SÁCH LƯỢC CỦA ĐẢNG VÀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
ĐỐI VỚI QUÂN ĐỘI TRUNG HOA CỘNG HÒA DÂN QUỐC
(1945 - 1946)
ĐỀ CƯƠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, xu thế chung mà các quốc gia trên thế giới hướng tới là sự hịa
bình, hợp tác và phát triển. Các quốc gia ngày càng có nhiều mối quan hệ về
kinh tế, chính trị, xã hội...Để những mối quan hệ này trở nên tốt đẹp, bền vững,
một quốc gia cần có quan hệ ngoại giao tốt với các quốc gia khác trong khu vực
và trên thế giới.
Việt Nam, sau 20 năm đổi mới, đang có lợi thế rất lớn là tình hình chính
trị, xã hội cơ bản ổn định nhưng chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều
thách thức rất lớn, trong đó đặc biệt phải nhắc tới là thách thức đến từ người
láng giềng Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc vốn là hai nước “núi liền núi,
sông liền sông”, trong hàng ngàn năm lịch sử Việt Nam luôn phải đối mặt với
sự xâm lược của Trung Quốc. Vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ hai quần
đảo Trường Sa và Hoàng Sa đã diễn ra giữa hai nước hàng chục năm nay nhưng
trở nên đặc biệt căng thẳng trong thời gian gần đây. Sau một loạt các hành động
khiêu khích như cắt cáp tàu thăm dị dầu khí Bình Minh của ta, xua đuổi, thậm
chí bắn chết ngư dân Việt Nam trên vùng biển Việt Nam, thì việc hạ đặt trái
phép giàn khoan Haiyang Shiyou 981 ở vùng đặc quyền kinh tế trong thềm lục
địa của Việt Nam là bước đi tiếp theo nhằm thực hiện ý đồ độc chiếm Biển
Đông của Trung Quốc. Đây là một hành vi hết sức nguy hiểm, làm phương hại
an ninh khu vực và thế giới. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trở nên hết sức
căng thẳng. Đây là một thách thức vô cùng lớn đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta:
Làm thế nào để giữ vững độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ; đồng thời
giữ vững mơi trường hịa bình để phát triển đất nước.
Nhìn lại q khứ để có câu trả lời cho hiện tại, tìm hiểu về chính sách đối
ngoại của Việt Nam giúp ta hiểu rõ về hoạt động ngoại giao của nước nhà. Từ
đó, ta rút ra được những kinh nghiệm quý báu để vận dụng sáng tạo góp phần
phát triển đất nước trong tình hình hiện nay.
1
Giai đoạn 1945 – 1946 là thời điểm nước Việt Nam dân chủ cộng hịa
mới được hình thành. Đây là thời điểm, tình hình trong nước và quốc tế diễn
biến rất phức tạp, chúng ta phải đối mặt với vô vàn khó khăn, tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”, khi phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng lúc trong đó có quân
đội Trung Hoa Dân quốc. Ngoại giao Việt Nam lúc này phải phát huy hết khả
năng để giữ vững thành quả của cách mạng tháng Tám, đưa cách mạng nước ta
phát triển mạnh mẽ.
Vì những lý do trên đây, người viết xin được chọn đề tài: Sách lược của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quân đội Trung Hoa Cộng hịa dân
quốc (1945 – 1946.)
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đề tài đã và đang được nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu, khảo sát ở nhiều góc độ khác nhau như:
- Nguyễn Kiến Giang (1961): “Việt Nam năm đầu tiên sau cách mạng tháng
Tám (Tháng Tám 1945- Tháng Chạp 1946)”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
- Lưu Văn Lợi (1996): “Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam(1945- 1946)”,
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
- Nguyễn Phúc Luân (2001):“ Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp
giành độc lập, tự do (1945- 1975)”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
- Nguyễn Mạnh Hà: “Bàn thêm về ứng xử của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đối với Trung Hoa Dân Quốc những năm 1945- 1946”, tạp chí Lịch sử quân sự,
số 277 - 2015, trang 67 - 72.
- Nguyễn Dy Niên (2008) – “ Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh”, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Vũ Dương Huân (2001) – “ Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về
ngoại giao”, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội...
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên là cơ sở quan trọng, là nguồn tài liệu
tham khảo có giá trị để tơi kế thừa và phát triển nội dung nghiên cứu trong khi thực
hiện khóa luận tốt nghiệp. Tuy nhiên, đây là một chủ đề cần tiếp tục nghiên cứu,
khảo sát, thu thập và hệ thống tài liệu để bổ sung vào kho tàng tư liệu về hoạt động
2
ngoại giao của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là trong ngoại giao với quân
đội Tưởng ở miền Bắc (trước 6/3/1946) để góp phần làm sáng tỏ sự sáng tạo trong
chủ trượng, sách lược và nghệ thuật ngoại giao của Đảng nhằm triệt để lợi dụng
mâu thuẫn kẻ thù tranh thủ điều kiện có lợi nhất cho cách mạng, giữ vững ddowcj
thành quả cách mạng tháng Tám.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ chủ trương và hoạt động ngoại giao của Đảng và Hồ Chủ tịch đối
với quân đội Tưởng Giới Thạch trong giai đoạn 1945-1946 và rút ra bài học
kinh nghiệm vận dụng cho thời kì hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày tình thế hiểm nghèo của nước ta sau cách mạng tháng
Tám(1945), bắt buộc phải nhân nhượng đối với kẻ thù.
- Trình bày đường lối chiến lược cách mạng đúng đắn, sách lược linh
hoạt, nghệ thuật ngoại giao tài giỏi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với
quân đội Tưởng ở miền Bắc (trước 6/3/1946).
- Bài học kinh ngiệm, ý nghĩa trong thực tiễn ngoại giao hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của khóa luận
4.1. Đối tượng: Sách lược ngoại giao của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Sách lược ngoại giao của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đối với quân đội Trung Hoa Dân Quốc giai đoạn 1945- 1946.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác Lê nin, quan điểm của
Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; về mối
quan hệ chiến lược, sách lược cách mạng; về tư tưởng thêm bạn bớt thù, tranh
thủ điều kiện thuận lợi bên ngoài, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù,
từng bước thốt khỏi tình thế khó khăn giữ vững thành quả cách mạng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích tài liệu: phân tích các nguồn tài liệu qua các cơng trình
nghiên cứu về ngoại giao Việt Nam 1945- 1946.
3
- Phương pháp lơgic-lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh,
tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa thực tiễn của khóa luận
Góp phần bổ sung tài liệu, hệ thống tư liệu về sách lược của Đảng và chủ
tịch Hồ Chí Minh với quân đội Trung Hoa Dân quốc trong giai đoạn lịch sử
1945- 1946, để từ đó thấy được đường lối chiến lược cách mạng đúng đắn, sách
lược linh hoạt, nghệ thuật ngoại giao tài giỏi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh với quân đội Tưởng ở miền Bắc (trước 6/3/1946) ; đồng thời kết quả
nghiên cứu luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến
sách lược ngoại giao của Đảng ta với quân đội Tưởng năm 1945-1946, phục vụ
giảng dạy cho bộ môn Đường lối cách mạng Việt Nam.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết ḷn, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
khóa luận gồm 02 chương, 06 tiết.
Chương I. Hoàn cảnh lịch sử 1945 -1946 và âm mưu của quân đội Trung
Hoa Dân Quốc.
1 Hoàn cảnh lịch sử 1945 -1946.
1.1. Hoàn cảnh thế giới.
1.2. Hoàn cảnh trong nước.
2 Âm mưu của quân đội Trung Hoa Dân Quốc.
Chương II. Sách lược của Đảng và Hồ Chủ tịch đối với quân đội Trung
Hoa Dân quốc giai đoạn 1945-1946.
