Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Sự cần thiết khách quan và tác dụng của phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam? Liên hệ thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.42 KB, 10 trang )

PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Họ và tên học viên: ………………………..
Đơn vị công tác: ………………………………….
Lớp: ……………..
Số thứ tự: ………………………….
CÂU HỎI:
Câu 2: Sự cần thiết khách quan và tác dụng của phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam? Liên hệ thực tiễn.
1. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh
tế hàng hố. Hay cịn nói, kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế
thị trường, trong đó tồn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông
qua thị trường. Điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá cũng như các trình độ
phát triển của nó do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Kinh tế hàng hố phát
triển ở hai trình độ khác nhau:
-

Ở giai đoạn thấp, cịn gọi là kinh tế hàng hố giản đơn, dựa trên sở hữu tư
nhân nhỏ về tư liệu sản xuất, kết hợp với sức lao động cá nhân, trình độ lao
động thấp, năng suất lao động khơng cao.

-

Giai đoạn cao, kinh tế hàng hoá phát triển với qui mô lớn dựa trên cơ sở sản
xuất lớn bằng máy móc, năng suất lao động cao, bao gồm kinh tế hàng hoá
tư bản chủ nghĩa và kinh tế hàng hố xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hàng hố qui
mơ lớn vận động theo yêu cầu các qui luật kinh tế khách quan trên thị


trường người ta gọi là nền kinh tế thị trường.

Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và
bản chất nhưng không đồng nhất với nhau. Chúng khác nhau về trình độ phát triển.
Cơ sở của thị trường là sự phân cơng lao động xã hội, trình độ và qui mơ thị
trường gắn liền với trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất và sức
mua của xã hội. Theo Mác, “thị trường nghĩa là lĩnh vực trao đổi”. Lê Nin cho rằng:
“khái niệm thị trường hồn tồn khơng thể tách rời khái niệm phân công lao động xã
hội… Hễ ở đâu và khi nào có phân cơng xã hội và sản xuất hàng hố thì ở đó và khi
ấy có thị trường. Qui mơ của thị trường gắn chặt với trình độ chun mơn hố”.
1


Vai trò, tác dụng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, với những điều kiện khách quan vốn có của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
còn mang lại nhưng tác dụng to lớn đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam. Nền kinh tế
nước ta từ khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội cịn mang nặng tính tự túc
tự cấp. Vì vậy, sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá dần kinh tế tự nhiên và chuyển
thành kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất. Biểu hiện:
-

Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản suất phát triển. Do
cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất
phải cải tiến kĩ thuật để giảm chi phí sản xuất tới mức tối thiểu, nhờ đó có
thể cạnh tranh và đứng vững trong cạnh tranh. Q trình đó thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.

-


Kinh tế hàng hố kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế,
kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối
lượng hàng hố và dịch vụ.

-

Phân cơng lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng
hố. Đến lượt nó, sự phát triển kinh tế hàng hóa sẽ thúc đẩy sự phân cơng
lao động xã hội và chun mơn hố sản xuất. Vì thế, phát huy được tiềm
năng, lơi thế của từng vùng cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở
rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.

-

Sự phát triển kinh tế hàng hố sẽ thúc đẩy q trình tích tụ, tập trung sản
xuất. Do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có tính xã hội hố cao,
đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành
đội ngũ cán bộ quản lí có trình độ, lao động lành nghề, đáp ứng yêu cầu của
đất nước.

Ngày nay, khơng ai phủ nhận vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng của kinh tế thị
trường trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản xuất xã
hội. Không ai phủ nhận sự khách quan của chúng trong nhiều chế độ khác nhau.
Không còn ai cho rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.
Trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Sản
xuất hàng hố khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền
văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là tất yếu kinh tế đối với nước ta. Một
nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế

hiện đại, hội nhập vào sự phân cơng lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để
phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế,
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Mơ hình
kinh tế của Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
2


động theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, chúng ta đã khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được
vốn, kĩ thuật, công nghệ nước ngồi, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần
quyết định vào việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời
gian qua.
2. Liên hệ thực tiễn của việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định đất nước đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực,
vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay, trong đó có những đánh giá khách quan, khoa
học thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nổi bật là những thành tựu: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của
nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô
và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Nhận thức về
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hồn thiện phù hợp vối yêu cầu xây dựng
nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại
thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Nhiều

rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện
rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động. Doanh nghiệp
nhà nước từng bưóc được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày
càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập thể từng bước
đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh,
là bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta... Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển
sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, ký kết nhiều hiệp định thương mại
song phương, đa phương thế hệ mới; xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngồi
tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước”.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Đại hội XIII của Đảng cũng
khách quan, thẳng thắn chỉ ra một số hạn chế, khuyết điểm:
-

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng
mắc, bất cập;

-

Nhiều doanh nghiệp nhà nước chậm thực hiện cơ cấu lại và đổi mới cơ chế
quản trị;

-

Phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mơ nhỏ, trình độ cơng nghệ thấp,
năng lực tài chính và quản trị yếu;
3


-


Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cơng nghệ trung bình, gia
cơng, lắp ráp, thiếu gắn kết, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy doanh nghiệp
trong nước phát triển;

-

Đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác còn chậm, nhiều hợp tác xã chưa làm
tốt vai trò liên kết, hỗ trợ kinh tế hộ;

-

Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hóa, dịch vụ cơng còn
lúng túng; một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại
chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu
quả, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất;

-

Hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả có mặt chưa cao…

Những hạn chế, bất cập này được Đảng xác định cần kiên quyết khắc phục và
giải quyết trong thời gian tới.
Về dự báo bối cảnh, tình hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thời gian tới, Văn kiện Đại hội XIII cũng đã chú trọng phân tích,
cập nhật những vấn đề mới, biểu hiện mới, xu hướng mới, yêu cầu mới, thuận lợi và
khó khăn, thời cơ và thách thức đặt ra đối với đất nước trong bối cảnh cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư phát triển nhanh, sâu rộng; tình hình thế giới, khu vực thay đổi
nhanh, có nhiều đột biến, đặc biệt là sự tác động toàn diện, mạnh mẽ của khủng hoảng,
suy thoái nghiêm trọng kinh tế thế giới, của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, già hóa
dân số, ơ nhiễm mơi trường… trước mắt là đại dịch Covid-19.

Tính đặc thù và định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thống nhất
và nêu rõ: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng
quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị
trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh
tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu” dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân
là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi ngày càng được khuyến
khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội”.
Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam như trên
là sự kế thừa và phát triển nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa qua các Đại hội Đảng từ khi đổi mới đến nay, chủ yếu là 10 năm từ Đại hội XI
và thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam.
4


Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa, nhưng chưa hoàn toàn là nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa. Bởi vì, chúng ta cịn đang trong thời kì q độ đi lên chủ nghĩa xã hội, cịn có
sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có, vừa chưa đầy đủ yếu tố xã hội
chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một mặt
vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, do dựa trên cơ sở
và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, cho nên,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những đặc trưng bản chất

và định hướng phát triển dưới đây:
Một là, mục tiêu phát triển kinh tế thị trường là giải phóng sức sản xuất,
động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh
tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân
Trong nhiều đặc tính có thể làm tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường
nước ta với nền kinh tế thị trường khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh
tế xã hội mà nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vân
động phát triển nền kinh tế.
Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức
sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả
kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Nước ta thực hiện tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống
nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm
giàu hợp pháp, gắn liền với xố đói giảm nghèo.
Nước ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản xây dựng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Vì vậy mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống
nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
Hai là, nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trị chủ đạo.
Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính ngun tắc
và là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo
trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở
kinh tế tương ứng của nó. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho
chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trên cơ sở phát triển nhận thức lý luận về các thành phần kinh tế trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác
5


