẫn đường cho các tàu tiếp tế giả dạng tàu đánh
cá từ Bắc vào Nam. Những người chỉ huy chủ chốt gồm ông Phan Văn Nhờ tức Tư
Mau, bà Nguyễn Thị Định, ông Bông Văn Dĩa,… Trong 5 chiếc thuyền gỗ chiếc
thuyền của Bà Rịa đã bị lực lượng tuần duyên của hải quan Việt Nam Cộng hịa chặn
bắt tại ngồi khơi Cam Ranh không phát hiện thấy là nghi ngờ con thuyền này được
trả tự do. Sau đó nó bị bão đánh trơi dạt đến đảo Hải Nam. Đây là chiếc thuyền do
ông Dương Quang Đông nguyên ủy viên thường vụ sứ uỷ Nam Kỳ của Đảng cộng
sản Đông Dương trước năm 1945 nguyên là cán bộ hậu cần của Việt Minh tại khu 8
trong kháng chiến chống Pháp được giao nhiệm vụ mua sắm. Tuy nhiên khi chuyển
đến Bà Rịa ba người cùng đi với ông đã bị quân Việt Nam Cộng hịa bắn chết và tịch
thu số tiền mà tổ cơng tác của ông đã được tổ chức giao cho để mua thuyền. Nhờ có
bà Nguyễn Thị Mười ở Phước Hải, Long Đất đã dồn tiền của trong nhà tổng cộng 10
cây vàng để đóng góp, chiếc truyền này được mua về và được sử dụng trong chuyến

liên lạc vận chuyển đầu tiên. Tham gia chuyến vượt biển trên con thuyền của Bà Rịa
cịn có ơng Lê Hà, con trai bà Mười, sau này trở thành một trong các thuyền trưởng
đầu tiên trên các con tàu không số.
-

Ngày 23 tháng 10 năm 1961 Đội chính trị và quân ủy trung ương Việt Nam quyết
định mở tuyến đường biển Bắc Nam. Trung tướng Trần Văn Trà Phó Tổng tham mưu
trưởng được quân uỷ Trung ương giao nhiệm vụ thành lập tuyến đường này. Năm
1961 Thứ trưởng Bộ Quốc phịng Hồng Văn Thái ký quyết định số 97/QP thành lập
Đoàn 759 sau này trở thành Lữ đoàn 125 thuộc Hải quân nhân dân Việt Nam. Đồn
759 có trách nhiệm chi viện vũ khí cho Việt Nam bằng đường biển. Trung tá Đoàn
Hồng Phước được giao nhiệm vụ làm Đoàn trưởng. Đây là đơn vị đầu tiên đã nhận
nhiệm vụ vận tải vũ khí, hàng hóa vào chiến tranh miền Nam bằng các con tàu không
số, mở ra sự phát triển mới của đường Hồ Chí Minh trên biển. Tại Nam Bộ, Bộ chỉ
huy quân khu IX của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được giao nhiệm vụ
5


thành lập Trung đoàn 962 chuyên trách nhiệm vụ chuẩn bị biển bãi tại bờ biển các
tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ chỉ huy các khu V, VI, VIII cũng được lệnh thiết
lập các bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí, đạn dược, phương tiện và các hàng hóa
khác từ miền Bắc Việt Nam chuyển ra bằng đường biển. Từ đây, các địa phương ven
biển miền Nam, chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ nhận được sự chi viện
trực tiếp của miền Bắc, tạo nên sức mạnh và niềm tin to lớn cho các lực lượng vũ
trang trên chiến trường miền Nam. Việc quyết định mở tuyến vận tải biển chiến lược
và quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện quyết định táo bạo đó trong điều kiện địch tổ
chức ngăn chặn, phong tỏa gắt gao là một quyết sách đúng đắn, thể hiện tầm nhìn,
bản lĩnh và tài thao lược của Đảng, quân đội và nhân dân ta.
2. Vị trí địa lý
-


-Đường mịn Hồ Chí Minh trên biển có vị trí là nó nằm trong vùng biển đông, chạy

dọc từ Bắc vào Nam của Việt Nam, được thành lập ngày 23-10-1961
-

Trong suốt quá trình tồn tại, đường Hồ Chí Minh trên biển có hai nghìn lần tàu
thuyền vượt biển, vận chuyển hàng chục ngàn cán bộ từ Bắc vào Nam và chi viện
cho chiến trường hàng ngàn cán bộ và gần 160 nghìn tấn vũ khí, cập 19 bến bãi
thuộc địa bàn 9 tỉnh miền Nam, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của sự
nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.

Hình 2.1: Bản đồ mơ tả hành trình của những chuyến tàu chi viện bằng đường Hồ
Chí Minh trên biển

6


3. Phát triển phương tiện và tuyến vận tải trên biển
3.1 Các đơn vị:
 Đoàn 759: Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Quốc phịng ra quyết định thành lập
Đồn hải quân 759, sau này trở thành Lữ đoàn 125 của Hải quân nhân dân Việt
Nam. Đây là đơn vị đầu tiên đảm nhận nhiệm vụ vận tải vũ khí, hàng hóa vào
chiến trường miền Nam bằng các con tàu không số, mở ra sự phát triển mới của
Đường Hồ Chí Minh trên biển.
 Đồn 962: Tại Nam Bộ, Bộ Chỉ huy quân khu IX của Quân giải phóng miền Nam
Việt Nam được giao nhiệm vụ thành lập Trung đoàn 962 chuyên trách nhiệm vụ
chuẩn bị bến bãi tại bờ biển các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ chỉ huy các
Khu V, VI, VIII cũng được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí,
đạn dược, phương tiện và các hàng hóa khác từ miền Bắc Việt Nam chuyển vào

bằng đường biển.

 Đoàn 950
3.2 Các phương tiện:
- Tàu, thuyền gỗ
- Tàu sắt
- Tàu hai đáy
3.3 Các tuyến chính
- Tuyến ven bờ
- Tuyến tiếp giáp lãnh hải
- Tuyến hàng hải quốc tế
3.4 Các căn cứ và bến bãi:
 K15: là bí danh được đặt tên cho bến tàu xuất phát có quy mơ lớn đầu tiên của các con
tàu không số vận chuyển người và vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường biển trong
Chiến tranh Việt Nam. Nó cịn có tên khác là "Vạn Xét". Bến này được mở lần đầu
tiên tại các thôn Vạn Hoa và Vạn Sơn (Đồ Sơn, Hải Phòng), do Trung đồn cơng binh
83 xây dựng. Đây là một vịnh nhỏ ăn sâu vào đất liền ở bờ Đông bán đảo Đồ Sơn, Hải
Phịng. Vịnh này có ba phía là núi, đường ra biển duy nhất nằm ở hướng Tây Nam, độ
sâu khoảng 3 m khi thủy triều xuống và đến 4 m khi thủy triều lên. Cầu cảng được xây
hình chữ T. Thân chính rộng 6 m, dài 60 m; thân ngang rộng 6 m, dài 12 m. Toàn bộ
cầu tàu được làm bằng bê tông cốt thép dạng khung chịu lực kiểu dầm gác hai đầu.
Ngày 15 tháng 5 năm 1964, cầu tàu K15 bắt đầu hoạt động. Tuy ra đời sau tuyến vận
tải quân sự bí mật trên biển đầu tiên từ Quảng Bình vào miền Nam và các chuyến tàu
từ miền Nam ra miền Bắc nhận vũ khí và trở lại miền Nam nhưng lịch sử Hải quân
nhân dân Việt Nam vẫn coi đây như "Cột km số 0" của các tuyến đường mịn Hồ Chí
Minh trên biển. Cầu cảng K15 đánh dấu một bước chuyển biến lớn của Đường Hồ Chí
7


Minh trên biển. Đó là việc các tàu sắt được đưa vào sử dụng, dần thay thế cho các con

tàu gỗ kém an tồn. Trong q trình hoạt động, cảng K15 đã tổ chức xếp hàng và xuất
phát cho 88 chuyến vận tải quân sự trên biển, gồm 4.919 tấn vũ khí đạn dược và hàng
nghìn tấn hàng hóa khác. Do được ngụy trang rất kín đáo nên trong suốt cuộc Chiến
tranh Việt Nam, không quân và hải quân Hoa Kỳ vẫn không phát hiện được cầu cảng
K15. Sau nửa thế kỷ, đặc biệt từ năm 1975 đến nay không cịn được hoạt động, cơng
trình đã hư hại nặng. Hiện nay, tại bãi biển Vạn Sơn (Đồ Sơn, Hải Phòng) chỉ cịn lại
di tích các cọc bê tơng của cầu tàu trên bến cảng qn sự bí mật K15.