1. Chủ trương của Đảng và Hồ Chủ tịch.
2. Các biện pháp thi hành chủ trương của Đảng.
2.1. Biểu dương lực lượng.
2.2. Lợi dụng mâu thuẫn tránh xung đột.
2.3. Nhân nhượng có nguyên tắc.
3. Kết quả.
4. Bài học kinh nghiệm.
4
NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh lịch sử 1945-1946 và âm mưu của quân đội Trung Hoa
Dân Quốc.
1. Hoàn cảnh lịch sử 1945 - 1946
1.1. Hoàn cảnh thế giới.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Tình hình thế giới có nhiều thay
đổi với nhịp độ cực kỳ nhanh chóng. Các nước lớn điều chỉnh chính sách đối
ngoại của mình. Ở phe Đồng Minh, quan hệ giữa các nước lớn dần chuyển từ
hợp tác trong chiến tranh sang đối đầu trong hòa bình. Trật tự thế giới thay đổi,
hình thành hệ thống hai cực, đứng đầu là Mỹ và Liên Xô.
Nước Mỹ sau chiến tranh, đặc biệt là sau khi tổng thống Truman lên cầm
quyền (T4-1945), dựa vào vị trí là quốc gia mạnh nhất về kinh tế, tài chính,
quân sự, độc quyền về vũ khí nguyên tử, chủ nợ chính của phần lớn các quốc
gia Âu, Á, Mỹ Latinh trong thời chiến, mưu đồ làm bá chủ thế giới. Để thực
hiện mục tiêu chiến lược làm bá chủ thế giới của mình, hoạt động ngoại giao
của Mỹ bắt đầu hướng vào chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới,
chống những diễn biến tích cực của phong trào giải phóng thuộc địa nhằm thoát
khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân,
Liên Xô sau chiến tranh, trở thành cường quốc hàng đầu Châu Âu. Tuy
còn thua kém Mỹ về tiềm lực kinh tế và vũ khí hạt nhân nhưng Liên Xơ vẫn
đóng một vai trị quyết định cùng Mỹ giải quyết những vấn đề lớn về hịa bình,
an ninh trong khu vực và trên thế giới.
Tại thời điểm này, các nước lớn trong phe Đồng Minh cũng ra sức củng
cố lại hệ thống thuộc địa. Anh và Pháp là hai cường quốc thắng trận nhưng
trong thế suy yếu, chính trị khơng ổn định nên cần phải nhanh chóng khơi phục
lại nền kinh tế, ổn định chính trị và duy trì vai trò cường quốc sau chiến tranh.
5
Để làm được như vậy, Anh và Pháp phải bảo vệ được hệ thống thuộc địa và khu
vực ảnh hưởng của mình.
Trong khi đó ở Châu Á và Châu Phi, phong trào đấu tranh chống chiến
tranh xâm lược và sự thống trị, đô hộ của thực dân phương Tây trở nên vô cùng
mạnh mẽ. Các cuộc đấu tranh ở các nước diễn ra dưới nhiều hình thức khác
nhau nhưng đều có chung một xu hướng là hướng tới lật độ ách thống trị bên
ngồi, giải phóng đất nước vốn và thuộc địa của đế quốc, thực dân phương Tây.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước này dần lan sang Châu Âu
và lan rộng toàn thế giới.
Như vậy, ta thấy được bối cảnh quốc tế trong những năm 1945 – 1946 có
nhiều diễn biến phức tạp tác động sâu sắc và rộng lớn tới nhiều mối quan hệ
quốc tế và có tác động trực tiếp đến tình hình ở Việt Nam.
1.2. Hồn cảnh trong nước.
Vào thời điểm đỉnh cao của cuộc chiến tranh thế giới, năm 1942, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra thời cơ và tiên đốn thời điểm cách mạng nước ta
thành cơng “1945 – Việt Nam độc lập”[7;230]. Người kêu gọi đồng bào cả
nước: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh
được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một
năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh!”[7;505,506].
Cuộc Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo, dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 nǎm để gây dựng
nên nước Việt Nam độc lập Dân, ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế
kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hồ.
Thắng lợi đó đã mở ra kỷ ngun mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam: kỷ
nguyên đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân lao động làm chủ xã hội và
tạo ra những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng nước ta có những thuận lợi lớn. Hệ thống chính quyền cách
mạng được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ hoạt động bí
6
mật, Đảng ta đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng, Mặt trận Việt
Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh có uy tín lớn trong dân tộc, chính quyền cách
mạng được toàn dân ủng hộ. Phong trào cách mạng tinh thần yêu nước của nhân
dân dấy lên từ cao trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tiếp tục phát triển
với những hình thức và nội dung mới nhằm xây dựng, bảo vệ chính quyền, giữ
vững thành quả cách mạng.
Bên cạnh những thuận lợi, những ngày đầu đất nước thành lập, chính
quyền nhân dân phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Đời sống kinh tế - xã hội
đang rối loạn, suy sụp sau chiến tranh. Nền kinh tế nước ta vốn đã nghèo nàn,
lạc hậu lại bị thực dân Pháp và phátxít Nhật vơ vét, bị chiến tranh và thiên tai
tàn phá nên lại càng nghèo hơn. Nǎng suất lúa rất thất (12 tạ/ha). Nông dân lao
động chiếm hơn 95% số hộ nhưng chỉ được sử dụng không quá 40% ruộng đất.
Nạn khan hiếm lương thực triền miên trong thời chiến đã đưa lại hậu quả trong
những năm 1945, có hơn hai triệu người chết đói, hàng triệu người cịn bị nạn
đói đe dọa. Trong phiên họp đầu tiên ngày 3-9-1945 của Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa, chống đói được nêu lên hàng đầu trong 6 nhiệm vụ cấp
bách của Chính phủ.. Hậu quả nạn đói cuối nǎm 1944 đầu nǎm 1945 chưa kịp
khắc phục, thì nạn lụt lớn lại xảy ra, tàn phá 9 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. 50%
ruộng đất bỏ hoang. Báo Sự thật ra ngày 13-4-1946 cho biết hồi đó có tất cả
hơn 100 quãng đê bị vỡ, làm ngập 8 tỉnh Bắc Bộ: Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam,
Vĩnh Yên, Phúc n, Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình. Sau đó nạn hạn hán ghê
gớm làm sụt mất 1/3 số thu hoạch. Lụt lội cũng làm mùa màng thất thu ở các
tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Báo Cứu Quốc số ra ngày 4 và 5 tháng
Giêng năm 1946 cho biết số thóc cho vụ mùa 1945 chỉ “đủ ni 8 triệu người
trong 3 tháng. Đợi đến vụ chiêm 1946 dân sẽ bị đói 4 tháng. Nghĩa là cịn thiếu
850.000 tấn thóc”. Sau vụ chiêm 1946, có thóc mới, đời sống nhân dân bớt khó
khăn, giá gạo hạ xuống. Nhưng lúc này, bọn nhà buôn Pháp và quân đội Tưởng
tung tiền ra vét gạo hịng gây khó khăn cho chính quyền nhân dân.
