HỌC VIỆN PHỤ NỮ VIỆT NAM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
GIỚI TRONG KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ
Đề tài :
THỰC TRẠNG QUYỀN QUYẾT ĐỊNH THEO GIỚI
TRONG GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN KIM BẢNG- TỈNH HÀ NAM
Họ và tên:
Mã sinh viên:
Ngành học:
Khoá học:
Chu Ngọc Thái
1753410399
Quản trị kinh doanh
Khoá 5
HÀ NỘI , 2021
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Người quyết định chính các cơng việc quan trọng của gia đình (%) ............ 6
Bảng 2. Người có quyền quyết định việc sử dụng đất (%) ....................................... 10
Hình 1. Tỷ lệ người chồng hoặc cả hai vợ chồng quyết định các cơng việc gia đình
(%) .............................................................................................................................. 7
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
MỤC LỤC
I.
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1.
Đặt vấn đề .................................................................................................... 1
2.
Mục đích nghiên cứu................................................................................... 1
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 1
4.
Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 1
5.
Tóm tắt đề tài............................................................................................... 2
II. THỰC TRẠNG QUYỀN QUYẾT ĐỊNH THEO GIỚI TRONG GIA
ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM BẢNG - TỈNH HÀ NAM ....................... 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ......................................................................... 3
1.1 Một số khái niệm cơ bản ......................................................................... 3
1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền quyết định theo giới trong gia đình
……………………………………………………………………………4
CHƯƠNG 2:.......................................................................................................... 6
2.1 Thực trạng quyền quyết định theo giới trong gia đình ........................ 6
2.2 Thực trạng quyền quyết định theo giới trong gia đình trên địa bàn
tỉnh Hà Nam .................................................................................................... 10
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN .................................................................................. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 17
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
I.
Lớp: K5-QTKDA
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Việc đưa ra quyết định về các vấn đề chung trong cuộc sống hôn nhân giữa vợ
và chồng là rất quan trọng. Từ xa xưa vẫn có quan điểm nho giáo với tư tưởng trọng
nam khinh nữ, với suy nghĩ cho rằng người phụ nữ thường nông nổi, do dự và khơng
có khả năng quyết đốn, cịn người đàn ơng thì ngược lại nên là người có quyền quyết
định nhiều hơn so với người phụ nữ trong các vấn đề. Tư tưởng này đã hình thành
nên những định kiến giới về vai trò và quyền ra quyết định giữa phụ nữ và nam giới
trong gia đình. Tuy nhiên theo thời gian, cùng với q trình tồn cầu hóa, sự du nhập
của những luồng tư tưởng mới, đã tạo ra sự thay đổi về địa vị cũng như tầm ảnh
hưởng của người phụ nữ trong gia đình, người phụ nữ dường như đã có tiếng nói hơn
trong các hoạt động đời sống gia đình và các cơng việc ngồi cộng đồng, xã hội.
Đối với nam giới chưa bao giờ được đánh giá cao và thường ít phải làm những
việc ví dụ như nội trợ, chăm sóc ni dạy con cái,… Thì ngày nay, đã có sự đổi mới
tư duy, các gia đình đã có sự chia sẻ về cơng việc nhà cũng như có sự tham gia vào
q trình ni dạy con cái.
Mặt khác, Đồng bằng sơng Hồng nói chung và tỉnh Hà Nam nói riêng, ảnh
hưởng sâu sắc bởi các yếu tố đạo đức của Nho giáo. Vậy những yếu tố này có ảnh
hưởng đến quyền quyết định theo giới trong quan hệ vợ chồng hay không? Với các
nghiên cứu sẵn có và những số liệu thống kê, tơi sẽ làm rõ thực trạng quyền ra quyết
định của vợ và chồng trong các cơng việc trong gia đình hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tìm hiểu thực trạng quyền quyết định theo giới trong gia đình trên địa bàn
huyện Kim Bảng- tỉnh Hà Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
-
Nghiên cứu thực trạng quyền quyết định theo giới trong gia đình
Phạm vi nghiên cứu:
-
Khơng gian: Huyện Kim Bảng- tỉnh Hà Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích
1
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
- Phương pháp quy nạp
- Phương pháp tổng hợp số liệu
- Phương pháp so sánh theo thời gian
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra bảng hỏi
5. Tóm tắt đề tài
Chương 1: Cở sở lý luận
Chương 2: Thực trạng quyền quyết định theo giới trong gia đình trên địa bàn
huyện Kim Bảng- tỉnh Hà Nam
Chương 3: Kết luận
2
SV: Chu Ngọc Thái
II.
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
THỰC TRẠNG QUYỀN QUYẾT ĐỊNH THEO GIỚI TRONG GIA
ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM BẢNG - TỈNH HÀ NAM
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm giới
Giới (Gender) là một trong những khái niệm then chốt của Xã hội học về giới.
