Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

Tính độc lập Của Luật sư - Nguyễn Thúy Hoàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.77 KB, 2 trang )

III. Đặc trưng “Bất khả kiêm nhiệm” của nghề luật được phản ánh qua tính Độc lập trong
Tư pháp (Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư)
Bộ máy Nhà nước nói chung và các cơ quan Tư pháp nói riêng đều có một hệ thống các quy tắc
và luật định cho từng chức danh, để nhằm mục đích các chức năng được thực hiện tốt nhất thì
tính độc lập trong mỗi chức danh là điều kiện bắt buộc để các chức danh khơng thể kiêm nhiệm
vai trị của nhau mà từ đó có thể làm tốt vai trị của từng vị trí.
1. Tính độc lập của Thấm phán
2. Tính độc lập cảu Kiểm sát viên
3. Tính độc lập của Luật Sư
“Mọi sự việc xảy ra trong xã hội đều được cô đọng trong vài điều luật và việc giải quyết những
mâu thuẫn các quan hệ trong xã hội cũng được cô đọng trong một số điều luật”. Tư duy của một
luật sư không chỉ dực trên những điều luật cố hữu mà là một tư duy có tính sáng tạo và cần được
sáng tạo nhằm phù hợp với sự tiến triển nhiều mặt của xã hội. Sự tư duy đó chỉ có thể nảy sinh,
phát triển và được tơn trọng trong một môi trường làm việc độc lập.
Tinh thần độc lập của Luật sư có thể được nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau. Trước hết là độc
lập đối khách hàng, sau nữa là độc lập với các cơ quan tiến hành tố tụng và nhằm bổ sung cho
hai độc lập trên là độc lập ngay đối với đồng nghiệp. Nếu khi hành nghề mỗi khi Luật sư xem,
tơn trọng, có được cũng như bảo vệ được tinh thần độc lập thì khách hàng sẽ nhận được sự bảo
đảm về quyền được hưởng dịch vụ pháp lý từ Luật sư một cách khách quan mà khơng xuất phát
từ lợi ích cá nhân của Luật sư hay bởi một áp lực nào đến từ bên ngoài để làm trái pháp luật.
Căn cứ vào một trong những nguyên tắc hành nghề Luật sư tại Luật luật sư 2015 và xếp vào
Quy tắc 2 của Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư chỉ sau Quy tắc 1 về sứ mệnh của
Luật sư – Bảo vệ công lý và nhà nước pháp quyền. QĐ số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019.
3.1 Tính độc lập đối với khách hàng: Quyền tự do thiết lập giao dịch
Trái với những ngành nghề khác, Luật sư không tạo ra một sản phẩm cụ thể mà luật sư chỉ cung
ứng các dịch vụ hay những sản phẩm trí tuệ cho khách hàng. Tùy tính chất của dịch vụ, tùy uy
tín của Luật sư và tùy khả năng của khách hàng, Luật sư sẽ được khách hàng chi trả một khoản
thù lao để đổi lại dịch vụ mà Luật sư sẽ cung cấp. được khách hàng chi trả vì là người đại diện và
bảo vệ cho lợi ích hợp pháp của khách hàng cũng như lợi ích chung của xã hội. Muốn được như
vậy Luật sư phải có tính độc lập đồng thời duy trì được tính độc lập trước hết đối với khách hàng
là quyền được tự do quyết định cung cấp hay không cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng


nhưng cũng như tất cả mọi quyền dân sự khác Luật sư cũng không thể lạm dụng quyền tự do kết
ước này.
Một khía cạnh khác của tính độc lập khi hành nghề Luật sư là Luật sư được tồn quyền chọn cho
mình phương thức cũng như các luận cứ bào chữa hay bảo vệ quyền lợi cho khách hàng gần như
một cách tuyệt đối mà khơng có sự can thiệp của khách hàng. Luật sư có quyền từ chối lời yêu
cầu của khách hàng để không đưa nội dung bào chữa hay phát biểu trước Tòa. Trong trường hợp
cần thiết Luật sư chỉ có thể thơng báo cho khách hàng biết hướng giải quyết vụ án/vụ kiện hoặc
sẽ thuyết phục khách hàng phải chấp nhận quan điểm của mình nhằm giải quyết vụ việc phù hợp
với luật pháp. Nếu khách hàng vẫn không đồng ý Luật sư có quyền từ chối việc cung cấp dịch
vụ.
 Có thể nói, đối với khách hàng Luật sư có tính độc lập từ chính quyền tự do thiết lập
giao dịch.