7
Về kinh tế, tài chính tình hình cũng vơ cùng nguy ngập. Trước đây nền
kinh tế Đông Dương chủ yếu do thực dân Pháp năm giữ: xi măng, than, xe lửa,
điện, cao su… đều nằm trong tay Pháp. Khi chính quyền nhân dân được thành
lập, trừ một số xí nghiệp thì phần lớn các xí nghiệp đều ngưng hoạt động. Các
nhà công thương Việt Nam chỉ làm chủ những cơ sở nhỏ. Cơng nghiệp chỉ có
khơng q 200 nhà máy nhỏ bé, trang bị cũ kỹ, đang lâm vào đình đốn. Sau
cách mạng tháng Tám, sản xuất thiếu hụt hàng hóa khan hiếm, số người thất
nghiệp tăng, tình hình tài chính nguy ngập. Hệ thống ngân hàng Đơng Dương
vẫn trong tay tư bản Pháp. Khi Chính phủ Lâm thời thành lập, ngân sách Đông
Dương hụt tới 185 triệu đồng và nợ tới 564 triệu đồng, ngân khố trung ương chỉ
còn 1.230.720 đồng trong đó 586.000 đồng là hào nát khơng dùng được. Đồng
bạc Đơng Dương mất giá.Trong khi đó, qn Tưởng cho lưu hành đồng tiền mất
giá của Trung Quốc, tự ý quy định tỷ giá tiền quan kim và tiền Đông Dương,
làm lũng đoạn thị trường ở miền Bắc. Ngân hàng Đông Dương tuyên bố không
tiêu giấy bạc 500 đồng, khơng chịu ứng tiền cho Chính phủ nhân dân nhằm gây
khó khăn ta.
Cùng với giặc đói đe dọa là nạn giặc dốt do chính sách ngu dân của thực
dân Pháp làm cho hơn 90% dân ta mù chữ. Hầu hết số người được đi học chỉ ở
bậc tiểu học và vỡ lịng, trên 3 vạn dân mới có một học sinh cao đẳng hoặc đại
học và chủ yếu học ở ngành luật và ngành thuốc.
Suốt thời kỳ 1930-1945, số cơng chức có trình độ cao đẳng và đại học chỉ
gồm vài trǎm người. Thực tế đó làm cho việc tổ chức, hoạt động của chính
quyền mới gặp khơng ít khó khǎn, lúng túng.
Một thách thức nữa mà nước ta gặp phải - đó là cùng một lúc phải đối
phó với nhiều thế lực quân sự đối địch của các nước lớn đang có mặt tại nước
ta. Ở phía Bắc, gần 20vạn quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa giải giáp
quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra, mang theo các nhóm người Việt sống lưu
vong ở Trung Quốc. Những nhóm người Việt này thuộc các tổ chức Việt Cách,
Việt Quốc do chính quyền Tưởng thu nạp và ni dưỡng từ lâu. Phía Nam Việt
8
Nam lúc này cũng có khoảng 26 nghìn qn Anh - Ấn vào giải giáp quân đội
Nhật.
Tháng 10/1945, Anh đã ký với Pháp hiệp định chính thức cơng nhận
quyền dân sự của Pháp tại Đông Dương. Ngày 1/1/1946, Anh ký hiệp định trao
quyền cho Pháp giải giáp quân đội Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Đổi lại, Pháp
nhân nhượng cho Anh một số quyền lợi ở Xyri và Libăng. Thêm vào đó, trong
khoảng thời gian Nhật Bản chiếm đóng Đơng Dương, Pháp có khoảng 50 nghìn
lính gồm tù binh đang bị Nhật giam giữ và tân binh nằm rải rác ở các miền phụ
cận Đông Dương. Sau chiến tranh, 1500 lính Pháp bị Nhật giam giữ ở miền
Nam Việt Nam trong cuộc đảo chính ngày 9/3/1945 được thả và vũ trang trở lại.
Quân viễn chinh mới của Pháp (CEFEO) được gấp rút đưa trở lại Đông Dương.
Ngày 23/9/1945, nấp sau quân Anh, người Pháp trở lại Việt Nam, bắt đầu đánh
chiếm Sài Gịn rồi từ đó mở rộng chiếm đóng ra Nam Kỳ và Nam Trung Kỳ..
Ngồi ra, cịn khoảng 60 nghìn quân Nhật ở Việt Nam chờ giải giáp lúc này.
Như vậy, bốn thế lực quân sự lớn đang chiếm đóng nước ta (là Nhật,
Anh, Pháp và lực lượng Tưởng Giới Thạch) và bốn trong năm nước lớn là thành
viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đang dính líu vào việc
giải giáp cho Đơng Dương với mục tiêu duy nhất là tìm cách xóa chính quyền
cách mạng, lập lại trật tự của thực dân phương Tây tại đây. Nhìn tổng thể về
kinh tế, tài chính, quân sự, tương quan lực lượng giữa ta và các thế lực thù địch
từ bên ngồi vào có sự chênh lệch rất lớn. Đất nước ta lại rơi vào tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”.
Lúc này, chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cùng
Thường vụ Trung ương Đảng đã sớm thấy khả năng dùng ngoại giao như vũ khí
sắc bén tham gia năng động vào quá trình tự bảo vệ thành quả cách mạng, chia
rẽ, cô lập kẻ thù. Ngoại giao Việt Nam từ những ngày đầu đã chủ động phát huy
thế tiến công chống lại âm mưu, cạm bẫy của kẻ thù, thực thi những nhiệm vụ
to lớn tưởng chừng như khó có thể thực hiện được.
2. Âm mưu quân đội Tưởng Giới Thạch và bè lũ tay sai.
9
Chúng ta biết rằng quân đội Tưởng đã kéo vào miền Bắc Việt Nam với
danh nghĩa thay mặt Đồng minh tước khí giới của quân đội Nhật Bản. Vào cuối
tháng Tám 1945, chúng kéo vào nước ta theo hai ngả: một ngả từ Lào Cai
xuống Hà Nội, một ngả từ Lạng Sơn, Cao Bằng xuống Hà Nội, rồi phân chia
chiếm đóng từ vĩ tuyến 16(Đà Nẵng) trở ra. Tất cả là 20 vạn quân do tướng Lư
Hán làm chỉ huy.
Việc hàng chục vạn quân đội Tưởng kéo vào Việt Nam là gánh nặng cực
kì to lớn với kinh tế- tài chính cho nhân dân ta, nhất là trong lúc nhân dân miền
Bắc phải đối mặt với nạn đói. Hàng đống giấy lộn “quan kim” và “quốc tệ” do
quân Tưởng đưa vào làm lũng đoạn thị trường khiến giá cả tăng vọt. Trong
nhiều trường hợp quân đội Tưởng cũng công khai tiến hành việc cướp bóc nhân
dân ta.
Nhưng điều nguy hiểm nhất là chúng mang theo quân đội và bè lũ tay sai
vào Việt Nam theo kế hoạch “Hoa quân nhập Việt” được tướng Trương Phát
Khê – Tư lệnh đệ tứ khu, chuẩn bị từ đầu những năm 40 với sự hậu thuẫn mạnh
mẽ của Mỹ nhằm dựng lên một chính phủ thân Trùng Khánh. Lư Hán đến Hà
Nội với âm mưu “diệt cộng, cầm Hồ” lật đổ chính quyền nhân dân, đặt một
chính quyền bù nhìn lên thay thế. Như vậy, Trùng Khánh trong lúc phải đối phó
với Cộng sản trong nước, khơng muốn phải đối phó với cộng sản ở giáp biên
giới phía Nam Trung Quốc. Chúng coi Việt Nam như một nước cờ, mưu toan
lợi dụng việc chiếm đóng Bắc Đơng Dương để ép Pháp nhượng cho chúng càng
nhiều quyền lợi về kinh tế, chính trị, đẩy Pháp đối phó với cách mạng Việt Nam
bằng cách đứng “trung lập” trong cuộc xung đột này. Cùng với sự hậu thuẫn
của Mỹ, Tưởng hi vọng từng bước thực hiện mục tiêu của mình.