Để tránh sự nhầm lẫn thường xảy ra trong việc hiểu và sử dụng thuật ngữ "Giới" và
"Giới tính", người ta đem so sánh ý nghĩa của hai khái niệm này. Diana Kendall, Jane
Lothian Murray và Rick Linden cho rằng: "Giới tính đề cập đến sự khác biệt về kết
cấu sinh học giữa giống đực và giống cái". Khái niệm giới hồn tồn khác với khái
niệm giới tính. Có thể hiểu: "Giới đề cập đến sự khác nhau về cấu trúc xã hội và văn
hóa giữa giống đực và giống cái tìm thấy trong ý nghĩa, niềm tin và sự kết nối thực
tiễn với đàn ông và đàn bà".
Theo hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, có thể hiểu:
Giới là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới
và phụ nữ. Xã hội tạo ra và gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới
các đặc điểm giới khác nhau. Bởi vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay
đổi được.
Þ Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trị của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã
hội.
1.1.2 Định kiến giới
Định kiến giới là suy nghĩ của mọi người về những gì mà phụ nữ và nam giới
có khả năng làm và loại cơng việc mà họ có thể làm và nên làm; là tập hợp các đặc
điểm mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho là thuộc tính của
nam giới hay nữ giới.
Þ Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm,
vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ.
1.1.3 Quan hệ giới
Theo từ điển Oxford, thuật ngữ “quan hệ giới” ra đời thập niên 1970 nghĩa là
sự tương tác giữa các giới, đặc biệt được xem như một lĩnh vực nghiên cứu. Những
nghiên cứu về mối quan hệ giới (tương quan quyền lực nam nữ) trong lịch sử xã hội
3
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
loài dựa vào phương thức sinh sống (săn bắn – hái lượm, nông nghiệp dùng cuốc, sự
xuất hiện của đồ gốm, đồ sắt, nông nghiệp dùng cày, trồng trọt tách khỏi chăn nuôi)
cho thấy mối quan hệ giới thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử.
Mối quan hệ giới được Johann Jakob Bachofen, Morgan, Marx, Engels đặc
biệt quan tâm. Johann Jakob Bachofen (1861) cho rằng chế độ hôn nhân một vợ một
chồng là một thắng lợi của phụ nữ sau cuộc đấu tranh lâu dài chống lại chế độ loạn
hơn. Ơng giải mã sự thống trị và áp bức trong quan hệ giới và các hình thức khơng
tưởng trong đó con người đã tạo ra và vẫn còn tuân theo. Morgan (1871) cho rằng
những sự phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức sinh sống và ni dạy con
cái đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và quy định mối quan hệ giới. Trong cơng
trình đầu tiên phê phán nền kinh tế chính trị, Marx cho rằng cả hai giới tính đều có
mối quan hệ xã hội của nó. Theo Marx và Engels (2013) mối quan hệ giới được kiến
tạo thông qua lực lượng sản xuất, phân phối sản phẩm và phân công lao động.
Như vậy, mối quan hệ giới là các mối quan hệ xã hội giữa phụ nữ và nam giới,
đặc biệt là cách thức phân chia quyền lực giữa nam và nữ.
1.1.4 Các khái niệm khác
- Ra quyết định: Là sự đưa ra các giải pháp, phương án và chọn giải pháp, phương
án tốt nhất để giải quyết vấn đề đang gặp để đáp ứng nhu cầu cần thiết.
- Quyền ra quyết định: Là người được đưa ra giải pháp, phương án cuối cùng để
thực hiện nó.
- Quyền ra quyết định trong gia đình: Là thành viên trong gia đình được đưa ra
giải pháp, phương án cuối cùng để giải quyết các vấn đề gặp phải đối với cả vợ
và chồng, hoặc để đáp ứng các yếu cầu trong gia đình và ngồi xã hội.
1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền quyết định theo giới trong gia đình
-
Quan niệm truyền thống: chồng phải có đóng góp lớn hơn vào kinh tế gia đình
nên quyền quyết định cũng được dành cho họ.
-
Lý thuyết về kinh tế học, coi thu nhập là cơ sở của quyền lực.
-
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng ảnh hưởng của thu nhập không thực sự mạnh
nhất là khi so sánh sự tác động của thu nhập của phụ nữ với sự ảnh hưởng từ
định kiến giới hoặc tính gia trưởng.
4
SV: Chu Ngọc Thái
-
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
Tuổi, giới tính, số con, kiểu gia đình, trình độ học vấn, văn hóa đều được phát
hiện là có ảnh hưởng có ý nghĩa đến tương quan quyền lực.