Hình 3.1 Bến K15

 Cửa Hội
 Cửa Sót
 Cửa Gianh
 Cửa Nhật Lệ
 Hố Chuối
 Sa Huỳnh là một làng chài cổ đồng thời là một bãi biển nổi tiếng ở miền Trung Trung
Bộ với nghề đánh cá từ lâu đời. Trong q trình hoạt động của "Đường Hồ Chí Minh
trên biển"; Sa Huỳnh là một trong những bến bãi tiếp nhận vũ khí, đạn dược, hàng hóa
do các chuyến tàu khơng số chuyên chở từ miền Bắc gửi vào cho Quân giải phóng
miền Nam Việt Nam tại chiến trường Khu V.

8


Hình 3.2: Làng chài Sa Huỳnh

 Quy Thiện
Địa điểm Quy Thiện thuộc xã Phổ Hiệp, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Là một trong
các bến đỗ dự bị của các chuyến tàu không số trong trường hợp tàu bị hỏng, là nơi tránh
trú khi gặp bão lớn hoặc bị hải quân Việt Nam Cộng hòa vây ráp. Tháng 3 năm 1968, tại

đây đã diễn ra cuộc hội ngộ không hẹn mà gặp giữa các cán bộ, nhân viên của Bệnh xá
Đức Phổ nổi tiếng do bác sĩ Đặng Thùy Trâm lãnh đạo với các thủy thủ Tàu 43 khi tàu bị
khơng qn và hải qn Việt Nam Cộng hịa bắn hỏng. Các thủy thủ phải đổ bộ lên bờ và
được người dân trong vùng bí mật đưa đến trạm xá này để cứu chữa. Sau đó, họ được Bộ
Chỉ huy Khu V của Quân giải phóng miền Nam tổ chức vượt Trường Sơn trở lại miền
Bắc.

 Ba Làng An
 Lộ Diêu: Bến này nằm trên địa bàn Hoài Hải, thị xã Hồi Nhơn, tỉnh Bình Định. Ở
vào vị trí giữa đèo Lộ Diêu trong và đèo Lộ Diêu ngồi, phía Tây là núi, phía Đơng
là bãi biển, Lộ Diêu được chọn làm bến trung chuyển vũ khí, đạn dựoc và hàng hóa
do các con tàu khơng số chở từ miền Bắc vào chiến trường khu V. Bến Lộ Diêu bắt
đầu hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1964 khi đón con tàu đầu tiên chở hàng chục
tấn vũ khí xuất phát từ Hòn Dấu, Hải Phòng đi vào.

 Vũng Rơ
 Hịn Hèo
 Phước Thiện
 Lộc An: Địa điểm này nay thuộc huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây là
bến xuất phát của một trong năm con thuyền gỗ đầu tiên mở tuyến đường Hồ Chí
Minh trên biển từ Nam ra Bắc và ngược lại. Trong quá trình hoạt động, bến này đã
đón 3 tàu khơng số cập bến, vận chuyển 109 tấn vũ khí cho Quân giải phóng miền
Nam Việt Nam tại Khu IX.
9


Hình 3.3: Bến Lộc An

 Rạch Cỏ
 Cồn Tàu: Đây là bến chính trong hệ thống bến bãi Trà Vinh, nằm ở gần cửa Cung

Hầu, một trong ba cửa chảy ra biển của sông Hậu, thuộc huyện Duyên Hải. Bến
này bắt đầu hoạt động từ tháng 6 năm 1963 khi đón chuyến tàu sắt đầu tiên chở 44
tấn vũ khí từ Bắc vào Nam.

Hình 3.4: Bến Cồn Tàu

 Khâu Lầu
10


 Thạnh Phong: Cịn được những người lính của Trung đồn vận tải 962 đặt cho
biệt danh là Bến "Ơng Hai Ghiền". Địa điểm này nay thuộc xã Thạnh Phong,
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Đây là nơi xuất phát của con tàu đầu tiên của Việt
Minh ở vùng Tây Nam Bộ ra Bắc xin vũ khí để tổ chức kháng chiến chống Pháp
từ năm 1946. Từ năm 1961 đến năm 1962, 2 chuyến tàu của lực lượng Quân giải
phóng miền Nam Việt Nam ở Tây Nam Bộ cũng xuất phát từ đây ra Bắc xin chi
viện vũ khí và trở về an toàn. Bến này cũng với các bến Cồn Tra và Cồn Lợi hợp
thành một hệ thống bến bãi đón nhận vũ khí, đạn dược, hàng hóa của Quân giải
phóng miền Nam Việt Nam tại tỉnh Bến Tre. Mặc dù theo sự bố trí của Qn Giải
phóng miền Nam Việt Nam, Thạnh Phong thuộc khu VIII nhưng lại đóng vai trị là
bến trung chuyển lớn cho cả miền Đông và miền Tây Nam Bộ trong thời kỳ đầu
(1961-1963). Kho cất giữ vũ ký bí mật phục vụ cho bến Thạnh Phong được xây
dựng dưới lòng đất tại xã Thạnh Thới A, gần bến phà Cầu Ván, thuộc huyện Mỏ
Cày, tỉnh Bến Tre. Xã Thạnh Thới A cũng là nơi đóng sở chỉ huy Trung đồn vận
tải 962 của Qn giải phóng miền Nam Việt Nam tại Khu IX.

Hình 3.5: Bến Thạnh Phong
 Vàm Lũng: Bến này do ông Bông Văn Dĩa (sau này là thượng tá hải quân) lựa
chọn và xác định thay cho hai con lạch Bồ Đề và Rạch Gốc tuy sâu và rộng hơn
nhưng dễ bị lộ hơn. Địa điểm này thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Tại đây

có một con rạch lớn sâu từ 2 đến 3 m. Hai bên có rừng đước rộng lớn che phủ. Các
tàu pha sông biển cỡ nhỏ có trọng tải dưới 100 tấn có thể ra vào được và dễ dàng
ẩn nấp dưới các rặng đước cao và rậm rạp. Tháng 10 năm 1962, bến này bắt đầu
hoạt động khi đón con tàu gỗ mang mật danh "Phương Đơng 1" chở 30 tấn vũ khí
từ miền Bắc vào cho Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại Khu IX. Trong toàn
bộ thời gia hoạt động, bến này đã dón 68 chuyến tàu tiếp tế từ miền Bắc vào.