Trong khi đối với Thẩm phán – nhân danh Nhà nước để phán quyết sinh mệnh Pháp lý
của một chủ thể hồn tồn dựa trên tính độc lập của Thẩm phán từ các quy định chế tài
pháp lý. Sự tác động này trái ngược hồn tồn với tính tự do thiết lập giao dịch với khách
hàng như cảu Luật sư. Hay đối với Kiểm sát viên – thay mặt cho cơ quan Nhà nước tiến
hành tham gia tố tụng, sự tác động của Kiểm sát viên tới các bị can, bị cáo cũng xuất phát
từ những yêu cầu – chấp hành của mối quan hệ nhà nước – công dân/tổ chức, nó cũng
khơng phải là những giao dịch mang tính tự do như Luật sư.
Chính vì lẽ đó Thẩm phán hay Kiểm sát viên không thể đồng thời kiêm nhiệm vai trò của một
Luật sư khi tác động tới những chủ thể là cơng dân/ tổ chức có liên quan trong tố tụng.
3.2 Tính độc lập đối với cơ quan tiến hành tố tụng
Một bản án được tuyên dù là hình sự hay dân sự nó ảnh hưởng trực tiếp đến các người tham gia
tố tụng; gián tiếp đến thân nhân của họ nhưng lại có tác động đến tâm lý của nhiều người trong
xã hội. Luật sư chỉ có thể góp phần vào việc hồn thiện để Tịa án đưa ra một bản án công bằng,
hợp lý nhằm phù hợp với các quy định của luật pháp nếu Luật sư giữ được tinh thần độc lập
trước các cơ quan và người tiến hành tố tụng. Góp phần tạo nên một bản án công bằng và đúng
luật là chung sức tạo nên một xã hội văn minh là gián tiếp bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Nhưng để có thể đưa ra một bản án công bằng và đúng luật thì tất cả các quan hệ nhất là quan hệ
giữa Luật sư với những cơ quan, những người tiến hành tố tụng là Thẩm Phán, Kiểm Sát viên
phải được thiết lập trên mối quan hệ công, tức mọi sự việc đều được giải quyết trên cơ sở quy
định của luật.

 Chính vì vậy Luật sư hay Kiểm sát viên không thể kiêm nhiệm Thẩm phán để đưa ra một
bản án. Để bản án đảm bảo được tính khách quan trước pháp luật và trước những người
tham gia tố tụng.
 Luật sư độc lập khơng thể kiêm nhiệm vị trí Thẩm phán cịn là hành động Tơn trọng thể
chế, tơn trọng tính Cơng bằng trong pháp luật cũng như tính khách quan trước mọi quyết
định của bản án áp dụng lên thân chủ của mình. Đảm bảo được hành vi hành nghề của
chính Luất sư.
Luật sư độc lập trong hoạt động hành nghề khơng có nghĩa là tự tách hoạt động của mình ra
khn khổ của các hoạt động tố tụng khác.Tính độc lập nói trên khơng thể đồng nghĩa với sự cơ
lập, tự tách mình ra, coi mình là tuyệt đối, mà nó cần hịa quyện trong trật tự của một nền pháp
chế thống nhất.Có như vậy Luật sư sẽ đảm bảo được tính độc lập trong hành nghề mà vẫn giữ
được sự tôn trọng từ các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng. để bảo đảm được sự độc lập
của mình, người luật sư phải tuân thủ các quy tắc trong quan hệ với cơ quan tố tụng; ví dụ khơng
được cung cấp thơng tin, tài liệu, chứng cứ mà biết rõ không xác thực và đi xa hơn nữa khơng
được móc nối, lơi kéo cán bộ làm việc trái quy định của pháp luật…Luật sư có thể trao đổi ý kiến
về nghiệp vụ với người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết án nếu xét thấy cần thiết và
có lợi cho khách hàng. Từ đó có thể thấy, Luật sư khơng thể kiêm nhiệm vị trí Kiểm Sát viên hay
Thẩm phán.
Như vậy, Luật sư phải giữ tính độc lập, khơng bị chi phối hoặc lệ thuộc vào ý kiến khác làm ảnh
hưởng tới xây dựng quan điểm, phương án bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng.
Khẳng định bản chất mối quan hệ giữa Luật sư với các cơ quan và người tiến hành tố tụng –
Thảm phán , Kiểm sát viên thực chất là mối quan hệ có tính phản biện, tác động hổ tương lẫn
nhau và khơng thể kiêm nhiệm vì nói cho cùng sự độc lập của Luật sư khi hành nghề sẽ góp
phần tạo nên nguồn gốc của phép ứng xử tôn trọng lẫn nhau giữa Luật sư, khách hàng và các cơ
quan, người tiến hành tố tụng.




×