Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Luật tố tụng hành chính chương 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.41 KB, 11 trang )

Luật tố tụng hành chính
CHƯƠNG VI: CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
A. NHẬN ĐỊNH
1. Đối thoại là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết VAHC.
Nhận định sai.
Căn cứ theo K1 Đ134 Luật TTHC 2015, đối với những vụ án hành chính khơng tiến
hành đối thoại được (Đ135), vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri (Đ198), vụ án xét
xử theo thủ tục rút gọn (Đ246) thì khơng bắt buộc tiến hành thủ tục đối thoại trong
quá trình giải quyết VAHC.
2. Các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 141 Luật TTHC năm 2015 là cơ sở duy
nhất để chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ
án.
Nhận định sai.
CSPL: K2 Đ187 Luật TTHC 2015.
Căn cứ theo K1 Đ228 Luật TTHC 2015, Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm
đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, viện dẫn đến K1 Đ141. Trong trường hợp này, điều
kiện để K1 Đ141 là cơ sở để chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án là phải phát sinh trong giai đoạn giải quyết phúc thẩm VAHC.
3.Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VAHC kết thúc vào thời điểm trước khi
mở phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHC.
Nhận định sai.
CSPL: điều 130 Luật TTHC 2015.
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm VAHC là giai đoạn tố tụng hành chính trong đó các chủ thể
có liên quan sẽ tiến hành chuẩn bị các công việc cần thiết nhằm đưa vụ án ra xét xử
tại phiên tòa sơ thẩm. Như vậy, trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì Tịa chưa
xét xử mà các bên chỉ đang làm các công đoạn chuẩn bị phục vụ cho việc xét xử tại
phiên tòa sơ thẩm nếu VAHC được quyết định đưa ra xét xử nên thời hạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm sẽ kết thúc vào thời điểm trước khi mở phiên tòa sơ thẩm.


4. Thời hạn chuẩn bị xét xử đối với khiếu kiện QĐHC không quá 06 tháng kể


từ ngày thụ lý.
Nhận định sai.
1 năm kể từ ngày khi nhận được hoặc biết về QĐHC thì được quyền khởi kiện để
yêu cầu Tòa án giải quyết VAHC bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
(Điểm a khoản 2 Điều 116 Luật TTHC năm 2015). Sau khi Tòa án nhận được đơn
khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa xét thuộc thẩm quyền giải quyết và
quyết định thụ lý án thì thời hạn chuẩn bị xét xử là 4 tháng kể từ ngày thụ lý đối với
QĐHC (Khoản 1 Điều 130 Luật TTHC năm 2015).
5. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, nếu phát hiện vụ việc đã thụ lý là
vụ án dân sự thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án.
Nhận định sai.
CSPL: Khoản 1 Điều 34 Luật TTHC 2015.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nếu phát hiện vụ việc đã thụ lý là vụ án dân sự và
giải quyết vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Tịa án giải quyết vụ
án đó theo thủ tục chung do luật tố tụng dân sự quy định, đồng thời thông báo cho
đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp biết.
6. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, nếu phát hiện vụ việc đã thụ lý là
vụ án dân sự thì Thẩm phán được phân cơng giải quyết vụ án phải ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án.
Nhận định sai.
CSPL: Khoản 1 Điều 143 Luật TTHC 2015.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu người khởi kiện là cá nhân chết mà quyền,
nghĩa vụ của họ không được thừa kế thì Tịa án mới phải ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án, còn nếu người khởi kiện là cá nhân chết mà quyền, nghĩa vụ của họ
chưa được thừa kế thì Tịa án chỉ được ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Trường hợp người khởi kiện là cá nhân chết nhưng quyền, nghĩa vụ của họ được
thừa kế thì vẫn tiếp tục giải quyết.
7. Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án khơng thể có hiệu lực thi hành ngay.