11


 Rạch Gốc
 Bồ Đề
 Rạch Tàu
 Rạch Giá: là căn cứ nửa cơng khai, nửa bí mật của đồn tàu hai đáy do Trung
đoàn vận tải 950 thuộc Khu IX, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phụ trách.
Bến này đi vào hoạt động từ nửa sau năm 1968. Gọi là nửa cơng khai vì bề ngồi,
đây là một cảng cá, gọi là nửa bí mật vì đây là một bến tiếp nhận vũ khí vận
chuyển bằng đường biển. Bến cảng này đánh dấu một phương pháp vận chuyển
mới: "trên cá, dưới súng đạn". Do tàu gỗ có cấu tạo hai đáy nên bề ngồi, nó giống
như một tàu đánh cá bình thường. Nhưng giữa hai lớp đáy có một khoảng trống để
cất giấu vũ khí, đạn dược và các hàng hóa khác. Do sự kiểm sốt gắt gao của Hải
quân Việt Nam Cộng hòa khi phát hiện một tàu hai đáy bị hỏng máy và được kéo
về bờ, bến này phải tạm ngừng hoạt động từ giữa năm 1973 đến đầu năm 1975,
khi Chiến dịch Mùa Xuân 1975 bắt đầu được khởi động.

 Cảng Sihanoukville (Campuchia)

12



Hình 3.6: Cảng Sihanoukville (Campuchia)
II.

Vai trị của đường mịn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam

1. Đường mòn HCM trên biển là chiến trường của cuộc đấu trí, đấu lực giữa
quân và dân ta với các âm mưu thủ đoạn của đế quốc Mỹ
Đi vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước, hành trang - vũ khí sắc bén của
con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh chính là niềm tin sắt son vào sự nghiệp cách
mạng do Đảng và Bác Hồ lựa chọn. Niềm tin ấy của các thế hệ người Việt Nam được hun
đúc, bồi đắp bằng sự quan tâm, chăm lo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh; được hấp
thu, truyền thụ qua mơi trường giáo dục xã hội chủ nghĩa, qua những biểu tượng, hình
tượng của con người Việt Nam giàu lịng u nước, có ý thức sâu sắc về giá trị của độc
lập, tự do, luôn sẵn sàng hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, thống
nhất non sông gấm vóc. Được dẫn dắt bởi đường lối kháng chiến đúng đắn, ý chí, nghị
lực, quyết tâm trong mỗi con người, mỗi tập thể, mỗi lực lượng thực sự là thứ vũ khí tinh
thần có ý nghĩa quyết định thành bại trên mỗi trận tuyến chống quân thù.
Thực tế, trên Đường Hồ Chí Minh trên biển đã có một cuộc đấu trí, đấu lực vơ
cùng căng thẳng, quyết liệt giữa các lực lượng hải quân Nhân dân Việt Nam với lực
lượng Hải quân Mỹ và hải quân Việt Nam Cộng hòa dưới sự chỉ dắt của rất nhiều chuyên
gia quân sự Mỹ “sừng sỏ”. Bên cạnh đó, con đường này cịn là sự độc đáo của nghệ thuật
quân sự Việt Nam nói chung, nghệ thuật quân sự Hải quân nói riêng trong cuộc chiến đấu
chống chiến tranh ngăn chặn của đế quốc Mỹ và tay sai.
Chiến trường của cuộc đấu lực giữa dân và quân ra với Mỹ được thể hiện rõ nét
như trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vận tải trên biển có những đặc thù khác
biệt và khó khăn hơn rất nhiều so với việc vận tải trên tuyến đường bộ Trường Sơn; điều
kiện thời tiết khắc nghiệt, địa bàn biển Đông vô cùng phức tạp (vừa trống trải, vừa nhiều
bãi ngầm, bãi cạn, chế độ thủy văn khơng ổn định), hơn nữa hệ thống bộ phịng trên biển
13



của đối phương rất mạnh. Quân đội Mỹ huy động 40% lực lượng của Hạm đội 7 cùng với
lực lượng hải quân Việt Nam Cộng hòa thực hiện phong tỏa đường biển hòng cắt đứt
đường dây chi viện của Bắc Việt vào chiến trường phía Nam. Ngồi ra ở tuyến bờ và ở
tuyến xa bờ, người Mỹ đã huy động rất nhiều lực lượng khác ở trang bị vũ khí hiện đại,
đóng rải rác trên khắp vùng biển để sẵn sàng tác chiến chống lại sự xâm nhập của các tàu
đối phương và hỗ trợ tác chiến cho lực lượng khác ở trên bộ khi cần thiết. Tàu chiến và
các máy bay tuần duyên của Mỹ luôn quần thảo, giám sát suốt ngày đêm dọc vùng biển
Việt Nam. Ta có thể thấy được âm mưu và thủ đoạn đáng gờm của kẻ thù muốn tiêu diệt
tuyến vận tải chiến lược qn sự trên Biển Đơng.
Bên cạnh đó thì chiến trường của cuộc đấu trí cịn được thể hiện rõ khi đặt trong
bối cảnh lực lượng, trang thiết bị thời bấy giờ của Hải quân Nhân dân Việt Nam còn
nhiều hạn chế, bất lợi trong tác chiến (nhất là trong tác chiến xa bờ), vấn đề vận chuyển
bằng hàng hóa bằng đường biển chi viện cho chiến trường miền Nam là cả một thách
thức lớn - một bài tốn hóc búa khơng dễ tìm ra lời giải. Tuy vậy, so với vận chuyển bằng
đường bộ thì vận chuyển bằng đường biển chi phí rẻ hơn, thời gian cũng được rút ngắn
hơn nhiều. Nếu vận chuyển 100 tấn vũ khí bằng đường biển, trên một con tàu, chỉ cần 1015 hay tối đa 20 cán bộ, chiến sỹ; nhưng nếu vận chuyển bằng đường bộ thì phải cần đến
1 Tiểu đồn vận tải cơ giới và 1 Sư đoàn nếu là khuân vác. Về thời gian, nếu vận chuyển
bằng đường bộ phải mất ròng rã nhiều tháng trời mới tới nơi, nhưng vận chuyển bằng
đường biển, tuy gian nan, nguy hiểm hơn nhưng nếu thuận lợi thì chỉ một tuần là hàng đã
tới các bến. Đây chính là những thách thức lớn địi hỏi Việt Nam phải có mưu trí trong
việc đưa ra các phương châm, chiến lược phù hợp để có thể đối phó được kẻ thù mạnh
như Mỹ lúc bấy giờ. Cụ thể trong công tác chỉ đạo tác chiến, phát huy tinh thần mưu trí,
lịng quả cảm và sức sáng tạo phi thường của các lực lượng, Hải quân Nhân dân Việt
Nam với phương châm đánh vào chỗ đối phương không ngờ đã liên tục thay đổi kế hoạch
vận chuyển, hình thành thế “mê hồn trận”, khiến đối phương khơng thể nắm bắt được
quy luật hoạt động của mình để đối phó và ngăn chặn có hiệu quả. Trong những năm đầu
1961 - 1965, chủ yếu những con tàu không số thường bám theo vùng biển ven bờ, giả
dạng tàu cá trà trộn vào dân để luồn lách qua hệ thống bố phòng dày đặc của địch. Tuy

nhiên, sau vụ tàu sắt 143 của ta bị phát hiện tại Vũng Rô (Phú Yên), khi Mỹ đã “đánh
hơi” thấy sự tồn tại của con đường, đồng thời đề cao cảnh giác, tăng cường lực lượng bố
phòng, giám sát chặt chẽ các vùng biển ven bờ, bằng sự mưu trí, sáng tạo, những con tàu
không số của ta lại thay đổi hải trình và phương pháp đi để tránh sự truy sát gắt gao của
địch. Thực tế, ngay sau khi nhận được tin xấu về vụ “Vũng Rô”, tuyến đi ven bờ đã bị bại
lộ và gần như bị địch phong tỏa, bịt kín. Khơng chấp nhận bó tay, trong tình thế hết sức
khó khăn đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị cho Cục Tác chiến ra lệnh ngừng mọi
hoạt động vận chuyển trên đường biển để rút kinh nghiệm tìm phương án tác chiến mới.
Có lẽ, với những gì diễn ra trên chiến trường khu vực duyên hải miền Nam, người Mỹ
hẳn đoán định rằng, những con tàu không số của Hải quân Nhân dân Việt Nam vẫn đang
tiếp tục hoạt động. Nhưng những con tàu đó hoạt động như thế nào và vì sao chúng có
thể vượt qua được tuyến bố phòng trên biển tầng tầng, lớp lớp mà họ đã dựng lên, thì quả
thực họ lại rất mơ hồ và chẳng thể lý giải nổi.
14