Bọn tay sai của Tưởng Giới Thạch được tổ chức thành hai chính đảng:
Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội
(Việt Cách) do Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam(tên
này trước đây đã có xu hương thân Nhật) cầm đầu. Bọn này được nuôi dưỡng từ
trước tại Trung Quốc (Việt Nam Quốc dân Đảng do Lư Hán và Long Vân nuôi
10
dưỡng tại Vân Nam, còn Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội do Trương Phát
Khê nuôi dưỡng ở Quảng Đông từ năm 1942-1943). Những tên phản cách mạng
ở hai tổ chức này tuy có thành phần khác nhau, hoặc là những tên lưu manh cơn
đồ, hoặc là những chính khách cơ hội chủ nghĩa, hoặc là những kẻ đào ngũ của
các tổ chức chống Pháp trước kia nhưng bọn chúng đều giống nhau ở một điểm:
xây dựng quyền thống trị trên lưng nhân dân ta bằng cách bán mình cho bọn
xâm lược nước ngoài. Chúng tự xưng là những đảng phái “ u nước”, “cách
mạng” nhưng hồn tồn khơng có một chút uy tín nào với nhân dân.
Quân đội Tưởng Giới Thạch tích cực thực hiện những âm mưu nham
hiểm của chúng.
Ngay khi vừa kéo vào Lạng Sơn, quân Tưởng đã dùng sức mạnh, tước vũ
khí của một số Giải phóng qn của ta. Chính phủ Việt Nam ta đã lập tức kháng
nghị về việc ấy và yêu cầu quân đội Tưởng phải tôn trọng nền độc lập của nước
Việt Nam và khơng được xâm phạm đến chính quyền nhân dân Việt Nam.Thế
nhưng sau đó ở một số thị trấn thuộc Bắc Bộ (Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh
Yên, Bắc Ninh, Quảng Yên,…), chúng vẫn giải giáp các lực lượng vũ trang,
cho bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách lập chính quyền phản cách mạng, chống
lại sự lãnh đạo của Chính phủ trung ương, khống chế quần chúng một cách
nghiêm ngặt. Nơi đó được bọn phản cách mạng coi là “chiến khu” của chúng.
Ngồi ra, qn đội Tưởng cịn ra sức giúp cho bọn phản cách mạng nắm giữ
chính quyền Trung ương. Nhưng đứng trước sức mạnh của nhân dân Việt Nam
và sự tín nhiệm rất cao giành cho Đảng, cho Chủ tịch Hồ Chí Minh của nhân
dân, quân Tưởng thấy rằng khơng thể lật đổ Chính phủ ta ngay lập tức được,
cho nên đã dùng thủ đoạn mưu toan lấn dần.
Chúng bàn mưu mơ ép ta lập chính quyền ba phái có Việt Quốc, Việt
Cách tham gia. Chúng trực tiếp đề ra yêu sách đòi thay đổi thành phần của
chính phủ ta, thậm chí có lần chúng địi Hồ Chủ Tịch phải từ chức để đưa Bảo
Đại lên làm Tổng thống. Ngày 7 tháng 10 năm 1945, Hà Ứng Khâm Tổng tham
mưu trưởng của Tưởng Giới Thạch đã qua Hà Nội cùng với tên tướng Mỹ Mac
11
Lure, nhằm mục đích xúc tiến kế hoạch xâm lược Việt Nam. Một mặt hắn tun
bố “Trung Quốc khơng có ý muốn xâm chiếm Việt Nam”, nhưng mặt khác lại
nói một cách mật mờ rằng “Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam thực hiện quyền độc
lập dần dần, theo chương trình của các cường quốc”. Nghĩa là chúng muốn thực
hiện kế hoạch của Mỹ trước kia, kế hoạch thiết lập chế độ ủy trị quốc tế ở Việt
Nam, mà thực tế đó là sự thống trị của đế quốc Mỹ.
Bên cạnh hành động của quân đội Tưởng, bè lũ tay sai Việt Quốc, Việt
Cách dưới mệnh lệnh của chúng đã tiến hành các hoạt động phá hoại: quấy rối,
khiêu khích, ám sát, bắt cóc, tống tiền, làm cho đời sống nhân dân hỗn loạn.
Chúng biết rõ chính phủ nước ta đang được đơng đảo quần chúng nhân dân tín
nhiệm và ủng hộ, nên chúng muốn làm yếu Chính phủ ta bằng cách chia rẽ nhân
dân. Chúng thành lập ra một mặt trận phản cách mạng- dưới cái tên lừa bịp
“Mặt trận quốc gia chống Pháp”, bao gồm những tay sai cũ của Pháp, Nhật và
bọn địa chủ, tư sản phản động… Chúng ra hàng loạt báo phản cách mạng làm
công cụ chia rẽ nhân dân và nói xấu Đảng, Chính phủ ta như: “Việt Nam”, “Tự
Do”, “Thiết Thực”, “Đồng Tâm”, “Liên Hiệp”, “Phục Quốc”,… Chúng lợi dụng
những khó khăn của Chính phủ để khoét sâu thêm những bất mãn của một số
tầng lớp địa chủ tư sản. Chúng xúi giục “ Tổng hội sinh viên” không tham gia
vào Việt minh và mưu toan năm lấy tổ chức này. Giữa lúc nhân dân ta đang tập
trung ngọn lửa tinh thần chống Pháp, thì chúng gieo rắc những tin tức thất bại
hịng làm hoang mang dân chúng. Quân Tưởng sử dụng những tài liệu của
những tên đào ngũ từ chiến trường miền Nam về để chửi bới cuộc kháng chiến
anh dũng của nhân dân ta, mạt sat chính phủ chúng bảo vệ những tên Việt gian
phản cách mạng với luận điệu “không bao giờ nên bắn vào người Việt Nam”.
Nhưng tất cả âm mưu ấy không lừa dối được nhân dân ta mà càng làm
cho sự căm phẫn của nhân dân với bọn cướp nước ngày càng sâu sắc. Trước
tình hình ấy, Tưởng chấp nhân lui bước, nhưng sự phản động của chúng vẫn
nguyên vẹn bằng chứng là ngay sau khi kí tên vào bản “Tinh thần đoàn
kết”(24/11/1945) với Việt minh, chúng vẫn ra sức cơng kích Chính phủ ta.
12
Chúng bắt cóc các nhân viên của Chính phủ (đồng chí Trần Đình Long và dự
kiến bắt cóc thêm các đồng chí lãnh đạo khác). Bọn chúng địi tham gia vào 7
bộ trong chính phủ, đưa ra danh sách những tên với thành tích rất nhơ nhuốc để
tham gia vào Chính phủ. Tại các vùng chiếm đóng, Qn Tưởng duy trì sự
thống trị đen tối và lập nên một tổ chức mới với tên là “Đại Việt quốc gia Liên
minh” để khơng phải phục tùng hiệp ước đồn kết. Chúng đả kích khơng tiếc
lời chế độ ủy ban nhân dân, cho rằng chế độ cường hào quan lại cũ còn tốt hơn
chế độ này.
Ngày 23/12/1945, dưới áp lực của quần chúng, Việt Quốc và Việt Cách
đã phải cùng Việt minh ký kết bản “Biện pháp đoàn kết”, quy định thành lập
Chính phủ liên hiệp trước khi Quốc họi họp bầu ra Chính phủ chính thức. Nhân
dịp Chính phủ liê hiệp ra mắt quốc dân, báo “ Việt Nam” - cơ quan ngơn ḷn
của Việt Nam quốc dân Đảng đã có một số đặc biệt và hô hào “ dân chúng dến
dự thực đông để tôn phần long trọng cho cuộc lễ”. Nhưng lập tức sau đó, chúng
giở trị phá hoại địi thành lập ngay “ Chính phủ liên hiệp quốc gia chính thức”
mặc dù chưa triệu tập được Quốc hội.