định rõ, đầy đủ hơn vị trí, vai trị của các thành phần kinh tế, chú trọng việc gắn kết
giữa các thành phần kinh tế trong chỉnh thể nền kinh tế: Kinh tế nhà nước là công cụ,
lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết
dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị
trường.
Đây là chức năng quan trọng của kinh tế nhà nước, đồng thời cũng là điểm đặc
trưng khác biệt, tiến bộ của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có phạm vi hoạt động rộng
lớn, với vai trị cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh
doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả
sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã,
hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã. Kinh tế tư nhân là một trong những động
lực quan trọng của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh
vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các cơng ty, tập đồn kinh
tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi là bộ phận
quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trị lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công
nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Mỗi thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội có bản chất
kinh tế - xã hội riêng, chịu sự tác động của các qui luật kinh tế riêng, nên bên cạnh sự
thống nhất cịn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường nước
ta có khả năng phát triển theo những hướng khác nhau. Chúng ta xác định, ngoài việc
củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ cơng hữu, chúng ta cịn
phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu phát triển để hình
thành nền kinh tế thị trường rộng lớn. Các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần đều
bình đẳng với nhau trước pháp luật, vừa hợp tác vừa cạnh tranh nhau để phát triển.

Tuy nhiên, vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên chúng khơng tránh khỏi
tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm
tổn hại đến lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, kinh tế nhà nước phải được xây dựng và
phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trị của mình.
Ba là, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
nhiều hình thức phân phối theo thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là
chủ yếu.
Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do
quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có
nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại. Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc phân phối tương
ứng với nó, vì thế trong thời kì q độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối
theo thu nhập
Trong cơ chế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối theo thu nhập
sau: phân phối theo lao động, theo nguồn vốn, theo giá trị sức lao động, phân phối
thông qua các quĩ phúc lợi xã hội. Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định
6


hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ
công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Đây là đặc trưng bản chất của kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của
chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối
chủ yếu trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nếu ở Đại hội XII, việc hoàn thiện thể chế nhằm “nâng cao hiệu lực” quản lý
kinh tế và quản lý nhà nước về kinh tế, thì Đại hội XIII nhấn mạnh mục đích xây dựng
“thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội
nhập” và “tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh”.
Ngoài ra, việc hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa Việt Nam được tập trung vào những tháo gỡ những điểm nghẽn, những vấn
đề quan trọng đang cản trở sự phát triển đất nước như nâng cao chất lượng, hiệu quả
quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch...
Đồng thời, trước yêu cầu phát triển mới, đặc biệt tác động của cuộc cách mạng lần thứ
tư nhiều ngành nghề mới ra đời cần phải có mơi trường pháp lý đảm bảo cho sự phát
triển. Văn kiện Đại hội nêu rõ: “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi
thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số;
hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mơ hình kinh doanh
mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh
tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường
kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các
cấp, các ngành”. Những điểm mới này là một cách tiếp cận vấn đề rất thực tế, một
phương hướng hợp lý, tích cực nhằm phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhanh và bền
vững.
Bốn là, cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lí của
nhà nước xã hội chủ nghĩa, giải quyết hài hòa mối quan hệ Nhà nước, thị trường
và xã hội trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Cơ chế thị trường có nhiều mặt tích cực nhưng cũng có khơng ít những mặt
khuyết tật. Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên
thế giới đều có sự quản lí của nhà nước để nhằm hạn chế những mặt khuyết tật đó. Tức
là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản
lí của nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của ta là ở
chỗ Nhà nước quản lí nền kinh tế khơng phải là nhà nước tư sản, mà là nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Sự quản lí của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm đưa nền kinh tế đi theo
đúng hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy phải tăng cường vai trị quản lí của nhà nước
thơng qua các cơng cụ quản lí vĩ mơ.
Nhà nước quản lí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Đây là hai phương tiện khác nhau để điều
tiết nền kinh tế. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lí đối với nền