Trong cuộc đấu trí này, các lực lượng của Hải quân Nhân dân Việt Nam bằng bản
lĩnh, trí tuệ, sự dũng cảm, mưu trí và một nghệ thuật tác chiến đầy khéo léo, linh hoạt đã
luôn nêu cao, triệt để vận dụng và phát huy một cách hết sức sáng tạo truyền thống đánh
giặc giữ nước của ông cha với nghệ thuật quân sự độc đáo: lấy yếu chống mạnh, lấy ít
địch nhiều; bí mật, triệt để khai thác sơ hở, đánh vào chỗ đối phương không ngờ tới để
giành chiến thắng.
2. Đường mòn HCM trên biển là tuyến vận chuyển chuyển biến chiến lược
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Với phương châm hoạt động bí mật, bất ngờ, sử dụng hàng loạt các loại tàu nhỉ,
ngụy trang giống tàu đánh cá, tuyến Hồ Chí Minh trên biển đã mở ra một hướng chi viện
mới, hết sức quan trọng đưa hàng chi viện của miền Bắc đến với các chiến trường xa mà
tuyến đường HCM trên bộ chưa thể có điều kiện vươn tới được. Do đường HCM biển có
một vị trí chiến lược hết sức quan trọng vì thế nên Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt
tinh vi để hủy diệt, đánh phá, hòng ngăn chặn và cắt đứt tuyến đường tiếp viện của ta trên

biển. Những con đường, các bến bãi đều nằm trong các vùng kìm kẹp, lung sục và đánh
phá ác liệt suốt đêm ngày của địch. Những ngày đầu hoạt động trong điều kiện khó khăn,
gian khổ, ác liệt cộng với chúng ta thiếu kinh nghiệm và chưa hiểu biết cụ thể về tình
hình cụ thể tại ác tỉnh duyên hải phía Nam, nên chuyến vượt biển đầu tiên bằng thuyền
buồm của Tiểu đoàn 603 khơng thành cơng. Thuyền đã gặp phải sóng lớn trơi dạt và
khơng vè tới đích; cả 6 thuyền viên đều bị địch bắt. Tiểu đoàn 603 đã phải ngừng hoạt
động trên biển để tìm ra giải pháp và phương thức vận chuyển phù hợp. Sau quá trình
nghiên cứu, và chuẩn bị về mọi mặt ngày 23-10-1996, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc
Phịng quyết định thành lập Đồn vận tải biển 759. Sự ra đời của Đoàn này cùng việc
khai thông tuyến chi viện chiến lược Bắc –Nam trên biển chính là sự kiện hết sức có ý
nghĩa. Từ đây các địa phương ven biển miền Nam, chiến trường miền Nam Bộ và cực
Nam Trung Bộ (B2) đã nhận được sự chi viện trực tiếp của miền Bắc, tạo nên sức mạnh
và niềm tin to lớn cho các lực lượng vũ trang chiến trường miền Nam.
Sau thất bại trong “Cuộc chiến tranh một phía” (1954- 1960), đế quốc Mỹ đã tiến
hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), ráo riết thực hiện cuộc hành quân
tìm diệt, tiến hành bình định để nắm đất, nắm dân theo kiểu “tát nước băt cá”, đồng thời
mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng bệt kích và phong tỏa biên giới, vùng biển
để ngăn chặn chi viện của miền Bắc. Để nhằm đáp ứng nhu cầu chi viện cho cách mạng
miền Nam ngày một lớn, trung tuần tháng 8/1962. Quân ủy Trung ương quyết định mở
đợt vận chuyển vũ khí vào Nam. Đêm 11-10-1962, chiếc tàu gỗ gắn máy đầu tiên của
Đoàn 759 chở 30 tấn vũ khí rời bén Đồ Sơn vào Cà Mau. Ngày 19-10, tàu cập bến Vàm
Lũng an toàn, tồn bộ vũ khí được cơ sở tiếp nhận đúng kế hoạch. Tháng 8-1963, Đoàn
759 được giao Quân chủng Hải quân phụ trách và quân chủng trực tiếp đảm đương nhiệm
vụ vận chuyển, chi viện bằng đường biển cho các chiến trường miền Nam. Ngày 24-11964 Đoàn 759 được điều chỉnh tổ chức, phat triển thành Lữ đoàn 125 Hải quân. Trong
hơn 3 năm hoạt động(1962-1965), Đường HCM trên biển đã chi viện cho các tỉnh ven
biển thuộc chiến trường khu 5, Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ 89 chuyến tàu, với gần
5000 tấn vật chất, chủ yếu là vũ khí, dạn dược. Tuy nhiên, từ sau sự kiện tàu C143 bị địch
15



phát hiện tại Vũng Rô, địch đã tăng cường hoạt động tuần tiễu ngăn chặn, chống xâm
nhập. Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương quyết
định chuyển hướng hoạt động vận tải ra các vùng biển xa bờ vượt ngồi tầm kiểm sốt
của đối phương, đồng thời dùng phương pháp hàng hải thiên văn, tập trung đưa tàu đi chủ
yếu vào ban đêm để tránh hệ thống trinh sát điện tử của đối phương phát hiện. Thực hiện
phương án tác chiến mới này, những con tàu không số đã sử dụng chiến thuật nghi binh
đánh lừa địch bằng cách liên tục thay đổi hướng xuất phát và hải trình: khi tàu ta nhanh
chóng vượt ra hải phận quốc tế, trà trộn với các tàu vận tải của nước ngồi, có lúc lại
vịng sang vùng biển của Trung Quốc, Ma Cao, thậm chí len lỏi ven các vùng biển của
Philippin, Indonesia, hoặc sang tận vùng biển Singapore rồi sau đó mới tìm cách xâm
nhập, bất ngờ tiếp cận các bến đã được xác định trước để trả hàng. Có thể nói, đây là cách
vận chuyển đầy táo bạo và hết sức bất ngờ vượt ra khỏi suy tính trong chiến lược ngăn
chặn của Mỹ. Đoàn 125 phải chuyển hướng hoạt động, sử dụng các đội tàu đi theo đường
hàng hải quốc tế và bí mật bất ngờ đột nhập, đưa hàng vào các bến tiếp nhận. Đến tháng
2/1968 do sự ngăn chặn, chống xâm nhập của địch ngày càng gay gắt, Đường HCM trên
biển phải tạm dừng hoạt động. Trong 4 năm (1965-1968) Đoàn 125 đã tổ chức 27 chuyến
tàu tỏng đó chỉ có 7 chuyến tàu tới đích, giao được hơn 400 tấn hàng quân sự cho các
chiến trường. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, tận dụng thời điểm
khơng qn Mỹ tạm ngừng ném bom miền Bắc, Đồn 125 đã vận chuyển được một
lượng hàng lớn tới các vùng giới tuyến, sau đó Đồn 559 vận chuyển bằng đường bộ vào
chiens trường miền Nam. Từ cuối năm 1970, sau khí tuyến đường vận chuyển qua cảng
Xi-ha-núc Vin (Campuchia) bị cắt đứt, theo sự chỉ đao của Đảng ủy – Bộ tư lệnh Quân
chủng Hải quân, Đoàn 125 đã chủ động tìm đường vận chuyển mới bằng cách men theo
phía Đơng các quần đảo Trường Sa, Hồng Sa đến vùng biển Đông Bắc Ma-lai-xi-a, qua
Vịnh Thái Lan, khu vực quần đảo Nam Du để tàu cập các bên bãi miền Tây Nam Bộ. Tuy
phải đi vòng rất xa và phải dự trữ đủ xăng dầu, lương thực cần thiết cho một chuyến đi
dài ngày; phải đối mặt với bao thách thức, cam go, nhưng đoàn 125 đã giao được hơn 300
tấn vũ khí, đạn dược cho Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Đây là 1 cố gắng lớn của Đoàn
125 trong điều kiện địch tăng cường bao vây, ngăn chặn và đánh phá ác liệt
Hiệp định Pari (1973) được ký kết đã thực hiện sự chỉ đạo của Qn ủy Trung