Nhận định này sai.
CSPL: Khoản 1 Điều 202 luật TTHC 2015.
Đối với trường hợp quyết định đình chỉ giải quyết vụ án có hiệu lực thi hành ngay,
theo khoản 1 điều 202 Luật TTHC 2015 có quy định: “Bản án, quyết định đình chỉ
vụ án giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri có hiệu lực thi hành ngay. Đương sự
khơng có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát khơng có quyền kháng nghị”. Như vậy,
trong trường hợp quyết định đình chỉ vụ án giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri
là trường hợp đặc biệt, có hiệu lực thi hành ngay.
8. Nếu người khởi kiện là cá nhân đã chết thì tịa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ
án.
Nhận định này sai.
Theo điểm a khoản 1 điều 143 Luật TTHC 2015 thì phải là người khởi kiện là cá
nhân chết mà quyền và nghĩa vụ của họ không được thừa kế thì khi đó mới đình chỉ
giải quyết vụ án. Điều 59 Luật TTHC 2015 quy định cụ thể về thừa kế quyền và
nghĩa vụ tố tụng “trường hợp người khởi kiện là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ
của người đó được thừa kế thì người thừa kế được tham gia tố tụng”. Như vậy luật
vẫn quy định cho phép kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng trong trường hợp người khởi
kiện là cá nhân chết. Tuy nhiên không phải tất cả trường hợp người khởi kiện là cá
nhân chết thì quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân đều được kế thừa, theo quy định
của BLDS thì quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Do đó, nếu
vụ án hành chính liên quan đến nhân thân mà đương sự là cá nhân chết thì quyền và
nghĩa vụ của họ không được thừa kế, khi đó tịa sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án.
9. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu phát hiện người khởi kiện khơng có
năng lực hành vi TTHC đầy đủ thì Tịa án sẽ trả lại đơn khởi kiện.
Nhận định sai.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, căn cứ theo điểm h khoản 1 điều 143 “Các trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 của Luật này mà Tòa án đã thụ lý” và theo điểm

b khoản 1 điều 123 Luật TTHC thì đối với “Người khởi kiện khơng có năng lực hành
vi tố tụng hành chính đầy đủ”, Tịa án sẽ tạm đình chỉ giải quyết vụ án cho đến khi
xác định được người đại diện theo pháp luật.


10. Quyền bổ sung yêu cầu là quyền dành riêng cho người khởi kiện.
Nhận định sai.
CSPL: Điều 8, Điều 58, Điều 173 luật TTHC 2015.
Căn cứ vào Điều 8 quy định “người khởi kiện có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu
cầu khởi kiện và các quyền tố tụng khác theo quy định của luật này”. Theo khoản 2
Điều 58, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền của người khởi kiện,
đương sự. Ngoài ra, khoản 1 Điều 173 quy định về Xem xét việc thay đổi, bổ sung,
rút yêu cầu “Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương
sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi
kiện hoặc yêu cầu độc lập ban đầu”. Có nghĩa rằng, khơng chỉ người khởi kiện mà
người bị kiện hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng có quyền bổ sung yêu
cầu.
11. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án chỉ được ban hành trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm VAHC.
Nhận định sai.
CSPL: khoản 2 Điều 141 Luật TTHC năm 2015, khoản 4 Điều 241 Luật TTHC.
Theo khoản 2 Điều 141 Luật TTHC Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án không
chỉ được ban hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VAHC mà cịn có thể bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và theo khoản 4 Điều 241 Luật TTHC
thì đình chỉ việc giải quyết vụ án nếu trong quá trình xét xử sơ thẩm có một trong
các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 143 của Luật này.
12. Thẩm phán được phân cơng thụ lý vụ án khơng có trách nhiệm gửi thông
báo thụ lý vụ án cho người khởi kiện.
Nhận định sai.
CSPL: khoản 2 Điều 125 Luật TTHC năm 2015.

Thẩm phán thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện nộp biên lai thu tiền tạm ứng án
phí. Trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí hoặc khơng
phải nộp tiền tạm ứng án phí thì ngày thụ lý vụ án là ngày Thẩm phán thơng báo cho
người khởi kiện biết việc thụ lý. Vì vậy Thẩm phán vẫn có trách nhiệm gửi thơng
báo thụ lý cho người khởi kiện.


13. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm , đương sự được quyền nghiên cứu
hồ sơ vụ án
Nhận định này sai.
Cơ sở pháp lý: điều 55 Luật TTHC năm 2015.
Đương sự không được quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án, một số đối tượng sau đây có
quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật: Hội thẩm nhân dân, kiểm
sát viên, kiểm tra viên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự...Mặc
dù không được quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án, nhưng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, đương sự có thể u cầu người có đủ các điều kiện do pháp luật quy
định tham gia vào q trình tố tụng, và người đó có quyền được nghiên cứu hồ sơ
vụ án theo điều 61 Luật TTHC.
14. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm cũng là Thẩm phán được phân công thụ lý vụ án
Nhận định này sai.
Cơ sở pháp lý: điều 127 Luật TTHC năm 2015.
Theo quy định tại điều 127 Luật TTHC, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày
thụ lý vụ án, Chánh án Tịa án quyết định phân cơng Thẩm phán giải quyết vụ án và
phải đảm bảo theo các nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu nhiên. Trong trường hợp
Thẩm phán đã thực hiện việc xem xét đơn khởi kiện, thụ lý vụ án thì sẽ khơng được
Chánh án Tịa án phân cơng giải quyết vụ án hoặc Thẩm phán thuộc các trường hợp
từ chối tiến tố tụng hành chính tại điều 46 luật TTHC cũng khơng được Chánh án
phân cơng giải quyết vụ án hành chính.
15. Giai đoạn chuẩn bị xét xử bắt đầu từ khi Tòa án ra thông báo thụ lý đơn

khởi kiện.
Nhận định này là đúng.
CSPL: Điều 130 Luật TTHC năm 2015.
Chuẩn bị xét xử VAHC là giai đoạn TTHC trong đó các chủ thể có thẩm quyền tiến
hành các hoạt động chuẩn bị cho việc giải quyết VAHC tại phiên toà. Cụ thể, Khoản
1, khoản 2 Điều 130 Luật TTHC 2015 quy định:


“Thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án, trừ vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn, vụ án có
yếu tố nước ngồi và vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri được quy định như sau:
1. 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2
Điều 116 của Luật này;
2. 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2
Điều 116 của Luật này;”
Như vậy giai đoạn chuẩn bị xét xử bắt đầu từ khi Tòa án ra thơng báo thụ lý đơn
khởi kiện. Do đó nhận định này là đúng.
16. Trường hợp qua đối thoại nếu các đương sự đã thống nhất với nhau về việc
giải quyết vụ án thì Thẩm phán ra quyết định cơng nhận kết quả đối thoại
thành, đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Nhận định này là sai.
Theo quy định tại điểm g, điểm h khoản 4 Điều 138 Luật TTHC 2015 sau khi đương
sự trình bày ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề đã thống nhất, chưa
thống nhất, yêu cầu đương sự bổ sung về những vấn đề chưa thống nhất, sau đó thẩm
phán đưa ra kết luận về những vấn đề trên.
Căn cứ theo khoản 3 Điều 140, nếu đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết
vụ án:người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi
kiện hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện cam kết rút
đơn khởi kiện thì Tịa án sẽ lập biên bản về việc cam kết của đương sự. Trong thời
hạn 7 ngày kể từ ngày lập biên bản, nếu các đương sự không thực hiện cam kết thì
Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án. Nếu các đương sự

đã thực hiện cam kết trong thời hạn trên và khơng có ý kiến phản đối thì Thẩm phán
ra quyết định cơng nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ việc giải quyết vụ án và
gửi ngay cho đương sự.
Như vậy không phải trong mọi trường hợp qua đối thoại nếu các đương sự đã thống
nhất với nhau về việc giải quyết vụ án thì Thẩm phán ra quyết định cơng nhận kết
quả đối thoại thành, đình chỉ việc giải quyết vụ án. Việc ra quyết định này còn phụ
thuộc vào việc các đương sự có thực hiện đúng thỏa thuận của mình trong thời hạn
luật định hay khơng.


17. Tịa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì người khởi kiện khơng
có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án đó.
Nhận định sai.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 144 Luật TTHC năm 2015 khi Tịa án đã ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án thì đương sự khơng có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án giải
quyết lại vụ án đó trừ một số trường hợp bị đình chỉ theo quy định tại các điểm b, c
và e khoản 1 Điều 123, điểm b và điểm đ khoản 1 Điều 143 của Luật này và trường
hợp khác theo quy định của pháp luật.
18. Kiểm sát viên được quyền tham gia tất cả các phiên họp của Tòa án.
Nhận định này đúng.
CSPL: Điều 137 luật TTHC 2015.
Về nguyên tắc, quyền tham gia tất cả các phiên họp của Tòa án là quyền đương nhiên
của Kiểm sát viên, điều này xuất phát từ chức năng của Kiểm sát viên là kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, có một trường hợp đặt ra, tại khoản 1 Điều 137
luật TTHC 2015 quy định về thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại không bao gồm Kiểm sát viên, như vậy
phải chăng quyền này của Kiểm sát viên trong trường hợp trên có mâu thuẫn? Câu
trả lời là thực chất khơng có mâu thuẫn nào cả, vì xét cho cùng, do đây là quyền của
Kiểm sát viên, nên trong trường hợp Kiểm sát viên xét thấy việc thực hiện hoạt động
giám sát của minh là cần thiết, thì Kiểm sát viên vẫn có thể tham dự cuộc họp này.