Như vậy, là suốt từ ngày thành lập chính quyền nhân dân cho đến cuối
năm 1945, quân đội Tưởng Giới Thạch và bè lũ tay sai của chúng, nhất là Việt
Nam quốc dân Đảng, đã dốc toàn lực phá họa cách mạng Việt Nam và nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự phá hoại ấy đã đặt chính quyền nhân dân ta
trước một thách thức vô cùng lớn bên cạnh nguy cơ xâm lược của thực dân
Pháp ở miền Nam và nạn đói, nạn lụt ở miền Bắc. Trong tình thế nhân dân ta,
đất nước ta đứng trước một lúc nhiều khó khăn như vậy, chúng ta phải đối phó
với âm mưu và những hành động phá hoại của quân Tưởng như thế nào để có
thể giữ vững chính quyền cách mạng, bảo vệ thành quả của cách mạng tháng
Tám? Đây là một vấn đề rất phức tạp, đòi hỏi phải giải quyết khơn khéo và
đúng đắn để bảo vệ chính quyền ta đang ở trong tình trạng mong manh.
13
II. Sách lược của Đảng và Hồ Chủ tịch đối với quân đội Trung Hoa
Dân quốc giai đoạn 1945-1946.
1.Chủ trương của Đảng và Hồ Chủ tịch.
Trong những ngày đầu của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lúc mà
nhân dân ta đứng trước rất nhiều kẻ thù, thì vấn đề chỉ đạo sách lược có một ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc"
với hai nhiêm vụ cơ bản là kháng chiến ở miền Nam, kiến quốc, xây dựng thực
lực mọi mặt ở miền Bắc.Về chỉ đạo chiến lược, bản chỉ thị xác định nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng lúc này "vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng.
Vì trên thực tế, cuộc cách mạng đó vẫn đang tiếp diễn, nước ta chưa hồn tồn
độc lập. Chính quyền cách mạng cùng toàn dân phải "kiên quyết hoàn thành
nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu của cách mạng vẫn là "Dân tộc trên hết",
"Tổ quốc trên hết". Xem xét âm mưu của chủ nghĩa đế quốc đối với cách mạng
Việt Nam và Đông Dương cũng như những hành động xâm lược của thực dân
Pháp ở Nam Bộ cho thấy, việc Đảng ta xác định nhiệm vụ chiến lược trên đây là
đúng đắn. Trong nhiệm vụ kiến quốc có 5 nội dung chủ yếu: xây dựng thể chế
nhà nước; khôi phục và phát triển sản xuất; từng bước xóa nạn thất học; đấu
tranh ngoại giao gữi gìn hịa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh; xây dựng thực
lực quân sự, thì đấu tranh ngoại giao chống quân Tưởng, sau là quân Pháp, ở
miền Bắc Việt Nam là một điểm sáng trong sách lược ngoại giao của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong chỉ thị “ Kháng chiến, kiến quốc” Đảng ta đã nhận định: thực dân
Pháp là kẻ thù nguy hiểm hơn, là kẻ thù chính, cần phải tập trung mũi nhọn vào
chúng. Đảng ta chủ chương: “ phải đặt riêng bọn thực dân Pháp xâm lược ra mà
đánh, đừng bỏ cả Pháp, Anh, Ấn (lính Ấn Độ trong hàng ngũ quân Anh) vào
một bị mà đánh và đừng coi họ là kẻ thù ngang nhau, đừng cơng kích nước
Pháp, chỉ cơng kích bọn thực dân Pháp”[8;24]. Xác định thực dân Pháp là kẻ
thù chính, bởi vì chúng đã và đang trắng trợn vũ trang xâm lược nước ta ở Nam
14
Bộ. Thực dân Pháp rắp tâm đặt lại ách thống trị của chúng ở Đơng Dương. Âm
mưu đó được thể hiện trong Tun ngơn của chính phủ Đờ Gơn ngày 24-31945. Nhận rõ âm mưu của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
Đảng ta cho rằng, các thế lực đế quốc sẽ đi đến dàn xếp với nhau để cho thực
dân Pháp trở lại Đông Dương. Trước sau chính quyền Tưởng Giới Thạch cũng
"sẽ bằng lịng cho Đông Dương trở về tay Pháp, miễn là Pháp nhượng cho
Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng". Như vậy, việc tập trung chống thực dân
Pháp lúc này là hoàn toàn đúng. Để tập trung đối phó với thực dân Pháp, cần
phải hồ hỗn, nhân nhượng với Tưởng. Bởi lẽ chúng chưa thể trắng trợn gây
chiến tranh xâm lược nước ta được. Như vậy, tránh được tình thế khó khǎn bất
lợi là phải đối đầu với cả quân Pháp và quân Tưởng cùng một lúc. Nhưng như
vậy cũng khơng có nghĩa là coi nhẹ nguy cơ uy hiếp của quân đội Tưởng Giới
Thạch và tay sai của chúng. Đối với quân Tưởng, chúng ta đã nhận rõ chân
tướng của chúng. Một mặt, chúng ta nhận thấy rõ tính chất xâm lược của quân
Tưởng Giới Thạch và những mục đích hung ác của chúng. Mặt khác, Chính phủ
ta cũng nhìn thấy những mặt yếu của chúng và đoán biết trước sự thỏa hiệp của
Tưởng với Pháp sau này. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ quân Tưởng
vào nước ta với ý đơ lật đổ Chính phủ ta, lập nên chính quyền tay sai của chúng
nhưng lại dưới danh nghĩa quân Đồng minh làm nhiệm vụ tước vũ khí quân
Nhật, nên ngay từ những ngày đầu Tưởng vào nước ta, Đảng ta đề ra chính sách
"Hoa - Việt thân thiện", có những nhân nhượng nhất định, chính là chủ động
ngǎn chặn và làm thất bại âm mưu lật đổ của chúng, tỏ rõ thiện chí của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ quân Đồng minh
trong việc giải giáp quân Nhật, không để họ kiếm cớ lật đổ chính quyền của ta.
Đây là sự nhìn nhận và xử trí cực kỳ tinh tế sáng suốt, tránh được sự đối đầu có
thể dẫn tới đổ vỡ. Khi quyết định sách lược hồ hỗn với Tưởng, Đảng ta cũng
nhận rõ những mâu thuẫn, khó khǎn trong nội bộ qn Tưởng. Chính quyền
Tưởng tuy có Mỹ giúp sức, song đang phải đối phó với sự phát triển của cách
mạng Trung Quốc do Đảng cộng sản lãnh đạo và nước Trung Hoa đang đứng
15
trước một cuộc nội chiến mới. Chính quyền Tưởng tuy tham vọng thì lớn,
nhưng thực lực có hạn, đội qn Tưởng kéo sang Việt Nam tuy đông nhưng ô
hợp, tổ chức kém và hậu cần khó khǎn, nên chúng khơng thể muốn gì là làm
được, khơng thể khơng trơng mong vào những khả nǎng hậu cần tại chỗ. Do đó,
chúng khơng thể khơng giao thiệp và dựa vào chính quyền của ta đã được xác
lập, để có thể giải quyết những nhu cầu cấp thiết. Sức mạnh của cách mạng
nước ta, là đã khơng chỉ tự lực giành chính quyền, mà cịn đang tự bảo vệ có
hiệu quả thành quả cách mạng của mình, đã làm cho chính quyền Tưởng cũng
phải từng bước điều chỉnh chính sách của họ.
Do nhận định như vậy, chúng ta đã đề ra một sách lược rất đúng đắn:
kiên quyết giữ vững chủ quyền của ta nhưng rất mềm dẻo trong việc đối phó
với quân đội Tưởng Giới Thạch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về phương châm
đối phó với bọn Tưởng Giới Thạch “Chính sách của chúng ta hiện nay phải là
chính sách Câu Tiễn. Nhưng nhẫn nhục không phải là khuất phục”[9;78].