ương, Bộ Quốc Phịng, Đồn 125 tạm dừng nhiệm vụ vận chuyển, chi viện trực tiếp cho
các chiến trường miền Nam bằng đường Hồ Chí Minh trên biển. Đến cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, các đội tàu của Đoàn 125 lại tiếp tục vận chuyển
vật chất, cơ động lực lượng phục vụ cho việc giải phóng các tỉnh và các đảo ven biển
miền Nam, đặc biệt kịp thời chi viện cho các lực lượng làm nhiệm vụ giải phóng quần
đảo Trường Sa. Đường HCM trên biển thực sự trở thành mũi thọc sâu, vu hồi lợi hại để
vận chuyển, chi viện vào những địa bàn ven biển trọng yếu, nơi mà sự chi viện bằng
tuyến chiến lược 550 trên bộ chưa thể vươn tới được. Vận tải biển rất gian nan, nguy
hiểm, nhưng lại có ưu thế về tốc độ, thời gian và hiệu quả. Cùng với nhiệm vụ vận tải
hàng hải quân sự, đường HCM trên biển còn đảm đương sứ mệnh rất quan trọng đó là
đưa đón hàng trăm cán bộ cao cấp của Đảng, quân đội và chuyên gia quân sự vào miền
Nam và từ miền Nam ra miền Bắc báo cáo Trung ương và nhận chỉ thị mới, kịp thời bổ
16


sung cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu trên chiến trường miền Nam hư
các đồng chí Lê Đức Anh. Võ Văn Kiệt, đồng chí Nguyễn Thiện Thành,… Ngồi ra
Đường HCM trên biển cịn đảm đương sứ mệnh vận chuyển món hàng “Đặc biệt” mà
khơng thê vận chuyển bằng đường bộ như dụng cụ đặc biệt vê y tế, máy chế tạo giấy tờ
cho cán bộ ta đi lại cơng khai trên tồn miền Nam, hóa chất đặc biệt để chế tạo vũ khí…
Có thể khẳn định rằng vai trò vận chuyển chi viện cho miền Nam ruột thịt là vai trò to lớn
quan trọng nhất của Đường Hồ Chí Minh trên biển.
3. Đường mịn Hồ Chí Minh trên biển là nơi hộ tụ sức mạnh chính trị tinh
thần – vật chất của quân và dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Đường Hồ Chí Minh trên biển là nơi hội tụ đầy đủ sức mạnh chính trị - tinh thần
của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sức mạnh chính trị tinh thần trên tuyến đường chiến lược vận tải biển là biểu hiện của ý chí quyết tâm giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và đi lên chủ
nghĩa xã hội; tình cảm của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn; tinh thần khắc phục
khó khăn, chịu đựng gian khổ, hy sinh, ý chí, quyết tâm, bản lĩnh, trí tuệ, lịng dũng cảm,
sự thơng minh, sáng tạo của cán bộ, chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam. Họ luôn ln

thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, thơng minh, quyết
đốn, táo bạo, nhất là những lúc hiểm nguy, sẵn sàng lao thẳng vào tàu địch, chiến đấu
đến phút cuối cùng để bảo vệ vũ khí, trang bị, giữ bí mật về chủ trương của Đảng, về con
tàu, về bến, bãi. Đó là tinh thần vượt qua mọi khó khăn, thử thách, ác liệt khi phải đối
mặt với kẻ thù, với thiên nhiên, với những tình cảm riêng tư để bảo vệ bí mật cho con
đường vận tải chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển. Những chuyến vượt biển là
những chuyến đi của tình đồng chí, đồng đội, lịng u thương gắn bó như anh em ruột
thịt, đồng cam, cộng khổ, sẵn sàng nhận khó khăn, hy sinh về mình, giành thuận lợi, sự
sống cho đồng đội, của tinh thần đoàn kết, kề vai sát cánh chiến đấu giữa quân đội với
nhân dân; của tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức và hành động kỷ luật tự giác,
nghiêm minh của cán bộ, chiến sỹ Hải quân.
Sức mạnh chính trị - vật chất trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ
Chí Minh trên biển được biểu hiện phong phú, sinh động trong các hoạt động của các cán
bộ, chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam và của đồng bào hai miền Nam Bắc trong phục
vụ chi viện sức người, sức của cho miền Nam chiến đấu và chiến thắng.
Đó là hoạt động của cán bộ, chiến sỹ Hải quân trong việc trực tiếp vận tải chở vũ
khí, trang bị và bộ đội từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam trong những chuyến đi
đầy khó khăn, gian khổ và căng thẳng. Mỗi một chuyến tàu ra đi, cán bộ, chiến sỹ phải
đối mặt với những thiếu thốn, nhọc nhằn, những sự cố trên đường, những lần gặp địch,
những lúc lạc bến, những ngày thả trơi, đói khát, say sóng và mưa nắng thất thường; thậm
chí ra đi là xác định cảm tử, xác định hy sinh. Đó là, hoạt động của đồng bào miền Bắc
trong việc giúp cán bộ, chiến sỹ Hải quân ổn định nơi ăn ở để làm nhiệm vụ, tham gia
làm nhiệm vụ đóng tàu từ tàu gỗ đến tàu vỏ sắt và tham gia vận chuyển hàng hóa, vũ khí,
trang bị để các đồn tàu vận chuyển vào Nam. Đó là hoạt động của đồng bào và chiến sỹ
miền Nam trong việc tìm kiếm bến, bãi, bốc dỡ, vận chuyển hàng hóa, vũ khí và bảo vệ
17


các con tàu. Đó là sự giúp đỡ, đùm bọc, chở che của nhân dân địa phương, các đơn vị ở
các bến, bãi đối với cán bộ, chiến sỹ trong những điều kiện vơ cùng khó khăn, ác liệt

dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù và sự khắc nghiệt của địa hình, khí hậu, thời tiết.
Như vậy, sức mạnh chính trị tinh thần – vật chất trên tuyến đường chiến lược vận
tải biển là một trong những nhân tố quan trọng, góp phần vào thắng lợi của dân tộc ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Sức mạnh ấy được bắt nguồn từ những nhân tố cơ bản sau:
Một là, đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Hai là, sự quan tâm chỉ đạo, động viên, cổ vũ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân.
Ba là, sự quan tâm giúp đỡ của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến và tinh thần, ý
chí quyết tâm của đồng bào, đồng chí miền Nam trong việc quyết tâm vận chuyển lực
lượng và vũ khí chi viện cho miền Nam.
Bốn là, thường xuyên tiến hành tốt công tác đảng, công tác chính trị cho cán bộ, chiến sỹ
trên tuyến đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển.
Như vậy, có thể thấy sức mạnh chính trị tinh thần – vật chất trên tuyến đường
chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển là kết tinh của sức mạnh tinh thần
dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước được nâng lên một tầm cao mới
trong thời đại Hồ Chí Minh. Sức mạnh chính trị - tinh thần đó bắt nguồn từ đường lối
chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ
sự quan tâm giúp đỡ, động viên, cổ vũ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Quân ủy Trung
ương, của Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến
miền Nam, đến ý chí quyết tâm của cán bộ, chiến sỹ, đồng bào miền Nam và việc thường
xuyên tiến hành tốt công tác đảng, cơng tác chính trị trong cán bộ, chiến sỹ trên tuyến
đường chiến lược vận tải biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển.
Sức mạnh chính trị tinh thần – vật chất trên tuyến đường chiến lược vận tải biển Đường Hồ Chí Minh trên biển đã được khơi dậy đến đỉnh cao trong Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử với “Đại thắng mùa Xn 1975” góp phần giải phóng hồn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước.

18



4. Đường mịn HCM trên biển có vai trị thể hiện tầm nhìn chiến lược, nét độc
đáo, sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Bên cạnh vai trị chính là vận chuyển vũ khí, đạn dược và cả sức người cho chiến
trường miền Nam, Đường Hồ Chí Minh trên biển cịn đóng vai trị khẳng định tầm nhìn,
bản lĩnh và tài thao lược, sự sáng tạo của Đảng và Nhà nước, ý chí và khát vọng độc lập,
tự do, thống nhất đất nước của toàn dân tộc. Chúng ta đã biết dựa vào khả năng to lớn của
nhân dân để vượt qua mọi khó khăn, từng bước đánh bại các âm mưu, thủ đoạn của kẻ
thù, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam trong những thời
điểm khó khăn, ác liệt nhất. Tầm nhìn chiến lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
thể hiện ở việc mở tuyến đường vận tải trên biển đúng thời cơ; quy tụ được sức mạnh của
toàn dân tộc; phương pháp vận chuyển “độc nhất vô nhị” trong lịch sử chiến tranh thế
giới.
Đường mịn Hồ Chí Minh trên biển ra đời vào thời điểm khó khăn, gian khổ, ác
liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong khi địch được trang bị các
loại vũ khí, phương tiện hiện đại, tối tân, chúng ta chỉ có những loại tàu thuyền nhỏ bé,
thô sơ, sử dụng tàu giả dạng vận tải, tàu đánh cá. Sự sáng tạo ở đây được thể hiện ở sự
kết hợp hoạt động bí mật và cơng khai; tàu có thể xuất phát từ nhiều bến đi (kể cả ở nước
ngoài) và cập nhiều bến đến; dẫn tàu đi trên nhiều tuyến đường khác nhau, có giai đoạn
đi vòng ra biển xa, vùng biển quốc tế; địch phong tỏa đường trong ta đi đường ngoài,
địch ngăn chặn đường dài ta đi phân đoạn; địch bám đuôi, ta đi thẳng ra vùng biển quốc
tế; khi địch phát hiện, áp sát tấn công hoặc cướp tàu, ta đánh trả quyết liệt, có lúc phải
phá hủy tàu và hàng để giữ bí mật nhiệm vụ và con đường. Điều này làm cho đối phương
hết sức kinh ngạc, bất ngờ và khơng thể tưởng tượng được về sự có mặt, quy mơ, sự dũng
cảm và tính sáng tạo vơ song của con đường, những con tàu và những con người tham gia
tuyến đường.
Độc đáo bởi, Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn chiến lược của
Quân uỷ Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên dãy
Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh trên biển tạo nên hai tuyến vận tải chiến lược, bổ sung,
hỗ trợ cho nhau, giải quyết nhu cầu của hai hướng chiến lược của chiến trường miền

Nam, tạo nên hệ thống mạch máu giao thơng chủ đạo và hồn chỉnh chi viện kịp thời,
hiệu quả cho miền Nam đánh thắng quân thù. Đó là những con đường thể hiện ý chí
quyết chiến, quyết thắng, lịng dũng cảm và khí phách một dân tộc anh hùng; một “huyền
thoại có thật”, một “kỳ tích” của dân tộc ta. Đó khơng chỉ là phương thức chi viện mới
hết sức quan trọng, trực tiếp cho các chiến trường ven biển miền Nam, mà còn là một
sáng tạo chiến lược của Đảng về chiến tranh nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh, đã
góp phần to lớn làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Hơn nữa Đường Hồ Chí Minh trên biển đã quy tụ được sức mạnh của toàn dân
tộc, với quyết tâm sắt đá khơng gì lay chuyển, đó là dám đánh, biết đánh và biết thắng
Mỹ. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Quân chủng Hải quân đã nắm chắc tình hình,
nhiệm vụ, chủ động xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, huấn luyện chu đáo, kể cả
các lực lượng hiệp đồng tác chiến; và chỉ huy thống nhất, quyết đoán, linh hoạt, liên tục,
19


bí mật; triệt để tận dụng thời cơ, đa dạng hóa phương pháp vận tải để chuyển hóa thế trận,
làm chủ tình huống.
Qua đó ta có thể thấy được rằng, đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành một huyền
thoại có thật, một kỳ tích của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó
khơng chỉ là phương thức chi viện mới hết sức quan trọng, trực tiếp cho các chiến trường
ven biển miền Nam, mà còn là một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân trong thời
đại Hồ Chí Minh. Đường Hồ Chí Minh trên biển là một nét độc đáo, đặc sắc, sáng tạo của
đường lối chiến tranh nhân dân, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh; trở thành biểu tượng tự hào của cả dân tộc Việt Nam,
hiện thân của ý chí khát vọng độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc; là trí tuệ, ý chí quyết
chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước; trong đó cán bộ, chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam, mà trực tiếp là
Đoàn 759 trước đây, Đoàn vận tải quân sự 125 và Lữ đồn 125 ngày nay là lực lượng
nịng cốt.