19. Thời hạn chuẩn bị xét xử với các loại khiếu kiện khác nhau là như nhau.
Nhận định này sai.
CSPL: Điều 130 Luật TTHC 2015.
Theo đó, thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các loại khiếu kiện khác nhau là có
sự khác biệt, cụ thể tại Điều 130 Luật TTHC có chia các thời hạn đối với từng loại
khiếu kiện như sau:
04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2
Điều 116 của Luật này;
02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2
Điều 116 của Luật này;


Đối với vụ án phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì Chánh án Tịa án có thể quyết
định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử một lần, nhưng không quá 02 tháng đối với
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này và không quá 01 tháng đối với trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều này;
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị
xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tịa án có
hiệu lực pháp luật.
20. Tất cả quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tịa án đều có thể bị kháng
cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Nhận định này sai.
CSPL: Khoản 1 Điều 202 Luật TTHC 2015.
Theo đó, đối với quyết định đình chỉ vụ án giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri
thì đương sự khơng có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát khơng có quyền kháng nghị.
Sở dĩ các nhà làm luật quy định điều này bởi vì giải quyết khiếu kiện về danh sách
cử trị là một vụ án hành chính có phần “đặc biệt”, mang tính đặc thù hơn so với các
đối tượng khiếu kiện vụ án hành chính khác, đồng thời quyết định giải quyết khiếu
kiện về danh sách cử tri có hiệu lực thi hành ngay do phụ thuộc về mặt thời gian
trong quá trình diễn ra cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Bài tập:
Bài 1:
Ngày 01/03/2019, Cục trưởng Cục thuế thành phố H ban hành Quyết định số
112/QĐ-CT xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với Cơng ty TNHH Hồi
Thương (có trụ sở đặt tại huyện NT, Tỉnh ĐN) với số tiền 500 triệu đồng. Không
đồng ý với QĐHC trên, ngày 06/05/2019 ông M là Giám đốc của Cơng ty TNHH
Hồi Thương đã khởi kiện với yêu cầu Tòa án hủy bỏ Quyết định số 112/QĐ-CT và
buộc người bị kiện bồi thường thiệt hại 10 triệu đồng do QĐHC trái pháp luật gây
ra. Ngày 14/05/2019, Tòa án đã tiến hành thụ lý vụ án. Anh/Chị hãy:
a) Xác định thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong vụ án trên? Thời hạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm sẽ được xác định như thế nào nếu ngày 10/09/2019, Tịa án ban hành
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án và có quyết định tiếp tục giải quyết vụ án
vào ngày 15/12/2019?


Căn cứ theo Đ116 Luật TTHC 2015, thì vụ án này thuộc trường hợp tại điểm a K2
Đ116. Theo K1 Đ130 Luật TTHC 2015 thì khi Tịa án đã tiến hành thụ lý vụ án thì
thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án trên là 4 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án.
Căn cứ theo K4 Đ130 Luật TTHC 2015, khi Tòa án ban hành quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án và có quyết định tiếp tục giải quyết vụ án vào ngày 15/12/2019
thì thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm được xác định là 4 tháng kể từ ngày 15/12/2019.
b) Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, người bị kiện cho rằng người khởi kiện
chậm thi hành Quyết định số 112/QĐ-CT dẫn đến thiệt hại cho Nhà nước nên yêu
cầu Tòa án có thẩm quyền buộc người khởi kiện bồi thường thiệt hại 100 triệu đồng.
Theo Anh/Chị, yêu cầu của người bị kiện có được đồng ý hay khơng và tại sao?
Theo nhóm em, u cầu của người bị kiện khơng được Tịa án đồng ý.
Vì người khởi kiện VAHC tức là họ không đồng ý với quyết định của người bị kiện
(cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Họ khơng đồng ý với quyết định đó nên mới
quyết định đi kiện, tức là họ sẽ không thực hiện theo quyết định đó. Mà thời hạn
khởi kiện của VAHC là 01 năm kể từ ngày biết theo điểm a khoản 2 Điều 116. Trong

vụ án này, ngày 01/03/2019, Cục trưởng Cục thuế thành phố H ban hành Quyết định
số 112/QĐ-CT xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với Cơng ty TNHH Hồi
Thương; ngày 06/05/2019 ơng M là Giám đốc của Cơng ty TNHH Hồi Thương đã
khởi kiện; tức là vẫn cịn trong thời hạn khởi kiện. Như vậy, phía người bị kiện không
thể đặt ra yêu cầu như trên.