Chúng ta có thể tạm thời nhân nhượng với chúng, tạm thời hịa hỗn với chúng
để làm giảm bớt những khó khăn do chúng gây nên và để tập trung ngọn lửa
đấu tranh vào thực dân Pháp. Để thực hiện sách lược ấy, Đảng ta đã phải giải
quyết hàng loạt các vấn đề chưa từng được đặt ra, theo tinh thần kết hợp tính
nguyên tắc cao độ với sự vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác- Lê nin vào hoàn
cảnh nước ta. Hồ Chủ Tịch đã nói về vấn đề đó rằng:
“ Đứng trước tình hình gay go và cấp bách ấy, Đảng phải dùng mọi cách
để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn, và
để có thời giờ củng cố dần dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố
Mặt trận dân tộc thống nhất”.[10;385]
“ Lúc đó Đảng khơng thể do dự, do dự là hỏng hết. Đảng phải quyết đốn
mau chóng, phải dùng những phương pháp – dù là những phương pháp đau đớn
- để cứu vãn tình thế.” [10; 385].
Đảng và Chính phủ ln đứng vững trên cương vị người cầm quyền của
một nước đã giành được nền độc lập. Sách lược của ta đối với quân đội Tưởng
16
là tránh xung đột với chúng, nhấn mạnh trách nhiệm của quân đội Tưởng Giới
Thạch là giải giáp quân đội Nhật để ngăn ngừa những hành động xâm lược của
chúng, ít nhất cũng làm cho chúng bớt hung hăng trong việc can thiệp vào nội
trị của nước ta. Đồng thời khi chúng xâm phạm vào chủ quyền của nước ta,
chúng ta cũng sẵn sàng đối phó với chúng “ huy động tồn bộ lực lượng quần
chúng biểu tình” phản đối chúng. Như vậy, trong thực tế sách lược của ta là
trung lập với quân đội Tưởng Giới Thạch.
Còn đối với tay sai của chúng là Việt nam quốc dân Đảng và Việt Nam
Cách mệnh đồng minh, thì sách lược của ta là cô lập chúng trước quần chúng
nhân dân làm cho quần chúng nhân dân thấy rõ bộ mặt phản cách mạng của
chúng, kiên quyết ngăn chặn và đánh lùi những hành động phản quốc của
chúng, dùng lực lượng quần chúng làm áp lực cho chính quyền kiên quyết trấn
áp bọn phản cách mạng có đầy đủ bằng chứng và tiến tới tiêu diệt chúng. Đồng
thời, trong điều kiện chúng vẫn còn chỗ dựa mạnh là quân đội Tưởng Giới
Thạch, chúng ta dùng lối bài trừ dần dần, và có thể nhân nhượng với chúng trên
nguyên tắc giữ vững chính quyền nhân dân và đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
đối với cách mạng, đối với chính quyền. Mục đích của những chính sách này là
lợi dụng lực lượng của Tưởng có mặt ở Việt Nam như một lực lượng đối trọng
với lực lượng của thực dân Pháp, kiềm chế chủ trương của chính phủ Paris sớm
khơi phục kiểm sốt ở Đơng Dương; có thời gian ổn định tình hình trong nước
và rảnh tay đối phó với Pháp.
2. Các biện pháp thi hành chủ trương của Đảng
2.1.Biểu dương lực lượng
Đảng ta thực hiện biểu dương lực lượng chính trị lớn mạnh của quần
chúng nhân dân ủng hộ cách mạng để hậu thuẫn cho hoạt động ngoại giao. Điển
hình là cuộc diễu hành của 30 vạn nhân dân thủ đô Hà Nội trong buổi chào đón
Hà ứng Khâm, Tổng tư lệnh quân đội Tưởng và phái bộ đồng minh đến Hà Nội
ngày 2/10/1945. Cuộc diễu hành về danh nghĩa để hoan nghênh phái bộ Đồng
minh nhưng thực chất là để biểu dương lực lượng của nhân dân ủng hộ chính
17
quyền cách mạng và Hồ Chủ tịch. Việc biểu dương lực lượng là cần thiết và có
ý nghĩa vơ cùng quan trọng khi nước ta đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc” bởi: Thứ nhất, nó biểu thị ý chí và sức mạnh của nhân dân ta đồn kết xung
quanh chính phủ Hồ Chí Minh, điều này chứng tỏ rằng chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hịa đã và đang được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân.
Đó là điều khơng dễ gì có được cũng như khơng dễ gì thay đổi. Thứ hai, hành
động đó đồng thời thể hiện thiện chí, sự hoan nghênh và mong muốn hoà với
quân Tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Nam dân chủ cộng hịa. Trong
bối cảnh đất nước tiêu điều, gian truân về mọi mặt, đặc biệt là quân sự và kinh
tế thì việc biểu dương lực lượng lúc này là nhằm che lấp bớt đi những khó khăn
trước mắt. Biểu dương lực lượng là một hành động ngoại giao hết sức khéo léo
và tinh tế của chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng. Âm mưu và mục đích của của
Tưởng là “diệt Cộng cầm Hồ”, lật đổ chính quyền Việt Minh và tổ chức ra một
chính quyền bù nhìn lên thay thế. Nhưng khi sang Việt Nam, chúng thấy khắp
các con phố, làng xã đều được treo cờ đỏ sao vàng, thấy rõ nhân dân ta đồn kết
một lịng ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh, Tưởng nhận ra rằng việc đánh đổ
chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hịa thay bằng chính phủ bù nhìn do chúng
lập nên là khơng thể tực hiện được ngay mà cần phải có thời gian.
Một điều quan trọng hơn hết lúc này là, chúng ta không thể và cũng không
đủ khả năng đấu tranh vũ trang trực tiếp với Tưởng, vì vậy hành động biểu
dương lực lượng thể hiện sự tán dương quân Tưởng có mặt tại Việt Nam là một
hành động hết sức thông minh của chủ tịch Hồ Chí Minh và Chinh phủ lâm thời
trong việc đánh giá tình hình hiện thời cũng như thực lực của ta lúc bấy giờ.
Qua hành động này ta thấy được nghệ thuật ngoại giao “trong nhu có
cương”, đã làm thất bại tạm thời âm mưu “ diệt Cộng, cầm Hồ” của Tưởng
buộc chúng, buộc chúng phải thay đổi chính sách với nước ta.
2.2.Lợi dụng mâu thuẫn tránh xung đột
Trong các tun bố cơng khai của Chính phủ Việt Nam về quan hệ Việt –
Hoa, cũng như các thư từ và điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Tưởng
18
Giới Thạch, ta ln khẳng định tình hữu nghị, quan hệ gắn bó lâu năm giữa hai
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường có những cuộc thăm hỏi các tướng
lĩnh của Tưởng ở Việt Nam như Lư Hán, Tiêu Văn...một mặt là để đặt quan hệ
ngoại giao thân thiết, mặt khác là để tìm hiểu các tướng lĩnh, lợi dụng mặt hám
lời vật chất để hạn chế sự chống phá; tìm hiểu những mâu thuẫn nội bộ của
chúng và các mâu thuẫn với bên ngồi. Từ đó, lợi dụng những mâu thuẫn để
thực hiện những việc có ích cho ta. Bác Hồ thường nhắc nhở “nội bộ nó khơng
ổn định ta có thể lợi dụng”.Ta nhận ra rằng các tướng lĩnh của Trung Quốc vào
Việt Nam giống nhau ở chỗ đề chống cộng nhưng thuộc nhiều phe cánh khác
nhau: Phái Vân Nam, phái Lưỡng Quảng, phái Trung ương, lại mâu thuẫn với
nhau về quyền lợi và ta có thể khai thác những mâu thuẫn đó.
Đối với tướng Lư Hán của Tưởng – thuộc tập đoàn Vân Nam của Long
Vân, Bác đã triệt để khai thác mâu thuẫn giữa Lư Hán và chính quyền trung
ương thơng qua vụ việc Tưởng Giới Thạch cử Lư Hán đi Việt Nam là dùng kế “
điệu hổ ly sơn” để bắt Long Vân. Sau khi cử Lư Hán đi được vài tuần thì Tưởng
Giới Thạch đã lừa bắt úp Long Vân, và hứa hẹn cho Lư Hán làm tỉnh trưởng
Vân Nam, xong Trùng Khánh lại điều hai trung đoàn của Lư Hán về trước, và
thay bằng quân của trung ương, qua đó có thể thấy nội bộ quân Tưởng bất ổn.