5
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG QUYỀN QUYẾT ĐỊNH THEO GIỚI TRONG GIA
ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM BẢNG- TỈNH HÀ NAM
2.1 Thực trạng quyền quyết định theo giới trong gia đình
2.1.1. Quyền quyết định các cơng việc quan trọng của gia đình giữa người
vợ và người chồng hiện nay
Cơng việc duy trì các hoạt động trong gia đình là việc tham gia quá trình sản
xuất, quá trình làm kinh tế, các cơng việc được nhiều gia đình thực hiện là công việc
kinh doanh buôn bán, làm nông nghiệp và làm cơ quan nhà nước. Các công việc ở cơ
quan nhà nước thuộc về cá nhân, vì vậy không tồn tại quyền quyết định của người vợ
hoặc chồng vào công việc của người kia.
Bảng 1. Người quyết định chính các cơng việc quan trọng của gia đình (%)
Người quyết định chính
Cơng việc
Người Người
vợ
Cả hai
chồng vợ chồng
Người
khác
Đầu tư sản xuất/ kinh doanh của hộ gia đình
19,4
41,4
35,4
4,1
Định hướng việc làm của vợ/ chồng, con cái
7,9
16,4
72,3
3,4
Việc học hành của các thành viên gia đình
20,9
10,1
64,1
4,9
Mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, tài sản đắt tiền
9,4
27,5
57,8
5,4
Mua bán/ xây sửa nhà cửa, đất đai
5,6
37,5
51,6
5,3
Tổ chức giỗ, tết
36,2
10,9
47,1
5,8
Tổ chức ma chay, cưới xin
20,9
11,8
59,5
7,7
Việc sinh con
7,1
5,4
87,1
0,4
6
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
Hình 1. Biểu đồ tỷ lệ người chồng hoặc cả hai vợ chồng quyết định các cơng việc gia đình (%)
(Nguồn: Kết quả tính tốn từ số liệu Điều tra Gia đình 2017 và Điều tra Gia đình
Việt Nam 2006, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và cơ quan khác, 2008).
Với kết quả Điều tra Gia đình Việt Nam 2006 (Bộ Văn hố, Thể thao và Du
lịch và cơ quan khác, 2008) đối với một số cơng việc cùng được đo lường, có thể thấy
một xu hướng biến đổi tích cực về mối quan hệ giữa nam giới và phụ nữ trong vấn
đề ra quyết định (Hình 1).
Một số cơng việc quan trọng trong gia đình vốn do người chồng quyết định là
chủ yếu như đầu tư sản xuất/ kinh doanh, mua sắm đồ đắt tiền, mua bán/xây sửa nhà
cửa, tỷ lệ do người chồng quyết định giảm đi, không phải để dồn cho người vợ quyết
định mà là tăng tỷ lệ cả hai vợ chồng cùng quyết định một cách rõ rệt.
Hiện nay người chồng vẫn đang là người quyết định cuối cùng các công việc
quan trọng ở đa số các gia đình (49,1%). Tỷ lệ cả hai vợ chồng cùng tham gia quyết
định là 32,6%, chiếm khoảng 1/3 số hộ gia đình được hỏi. Có 12,9% gia đình người
vợ là người quyết định cuối cùng các công việc quan trọng của gia đình và 5,5% là
do người khác. Như vậy, nam giới vẫn giữ vị trí quan trọng trong gia đình, cho dù địa
vị, vai trò của người phụ nữ ngày nay đã có cải thiện đáng kể.
Việc quyết định cuối cùng các cơng việc quan trọng của gia đình là một quá
trình. Ở nhiều gia đình, mặc dù người chồng là người quyết định cuối cùng nhưng
7
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
việc quyết định các công việc gia đình bao gồm cả sự thảo luận, thuyết phục chứ
không phải luôn là sự quyết định bất chấp ý kiến của những thành viên khác trong
gia đình. Cụ thể hơn:
-
Với các gia đình làm kinh tế theo hướng tự kinh doanh bn bán và sản xuất,
thì có tới tỉ lệ người chồng quyết định mặt hàng buôn bán cũng như loại hình
kinh doanh chiếm tới 48%, cao hơn nhiều so với người vợ quyết định ( 17,8%)
( theo tạp chí tâm lý học, 2008), bên cạnh đó các chỉ báo khác như việc quyết
định về quy mô kinh doanh, nguồn lấy hàng hay quyết định về giá trị mặt
hàng…đều là người chồng quyết định chính, chỉ duy nhất chỉ báo về giá trị
mặt hàng là có tỉ lệ cả vợ và chồng cùng quyết định là 52%, tuy nhiên 33,8%
trong số đó vẫn là người chồng là người đưa ra quyết định cuối cùng. Để giải
thích cho vấn đề này, có thể sử dụng đặc trưng về tính cách giữa phụ nữ và
nam giới, khi nam giới thường nhạy bén và quyết đoán hơn phụ nữ, phụ nữ
thường thiếu quyết đoán và thường chậm đưa ra các quyết định quan trọng
(Trương Phúc Hưng – 2008)
-
Trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp, người chồng vẫn là người quyết
định chủ yếu trong công việc, từ những công việc như chọn giống, xây dựng
quy mô trên đất sản xuất nông nghiệp,…người chồng đều là người quyết định
chính ( Tạp chí tâm lý học, số 7, 7-2008), tuy nhiên đối với một số gia đình,
khi mà người chồng đi làm ăn xa hoặc làm nhà nước, thì cơng việc làm nơng
nghiệp để tăng gia sản xuất sẽ do người vợ quyết định.