c) Giả sử trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VAHC ông M chết. Hỏi tư cách
đương sự trong vụ án trên có thay đổi hay khơng? Vì sao?
Tư cách đương sự trong vụ án trên không thay đổi, người khởi kiện là Cơng ty Hồi
Thương, người đại diện tham gia VAHC là giám đốc của Cơng ty Hồi Thương chứ
khơng phải ơng M vì QĐHC ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của Công ty và
Công ty không đồng ý với QĐHC của Cục trưởng Cục thuế thành phố H, và Giám
đốc công ty là người đại diện cho Công ty khởi kiện quyết định HC của Cục trưởng.
Vì vậy tư cách đương sự khơng đổi.

Cơ sở pháp lý: Khoản 2, 8, 9 Điều 3 và Khoản 5 Điều 54 LTTHC 2015.


Bài 2:
Ngày 15/05/2018 bà N bị Chủ tịch UBND huyện T ra quyết định xử phạt VPHC về
hành vi xây dựng nhà trái phép. Không đồng ý với quyết định trên, bà N đã khởi
kiện VAHC và được Tòa án thụ lý. 03 tháng kể từ ngày thụ lý, theo yêu cầu của
người bị kiện Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án để người bị kiện
thu thập thêm tài liệu, chứng cứ. Theo anh/chị:
a) Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án của Tịa án có đúng với quy định của
pháp luật hay khơng? Vì sao? Nếu khơng đồng ý với quyết định trên, bà N có thể
làm gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình?
Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án của Tịa án khơng đúng với quy định của
pháp luật. Căn cứ khoản 1 Điều 141 thì việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án của Tịa
án là khơng phù hợp (Vì quy định tại Khoản 1 Điều 141 Luật TTHC về Tạm đình

chỉ giải quyết vụ án khơng đề cập đến trường hợp tạm đình chỉ vụ án để người bị
kiện thu nhập thêm tài liệu, chứng cứ.) Bên cạnh đó vì thời gian chuẩn bị xét xử sơ
thẩm của quyết định hành chính là 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án (khoản 1 Điều
130 LTTHC 2015) nhưng theo vụ án trên thì người bị kiện yêu cầu Tòa án ra quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án để thu thập thêm chứng cứ khi chỉ mới 03 tháng
kể từ ngày thụ lý tức là thời hạn chuẩn bị xét xử lúc này vẫn cịn nên khơng thể u
cầu Tịa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Nếu khơng đồng ý với quyết định trên, bà N có thể làm đơn kháng cáo theo thủ tục
phúc thẩm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo khoản 2 Điều 141
LTTH.
b) Khi vụ án được tiếp tục giải quyết, trước khi có quyết định đưa ra vụ án xét xử,
Chủ tịch UBND huyện T đã ra quyết định hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành
chính. Tồ án sẽ xử lý như thế nào trong trường hợp trên.

Căn cứ theo điểm e khoản 1 Điều 143 Luật TTHC 2015 nếu người bị kiện hủy bỏ
quyết định hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện đồng ý rút đơn khởi kiện thì
Tịa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Ở đây, Chủ tịch UBND huyện T là người có thẩm quyền đã ban hành quyết định xử
phạt VPHC về hành vi xây dựng nhà trái phép của bà N và bị bà N khởi kiện VAHC
về quyết định này. Tuy nhiên trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Chủ tịch UBND huyện


T đã ra quyết định hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên. Trong trường
hợp này, nếu bà N đồng ý rút đơn khởi kiện thì Tịa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án hành chính theo điểm e khoản 1 Điều 143. Nếu bà N khơng đồng ý rút
đơn khởi kiện thì Tịa án sẽ không chấp nhận quyết định hủy bỏ quyết định xử phạt
vi phạm hành chính của Chủ tịch UBND huyện T (do quyết định này được đưa ra
trong thời gian vụ án đang được giải quyết), đồng thời chuẩn bị thủ tục, ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử.




×