7


kinh tế, còn cơ chế thị trường là sự tự điều tiết của bản thân nền kinh tế. Kế hoạch và
thị trường cần được kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, được thực hiện ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. Thị trường là
căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch phát triển kinh tế. Những mục tiêu và
biện pháp mà kế hoạch nêu ra muốn được thực hiện có hiệu quả phải xuất phát từ yêu
cầu của thị trường. Mặt khác, muốn cho thị trường hoạt động phù hợp với định hướng
xã hội chủ nghĩa thì nó phải được hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch.
Mục tiêu trong thời gian tới là phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường,
các loại thị trường. Điểm mới ở đây là khẳng định thực hiện nhất quán cơ chế giá thị
trường đối với hàng hóa dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản.
Trong những năm qua, cơ chế thị trường của chúng ta còn lúng túng, nhất là xác
định giá cả đối với các dịch vụ, nhất là dịch vụ công. Văn kiện Đại hội XIII xác định
cần nhất quán thực hiện giá thị trường, phân biệt rõ phúc lợi, ưu đãi hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Đồng thời, tiếp tục nhấn mạnh phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để
thị trường đóng vai trị quyết định trong huy động, phân bổ và sử sung các nguồn lực.
Cụ thể phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo các phương thức tổ chức giao dịch
văn minh, hiện đại, thương mại điện tử. Phát triển thị trường khoa học và cơng nghệ,
phát triển đồng bộ thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo
hiểm…trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng công nghệ và phương thức giao
dịch hiện đại. Phát triển và quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản; thị trường sử
dụng đất. Phát triển thị trường lao động, cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã
hội. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp tham gia hình thành và
điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường. Xử lý tốt những bất cập của cơ chế thị trường,
bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, quốc phòng an ninh và bảo vệ môi trường sinh
thái.
Về mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội trong vận hành nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điểm mới nổi bật chính là trong mối

quan hệ này bổ sung thêm nhân tố xã hội so với nhận thức trong các Đại hội trước đó.
Trong đó, nêu rõ vai trò, chức năng của nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan
hệ chung. Nội dung xã hội được hiện ở chỗ hỗ trợ, bổ sung, khắc phục các khiếm
khuyết cho các yếu tố nhà nước, thị trường nhằm tạo cơ chế vận hành hoàn chỉnh,
đồng bộ nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà nước xây
dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh
tế vĩ mơ, các cân đốì lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh
bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định
hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã
hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sổng nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc
phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà
8


nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trưịng. Thị trường đóng vai
trị quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ
hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh
nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội có vai trị tạo sự
liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên;
đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác
khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của
các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính
sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong
việc thực thi pháp luật”
Năm là, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền
kinh tế thị trường hiện đại, độc lập tự chủ, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế
Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng khép kín trước đổi
mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điều kiện
tồn cầu hố nền kinh tế.
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, mở cửa kinh tế, hội
nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta nhằm thu hút vốn, khoa
học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và
thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và
phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hố các hình thúc đối ngoại, gắn thị trường
trong nước với thị trường trong nước và thế giới, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ
quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Sự hiện đại, hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được kế thừa, phát triển từ Đại hội XII và được thể hiện ở nhiều nội dung, tiêu
chí khác nhau như sự hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế của thể chế, pháp luật, cơ
chế, chính sách; sự hiện đại của quản trị quốc gia; sự đồng bộ, gắn kết với thị trường
khu vực và thế giới của hệ thống các loại thị trường, yếu tố thị trường trong nền kinh
tế…
Trong thời gian tới, vẫn tiếp tục mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
kinh tế đối ngoại. Phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng
điểm của kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường thế giới, mở
rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ cơ hội để mở ra thị trường mới,
cải thiện môi trường đầu tư và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư của nước
ngoài.
Đồng thời, nước ta cũng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; nâng cao hiệu
quả hội nhập kinh tế quốc tế. Văn kiện Đại hội XIII xác định rõ: “Giữ vững độc lập tự
chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối chiến lược phát triển kinh tế đất nước;
Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước;
giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường
9



tiềm lực kinh tế quốc gia. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh
lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh
tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hồn thiện hệ
thống phịng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp
với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ
trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết. Tăng cường bồi dưỡng đào tạo cán bộ am hiểu sâu về luật pháp
quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế,
trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh
chấp quốc tế”.

10



×