5. Đường HCM là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên lớn lao với những cán bộ,
chiến sĩ của bộ đội Hải quận và nhân dân ta.
Có thể nói đường mòn HCM đã là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên lớn lao đối
với những cán bộ, chiến sĩ trên những con tàu “ tàu không số” của bộ đội Hải quân và
nhân dân các tỉnh duyên hải nơi tuyến đường đi qua. Chiến cơng và thành tích vẻ vang
của Đường Hồ Chí Minh trên biển đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của sự
ngiệp kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, đánh cho Mĩ cút. Đánh cho ngụy nhào, giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc.
Nói tới Đường Hồ Chí Minh trên biển cịn phải nhắc đến các thế hệ cán bộ, chiến
sĩ của đồn tàu khơng số luôn luôn trung thành vô hạn với Đảng, với nhân dân, nêu cao ý
chí quật cường, tinh thần mưu trí, sáng tạo, sẵn sàng xả thân chiến đấu hi sinh để hoàn
20


thành xuất sắc nhiệm vụ được Trung ương, Bác Hồ và quân đội giao phó. Những con
người can trưởng trong đội ngũ cán bộ, thủy thủ của “Đồn khơng qn số” trên tuyến
vận tải quân sự Hồ Chí Minh trên biển, lúc đầu phần lớn quê ở các địa phương miền Nam
tập kết ra Bắc, một số vốn quen với nghề đi biển, chịu đựng được sóng gió, điều khiển
tàu chủ yếu bằng kinh nghiệm. Tuy nhiên, do yêu cầu nhiệm vụ, do quy mô vần chuyển
phát triển, nên trong thành phần đội ngũ sĩ quan, thủy thủ, nhân viên kĩ thuật của đoàn
vận tải sau này hầu hết được đào tạo cơ bản, là những đảng viên, đoàn viên, cừa có tri
thức, sức khỏe, có khả năng chịu đựng gian khổ, bản lĩnh cách mạng kiên cường, vừa có
quyết tâm cao kinh nghiệm dày dặn. Đây chính là những cán bộ, chiến sĩ đào tạo, rèn
luyện, trưởng thành trong các cơ quan, đơn vị, nhà trường trên miền Bắc, trở thành nhân
lực quan trọng đương nhiệm vụ nặng nề mà Đảng và nhân dân giao phó, nhiều cán bộ chỉ
huy, thuyền trường, chính trị viên, thuyền phó đã thể hiện xử trí tài tình, điều khiển con
tàu tiếp tục giữ vững hành trình vào Nam và đối phó linh hoạt với các tình huống xảy ra..
Việc mở đường Hồ Chí Minh trên biển là một chủ trương kiên quyết, táo bạo của Trung
ương mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự quyết định sáng suốt đó là kết quả của
sự kết hợp về “ thiên thời, địa lợi, nhân hịa “ và đã mang lại những đón góp vơ cùng to

lớn. Trong những năm tháng chóng Mĩ cứu nước, hàng ngàn tấn vũ khí và phương tiện
chiến tranh khác của Trung ương chi viện cho chiến trường miền nam qua đường Hồ Chí
Minh trên biển đã đen đến nhiều địa phương dọc theo duyên hải miền trung đến tận mũi
Cà Mau để tiếp sức cho kháng chiên. Thắng lợi của kháng chiến chống Mĩ, cứu nước đã
ghi vào lịch sử dân tộc ta như một tranh vàng chói lọi, một biểu tượng sáng ngời của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, của ý chí “ khơng có gì quý hơn độc lập tự do” của lòng dũng
cảm, bản lĩnh trí tuệ con người Việt Nam. Chiến thắng đó còn đi vào lịch sử thế giới như
một trong những chiến công vĩ đại nhất thế kỉ XX- một sự kiện có tầm vóc quốc tế to lớn
và có tính thời đại sâu sắc. Có được thành quả cách mạng vĩ đại ấy, dâ tộc ta đac phải trải
qua những chặng đường chiến tranh đầy gian nan, thử thách, đã kế thừa, phát triển lên
một tầm cao mới truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, bất khuất của dân tộc Việt
Nam, giá trị văn hóa và nền nghệ thuật quân sự đặc sắc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí
Minh. Thắng lợi mà dân tộc ta giành được là sự hội tụ, kết tinh của nhiều nhân tố, trong
đó Đường Hồ Chí Minh trên bộ xuyên dãy Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh trên biển
có vai trị quan trọng. Đây thực sự là một sự sáng tạo độc đáo về tài thao lược và nghệt
thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Quân ủy
Trung ương trong các cuộc đấu trí, đấu lực với các âm mưu và thủ đoạn nham hiểm của
kẻ thù, nhằm ngăn chặn sự chi viện sức mạnh của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến
miền Nam.
III. Ý nghĩa, giá trị của Đường mịn Hồ Chí Minh trên biển
1. Gía trị ý nghĩa lịch sử
Chúng ta khơng thể phủ nhận vai trị của Đường Mịn Hồ Chí Minh trên Biển trong lịch
sử đấu tranh của cách mạng Việt Nam. Bởi lẽ nó cho chúng ta thấy được tầm quan trọng
của tuyến đường trong quá trình đấu tranh của nhân dân ta. Cụ thể:

21


-


Ở giai đoạn 1(1962- 1965): Đường Hồ Chí Minh trên biển làm nhiệm vụ chi viện
cho chiến trường và góp phần đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của
Mỹ

-

Ở giai đoạn 2 (1965- 1972): Đường Hồ Chí Minh trên biển vượt qua thử thách ác
liệt, khắc phục khó khăn và tiếp tục vận chuyển chi viện cho chiến trường giai
đoạn này, góp phần đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa
chiến”

Qua những thành tựu nêu trên để chúng ta thấy được rằng đường Hồ Chí Minh trên biển
đã đi vào huyền thoại chống Mỹ cứu nước của nước ta, của dân tộc ta. Nó mang một giá
trị to lớn, không thể thành công, thất bại hay chiến thắng là nhờ vào chính con đường này.
Đồng thời qua đó, Đường Hồ Chí Minh cũng để lại những giá trị cao đẹp
như:
-

Khẳng định được sự lãnh đạo tài tình của ban chấp hành TW Đảng.
Là nơi hội tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện sức mạnh của
dân tộc Việt Nam – Nơi tỏa sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Thể hiện được sự sáng tạo độc đáo và đặc sắc của đường lỗi đấu tranh của nhân
dân ta. Nghệ thuật quân sự của Việt Nam nói chung cũng như nghệ thuật quân sự.
Hải quân nói riêng trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh ngăn chặn của đế quốc
Mỹ

-

Đồng thời, giá trị của đường Hồ Chí Minh trên biển là một giá trị vĩnh cửu – là bài
ca thiên hùng ca bất tử, thể hiện truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta

trên mọi mặt trận. Chúng ta có thể hình dung của đấu tranh chống Mỹ cứu nước
của dân tộc ta trong giai đoạn từ 1962 đến 1975 mà khơng có con đường đấu tranh
trên biển, khơng có những con tàu không số hoạt động ngày đêm đối mặt với tử
thần thì sẽ khơng có chiến thắng trong lịch sử. Đồng thời, Sự ra đời của Đường Hồ
Chí Minh trên biển cùng với những chiến công của lực lượng Hải quân trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã chứng minh về tầm quan trọng của biển, đảo
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong
giai đoạn cách mạng mới, sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn quân và tồn
dân ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi to lớn
và sâu sắc, vừa thuận lợi, vừa có những thách thức mới. Xu thế tồn cầu hóa đang
tác động sâu sắc, tồn diện trên bình diện quốc tế, đồng thời đặt ra yêu cầu khách
quan trước mỗi quốc gia. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu
vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động, nhưng còn tồn tại nhiều
nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng phức tạp. Nhiệm
vụ của Hải quân nhân dân Việt Nam là tiếp tục làm nịng cốt cùng với tồn quân,
toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền tồn vẹn lãnh thổ, giữ vững mơi
trường hịa bình ổn định để phát triển kinh tế, xã hội và quan hệ hữu nghị với các
nước láng giềng và trên thế giới, xứng đáng là lực lượng nòng cốt làm nên con
đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển trước đây cũng như hiện nay.