Lư Hán và chính quyền trung ương có những bất đồng nhất định và Lư Hán là
người thường có thái độ thành kiến với Pháp ở Đông Dương. Bởi vậy, ngay từ
khi tên này đến Hà Nội, Hồ chủ tịch đã trao đổi với Lư Hán về tình hình Việt
Nam, giới thiệu chủ trường “Hoa – Việt thân thiện”, phê phán các hành động
xâm lược của Pháp. Qua những lần trao đổi như vậy, Lư Hán rất ngạc nhiên và
khâm phục sự hiểu biết sâu rộng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Lư Hán đã thể hiện
sự tôn trọng và thiện cảm với Bác khi y gọi Bác là “Hồ Chủ Tịch”, lời gọi ấy
không chỉ chứng minh cho sự tôn trọng của Lư Hán đối với Bác mà cịn với cả
bộ máy chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lư Hán cũng có những
hành động độc lập với chính phủ Trung Ương như: không công nhận A-lếchxăng-đri là đại diện cho Đờ Gôn ở miền Bắc Việt Nam, không cho phép Pháp
19
lập cơ quan hành chính dân sự, khơng ủng hộ quá mực bọn Việt quốc, Việt
cách...[8;56].
Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với trung tướng Tiêu Văn, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nắm rõ lý lịch cũng như ý định của y khi sang Việt Nam,nhìn thấu những
bất đồng trong nội bộ của y và từ đó đưa ra những đối sách phù hợp. với nhiệm
vụ giải quyết các vấn đề chính trị của Việt Nam, Tiêu Văn đến Hà Nội thấy
chính quyền ta đã thành lập y rất bực bội và tuyên bố “Hồ Chí Minh thập đại
tội” ngay lập tức Bác đã đến thăm y, giải thích rõ tình hình hiện tại và đề nghị
hợp với ta giải quyết mọi vấn đề trong quan hệ Hoa- Việt, điều này đã xoa dịu
tâm lý căng thẳng giữa hai bên. Bằng tài ngoại giao nhạy bén và trí thơng minh,
qua tiếp xúc
Bác đã đạt được sự hịa hỗn với Tiêu Văn, riêng điều này cũng đủ làm
cho bọn tay sai của y hoang mang như nhà sử học Philippe Devillers nhận xét.
Người còn mời vợ chồng Tiêu Văn đi ăn, tặng vợ y những tư trang giá trị, tạo
điều kiện thuận lợi cho bà ta buôn bán gạo và một số mặt hàng sang Hồng
Kông… Tất cả tưởng chừng như đơn giản nhưng lại có ý nghĩa sâu xa, hành
động “mời” của Hồ Chủ Tịch đại diện cao nhất của chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hòa là gián tiếp khẳng định vị thế cũng như tính hợp pháp của chính
phủ lâm thời, hành động ấy còn làm thất bại ý định khơng bao giờ giao thiệp
với chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa của Tiêu Văn, đồng thời răn đe bọn
phản cách mạng.
Thêm vào đó, Hồ chủ tịch cịn lợi dụng sự khác biệt về quyền lợi, biện
pháp chống đối cách mạng nước ta của các tướng lĩnh Tưởng, từ đó gây ảnh
hưởng đến cách thức hành động của chúng. Lợi dụng mâu thuẫn nội bộ của
Tưởng được thể hiện qua 14 nguyên tắc chỉ đạo hoạt động của quân đội Trung
Hoa tại Đơng Dương, trong đó chủ trương giữ liên hệ chặt chẽ với Mỹ và Pháp,
giữ thái độ trung lập trong quan hệ Pháp – Việt. Tiêu Văn – 1 tướng của Tưởng
nhận xét rằng với 14 nguyên tắc này, nhiều người Pháp cho là đã làm sống lại
những điều mà họ đã tuyệt vọng. Còn tướng Lư Hán thì cho rằng các nguyên
20
tắc của chính phủ khơng phù hợp với tình hình ở Việt Nam bấy giờ. Như vậy là
không thống nhất được phương án hành động. Điều này rất có lợi cho ta.
2.3. Nhân nhượng có nguyên tắc
Đối với bọn Tưởng Giới Thạch, chúng ta đã tránh tất cả mọi sự khiêu
khích của chúng. Mặc dầu chúng dùng đến những thủ đoạn dộc ác đối với ta, kể
cả đến thủ đoạn gửi “tối hậu thư” ta vẫn bình tĩnh và kiên nhẫn đối phó lại,
nhân nhượng quân Tưởng một cách có nguyên tắc.
Về kinh tế, ta công nhận một số yêu sách của chúng như: tiền giấy bạc
“quan kim” và “quốc tệ”, mặc dù điều đó làm cho tài chính và thương mại của
ta càng thêm nguy ngập. Chính phủ và nhân dân ta nhận cung cấp lương thực,
thực phẩm cho quân Tưởng trong hoàn cảnh đất nước chưa ra khỏi nạn đói..
Về quân sự, Đảng chủ trương tránh xung đột với quân Tưởng, tỉnh táo để
không rơi vào âm mưu và hành động khiêu khích lật đổ của chúng.Trong những
vụ xung đột xảy ra giữa quân đội Tưởng với nhân dân ta, Chính phủ tìm cách
hịa giải, khơng để cho những nhiệm vụ đó trở thành cái cớ cho chúng gây ra
xung đột lớn. Lúc này, quân Tưởng đưa ra tối hậu thư yêu cầu chúng ta phải
giải tán quân đội. Chúng ta đã đồng ý với yêu cầu của quân Tưởng, giữa tháng
9/1945, chủ tịch Chính phủ lâm thời chỉ thị đổi tên đội quân thường trực, công
cụ chuyên chính chuyên chính bảo vệ chế độ Dân chủ cộng hịa mới thành lập
và Việt Nam Giải phóng qn thành Vệ quốc đồn, có nghĩa chỉ cịn là một
đồn thể bảo vệ quốc gia. Đây là một sách lược phù hợp, bởi dù đổi tên nhưng
Vệ Quốc đoàn vẫn là tổ chức mang tính chất cơng cụ, là lực lượng chun
chính có tính chất vũ trang để bảo vệ đất nước. Quân Tưởng biết rõ thực chất
đây là quân đội do Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức, lãnh đạo nhưng khơng
thể địi hỏi gì hơn. “Vệ quốc đồn từ 5000 người đã nhanh chóng phát triển lực
lượng lên 50.000 vào cuối năm 1945, gấp 10 lần và đã được trang bị tốt hơn”.
Chúng ta nhắc đi nhắc lại nhiều lần trách nhiệm quân đội Tưởng
GiớiThạch trong việc tiếp quản quân đội Nhật, làm cho chúng không thể ngang
nhiên can thiệp vào nội trị nước ta.
21
Về chính trị,Trong thời gian này, có một sự kiện quan trọng xảy ra: Đảng
Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán ngày 11/11/1945, những người
Đảng viên của Đảng sẽ tham gia tổ chức có tên gọi “ Hội những người nghiên
cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”. Sự thật đó chỉ là Đảng ta rút vào bí mật.
Chủ trương để cho Đảng tuyên bố “tự giải tán” là một chủ trương rất linh hoạt
về sách lược. Trước sự uy hiếp nặng nề của bọn Tưởng Giới Thạch đối với sự
tồn tại của Đảng ta, đó là một biện pháp rất tốt cho Đảng ta tránh được ngọn
đòn tấn công của chúng. Lúc bấy giờ, hoặc là Đảng vẫn cơng khai hoạt động và
như thế thì bọn Tưởng Giới Thạch có thể lấy cớ “chống cộng” để đàn áp cách
mạng Việt Nam, tiêu diệt Đảng ta, hoặc là Đảng phải chịu hy sinh danh nghĩa
của mình để bảo tồn lực lượng, tiếp tục lãnh đạo cách mạng. Trung ương Đảng
do Hồ Chủ Tịch đứng đầu đã nhanh chóng quyết định hành động theo cách thứ
hai. Ngày nay, khi nghiên cứu vấn đề này, có người cho rằng chủ trương tuyên
bố “tự giải tán” của Đảng là một chủ trương khơng đúng. Thậm chí có người
cho đó là chủ trương sai lầm về nguyên tắc. Tuy nhiên, chúng ta phải xem xét
điều kiện thực tế lịch sử lúc bấy giờ, khi Đảng cịn ở trong tình trạng hết sức
nguy hiểm. Đảng làm như vậy chính là đã đảm bảo được một nguyên tắc cao
nhất của cách mạng: bảo tồn lực lượng để giữ vững sự lãnh đạo của Đảng. Việc
Đảng tuyên bố “tự giải tán” là một cử chỉ rất đẹp đẽ tỏ rõ những người cộng sản
Việt Nam sẵn sàng vì lợi ích của cách mạng mà tạm thời hy sinh danh nghĩa của
mình (và chỉ là hy sinh danh nghĩa thơi). Vì vậy, hành động đó khơng làm giảm
uy tín của Đảng đối với quần chúng. Trường hợp Đảng Cộng sản Đơng Dương
tun bố “tự giải tán”hồn tồn không giống với trường hợp giải tán của Đảng
Cộng sản Mỹ năm 1914, lúc mà Đảng đó nằm dưới sự lãnh đạo của một số
phần tử cơ hội chủ nghĩa đàu hàng, bọn này thật sự muốn thủ tiêu đội tiền
phong của giai cấp cơng nhân Mỹ. Cần nói thêm rằng tuy Đảng tuyên bố “tự
giải tán” song những trường hợp cần có tiếng nói cơng khai của Đảng, Đảng
vẫn tìm cách để làm điều đó. “ Hội những người nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở
Đông Dương” chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt hình thức của Đảng. Số đảng
22
viên sau ngày Đảng tuyên bố tự giải tán không những khơng giảm đi mà cịn
tăng mạnh mẽ. Tổ chức của Hội được da trì và mở rộng, với vai trò càng ngày
càng lớn.Và những người cộng sản Việt Nam hoạt động trong tất cả các lĩnh
vực đều luôn luôn đứng vững trên vị trí tiền phong của mình để lãnh đạo quần
chúng, họ không ngừng củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần
chúng.
Đối với bọn Tưởng Giới Thạch, khơng phải chúng ta chỉ có một mực
nhân nhượng như vậy. Đảng và Chính phủ ta, trong khi nhân nhượng với chúng,
vẫn kiên quyết giữ vững chủ quyền độc lập của nước mình. Trong những lúc
cần thiết, chúng ta đã biểu dương sức mạnh của quần chúng đối với quân
Tưởng, hạn chế sức tấn công của chúng vào cách mạng Việt Nam, làm cho hoạt
động của chúng có lúc bị tê liệt, làm cho âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân
của chúng cuối cùng bị thất bại.
Trong khi phải đối phó với quân Tưởng, chúng ta phải đồng thời đối phó
với bè lũ tay sai của chúng. Đây là một cuộc đấu tranh hết sức gay go do bọn
phản cách mạng dựa vào lực lượng của quan thầy là quân đội Tưởng, đồng thời
đã tập hợp vào hàng ngũ của chúng những phần tử phản động nhất và bọn cặn
bã trong xã hội. Chúng ta đã dựa vào lực lượng của đông đảo quần chúng nhân
dân để đánh lùi và làm suy yếu những hoạt động khiêu khích và phá hoại của
chúng. Một mặt, ta kiên quyết trấn áp bọn phản động ở các địa phương và bọn
đầu sỏ có đầy đủ chứng cứ, khơng cho chúng bành trướng thế lực. Mặt khác,
chúng ta kiên trì tiến hành những cuộc thương lượng với bọn lãnh tụ Việt Nam
quốc dân Đảng và Việt Nam cách mệnh đồng minh hội.
Ngay từ đầu, chúng ta đã vạch trần chân tướng của bọn phản cách mạng
để cô lập chúng trước quần chúng nhân dân, làm cho cả những người “lừng
chừng” cũng có thể nhận rõ được bộ mặt gớm giếc của chúng. Sau ngày cướp
chính quyền khơng lâu, trên tờ báo “Cứu quốc” đã có những bài báo nêu lên
hành động mờ ám của Việt Nam cách mạng đồng minh hội, trong đó vạch rõ
“hội ấy là một bọn người giả danh cách mạng, đi ơm chân núp bóng một thế lực
23
nào đó ở bên ngồi, để lợi dụng tình thế mưu cướp quyền lợi, địa vị riêng” (số
37, 7/9/45). Về sau trên tờ “ Cứu quốc” cũng như trên tờ “ Sự thật”, ln ln
có bài bóc trần những hành động phản cách mạng của hai đảng Việt Quốc, Việt
Cách. Tất cả những sự thật đen tối về bọn chúng, từ những hành động bắt cóc,
tống tiền, giết người ở thủ đô cho đến những tội ác chúng gây ra ở vùng chiếm
đóng cũng được phơi bày trước nhân dân ta. Trước sau trong mắt quần chúng
nhân dân Việt Quốc, Việt Cách chỉ là bọn phản cách mạng, không hơn không
kém. Rất nhiều lá thư tố cáo do quần chúng nhân dân gửi tới các báo đã chỉ đích
danh bọn chúng là những tên ăn cướp chính cống.
Mặc dù quần chúng nhân dân đã sôi sục căm thù với chúng nhưng trong
điều kiện lúc bấy giờ chúng ta bắt buộc phải nhân nhượng. Do sáng kiến của
Đảng, Tổng bộ Việt Minh nhiều lần đề nghị thương lượng với Việt Nam quốc
dân Đảng và Việt Nam cách mạng đồng minh hội, trên lập trường đoàn kết,
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trong tình thế nghiêm trọng của nước nhà, ngày 29/10/1945, Việt Minh
đã họp Liên tịch với Việt Nam Cách mạng đồng minh thảo luận vấn đề hợp tác
giữa hai bên. Trước áp lực của quần chúng bên ngoài và của một số phần tử tiến
bộ bên trong, Việt Nam Cách mạng đồng minh đã phải chấp nhận đề từ bên
phía Việt Minh. Sau đó, một cuộc họp đã diễn ra giữa Việt Minh, Việt Nam
Cách mạng đồng minh và Việt Nam quốc dân Đảng, đưa ra những yêu cầu của
bọn chúng như: đổi tên Việt Minh, đổi quốc kỳ, lập lại Chính phủ. Việt Minh
khơng chấp nhận nhưng vẫn kiên trì thương lượng. Ngày 19-10-1945, ba tổ
chức họp, đồng ý ngừng cơng kích và kêu gọi đồn kết ủng hộ chiến Nam bộ.
Ngay từ 3/12/1945, Hồ Chủ tịch đã tự tay viết thư đề nghị Việt Nam quốc
dân Đảng tham gia Tổng tuyển cử. Ngày 18/12/1945, Người kí sắc lệnh hỗn
Tổng tuyển cử đến ngày 6/1/1946. Ta lại nhân nhượng thêm một bước nữa khi
đồng ý cho Việt Quốc, Việt Cách 70 ghế trong tổng số 350 ghế ở quốc hội
không thông qua bầu cử, giữ các cương vị quan trọng như: Nguyễn Hải Thần
24