2. Gía trị thực tiễn của đường mòn HCM trên biển
22


-

Đồn 125 Hải qn với tên gọi “Đồn tàu khơng số” là lực lượng trực tiếp vận
chuyển trên con đường biển mang tên Bác đã 2 lần được Đảng, Nhà nước tuyên
dương dnah hiệu “Đơn vị Anh hung Lực lượng Vũ trang nhân dân”, xây đắp nên
truyền thống vẻ vang của dân tộc “Mưu trí dũng cảm, khắc phục khó khăn, vận tải

đường biển, chi viện chiến trường, quyết chiến quyết thắng.” Ngày 23/10 hàng
năm đã trở thành ngày truyền thống mở “Đường Hồ Chí Minh trên biển” và thành
lập Lữ đoàn 125 Hải quân. Những bài học kinh nghiệm của Đường Hồ Chí Minh
trên biển đến nay vẫn cịn nguyên giá trị. Đặc biệt là tỏng giai đoạn hiện nay khi
Quân chủng Hải quân đảm đương sứ mệnh là lực lượng nòng cốt và trực tiếp trong
quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển đảo, thềm ục địa của Tổ Quốc

-

Trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ chủ quyền biển đảo
thiêng liêng của Tổ quốc, các lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam đã phấn đấu
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ. Đặc biệt, lực lực lượng vận tải đường biển
của Hải quân đã phát huy truyền thống “Đoàn tàu khơng số” vượt qua khó khăn,
thử thách, mưu trí, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu vận chuyển trong giai đoạn mới,
ln ln hồn thành nhiệm vụ vận chuyển, góp phần xây dựng, bảo vệ biển, đảo
vững mạnh. Bên cạnh đó, các tàu hải qn cịn thực hiện tốt nhiệm vụ phòng
chống bão, lụt, cứu hộ, cứu nạn trên biển, giúp đỡ ngư dân, góp phần giữ vững
truyền thống tốt đẹp của quân chủng Hải quân anh hung, sáng ngời phẩm chất “Bộ
đội cụ Hồ” – người chiến sĩ Hải qn trong lịng nhân dân. Lịch sử Đường Hồ Chí
Minh trên biển thực sự là minh chứng sống động về tầm quan trọng của chiến lược
biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

-

Trong điều kiện hiện nay khi các nước trên thế giới đang bước vào cuộc chạy đua
vươn ra biển, nghiên cứu thăm dò, khai thác các nguồn lợi từ biển để làm giàu thì
trách nhiệm của các lực lượng vũ trang, mà trực tiếp là lực lượng Hải quân ngày
càng nặng nề, phức tạp và khó khăn hơn. Dưới ánh sáng của Nghị quyết trung
ương 4 về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, nhất là những chủ trương
nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, gắn với quốc phòng an ninh và hợp tác

quốc tế, những chiến công và bài học kinh nghiệm về hoạt động của Đường Hồ
Chí Minh trên biển sẽ tiếp tục được nhân lên gấp bội. Trong những năm qua, Quân
chủng Hải Quân là đơn vị đi đầu phát triển một số lĩnh vực của kinh tế biển, triệt
để tận dụng mọi khả năng (nhất là con người, cơ sở vật chất, phương tiện hiện có),
trong điều kiện cho phép, đẩy mạnh các hoạt động lao động sản xuất, kinh doanh
trong những lĩnh vực, ngành nghề có thế mạnh, như: Dịch vụ cảng biển, vận tải
biển, xây dựng các cơng trình biển. Điển hình như Tổng cơng ty Tân Cảng Sài
Gòn với lợi thế và những trụ cột hết sức khoa học, hiệu quả đã đưa dịch vụ khai
thác cảng biển vào trong Top 40 cảng biển lớn nhất thế giới và chiếm tới 80% thị
phần container của các cảng biển phía Nam. Mặt khác, phát triển ngành vận tải
biển nội địa, dịch vụ logictic tạo thành những điểm mạnh của ngành kinh tế biển
hiện nay. Bên cạnh đó lực lượng Hải quân còn tạo điều kiện cho ngư dân cho nhân
dân định cư sinh sống, làm ăn lâu dài trên vùng biển, nhất là các vùng biển ở xa.
23


-

Đường Hồ Chí Minh trên biển đã đi vào lịch sử, những bến tàu trên tuyến đường
này như bến tàu khơng số K15 Đồ Sơn (Hải Phịng), bến tàu khơng số Lộc An (Bà
Rịa – Vũng Tàu), bến tàu không số Vũng Rô (Phú Yên), bến Vàm Lũng (Cà Mau)
đã trở thành những khu di tích lịch sử thu hút nhiều du khách và một số nơi đã
được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cơng nhận là Di tích lịch sử Quốc gia. Tại
Đồ Sơn (Hải Phịng) có khu di tích cảng quân sự bí mật K15 đánh dấu cột mốc
Hải lý đầu tiên của đường Hồ Chí Minh trên biển, với tượng đài “Bến Tàu không
số” ở thung lung Xanh dưới chân đồi Nghinh Phong. Tại Cà Mau, tượng đài chiến
thắng Đường Hồ Chí Minh trên biển đã được xây dựng tại Vàm Lũng, xã Tân Ân,
huyện Ngọc Hiển. Ngồi ra khu tượng đài cịn có nhà trưng bày truyền thống lịch
sử để du khách tìm hiểu về con đường huyền thoại này.


KẾT LUẬN
Cùng với Đường Hồ Chí Minh xuyên Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh trên biển là hiện
thân của sự kết nối bền vững hai miền Nam- Bắc; sự gắn bó chặt chẽ giữa hậu phương
lớn với tiền tuyến lớn. Đó thật sự là biểu hiện sinh động nhất của chủ nghĩa anh hung
cách mạng và sức mạnh đại đồn kết dân tộc vì mục tiêu chung giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Tuyến đường với những con tàu không số đã gắn liền với tên tuổi,
địa danh và biết bao chiến công hiển hách của các anh hùng, liệt sĩ, của quân và dân các
24


địa phương, đặc biệt là Bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên
CNXH. 50 năm đã qua, nhưng Đường Hồ Chí Minh trên biển đã và sẽ mãi mãi trở thành
biểu tượng của ý chí sắt đá, lịng dũng cảm, sức sáng tạo phi thường của tồn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; mãi mãi là niềm tự hào,
nguồn cổ vũ, động viên lớn lao đối với Bộ đội Hải quân và nhân dân các tỉnh duyên hải,
nơi tuyến đường đi qua.Những người con đất Việt sẽ mãi mãi tự hào về Đường Hồ Chí
Minh trên biển- con đường đã hồn thành xuất ắc vai tị quan trọng của mình tỏng việc
tiếp sức người, sức của từ miền Bắc cho chiến truofng miền Nam, trờ thành “huyết mạch
hết sức tọng yếu chi viện cho chiến trường để quân và dân ta đánh thắng kẻ thù xâm lược,
hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc.
“ Những con tàu được đóng bằng tấm lịng như thế
Thì con đường trên biển sao có thể mịn…
Sóng mn đời vẫn trắng
Muối mn đời vẫn mặn
Con đường vẫn mịn”
Từ hoạt động thực tiễn phong phú, sinh động, rực rỡ chiến công của” Đường Hồ Chí
Minh trên biển”, trong sự nghiệp xây dựng và bảo về Tổ quốc, Hải quân nhân dân Việt
Nam đã và đnag kế thừa, vận dụng và phát huy nhiều bài học kinh nghiệm quus báu vè
công tác tổ chức xây dựng lực lượng, giáo dục, huấn luyện; phối hợp hiệp đồng và phát

triển nghệ thuật vận tải quân sự đường biển; nghiên cứu âm mưu thủ đoạn và khả năng
chống phá địch,…

25


×