-
Tiếp theo là vai trò tái sản xuất con người. Quá trình tái sản xuất ra con người
bao gồm quá trình sinh con, chăm sóc và ni dạy con cái, với đặc trưng giới
hiện tại thì cơng việc sinh con chắc chắn do người phụ nữ đảm nhận. Việc
mong muốn và quyết định giới tính của con thường là do người chồng mong
muốn, tuy nhiên khả năng thực hiện thường thấp.
-
Bên cạnh vấn đề sinh sản, vấn đề nuôi dưỡng và giáo dục con cái cũng được
các gia đình đặc biệt quan tâm. Việc lựa chọn trường lớp cho con và quyết
định con theo học tường nào thì có tới 38% các hộ gia đình có mẹ là người
quyết định chính, chỉ có 25% gia đình là có bố là người quyết định chính, cịn
lại là cả bố và mẹ đều cùng đưa ra ý kiến ( Mai Kim Châu).
8
SV: Chu Ngọc Thái
-
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
Về các khoản chi tiêu trong gia đình, người vợ là người quyết định chính trong
các công việc sinh hoạt hàng ngày, tuy nhiên đối với các vấn đề lớn như xây
nhà, mua đất, mua xe,….các vấn đề này chủ yếu cho người chồng quyết định
( Đỗ Thị Lệ Hằng – 2008), nguyên nhân do nhu cầu cũng như mục đích sử
dụng của người chồng hoặc của cả vợ và chồng là cần thiết, để ngoại giao –
tạo dựng mối quan hệ, hoặc để mua tặng,... Người quyết định cuối cùng vẫn
là người chồng. Về việc quyết định mua sắm các trang thiết bị trong nhà, tỉ lệ
cả vợ và chồng cùng bàn bạc và đưa ra quyết định chiến tỉ lệ lớn ( 84%), điều
này do là mua đồ dùng sinh hoạt trong gia đình, nên cả người vợ và chồng đều
hiểu giá trị và nhu cầu cần thiết, vì vậy thường họp bàn và đưa ra các trang
thiết bị cần thiết trong gia đình.
-
Việc sửa chữa các trang thiết bị trong gia đình cũng là do người chồng quyết
định là chủ yếu, người chồng sẽ thực hiện việc mang đi sửa hoặc gọi người về
để sửa chữa, vì những cơng việc này là những cơng việc nặng nhọc và địi hỏi
sự hiểu biết, nên đa phần là con trai sẽ đảm nhận thực hiện, người vợ cũng có
khả năng tuy nhiên thường ít hơn người chồng.
-
Đối với công việc trong họ hàng, việc ma chay cưới hỏi đa phần là người
chồng đi dự, vì đa phần trong các gia đình người chồng là người chủ hộ, là đại
diện gia đình. Đối với việc giúp đỡ người thân trong họ hàng, đây là công việc
chung vì vậy cả vợ và chồng sẽ cùng họp bàn, tuy nhiên đối với cơng việc của
nhà vợ thì người vợ sẽ là người đưa ra quyết định cuối cùng, cịn đối với cơng
việc của nhà chồng thì người chồng sẽ là người đưa ra quyết định cuối cùng
và thực hiện nó, để vừa thuận lịng gia đình nhà vợ/chồng, lại vừa khơng bị
cho là có sự bất cơng bằng đối với nhà bố mẹ vợ/chồng ( Đỗ Thị Lệ Hằng –
2008).
9
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
2.2 Thực trạng quyền quyết định theo giới trong gia đình trên địa bàn
tỉnh Hà Nam
2.2.1 Quyền quyết định sử dụng đất trong gia đình
Trong 50 hộ được khảo sát có 33 hộ (66%) được gia đình bên chồng hỗ trợ đất
đai (đất nền nhà ở và đất sản xuất) và chỉ có 14% hộ được gia đình bên vợ hỗ trợ,
điều này cho thấy rõ hình thức cư trú sau hơn nhân ở phía nhà chồng vẫn chiếm ưu
thế. Trong số những hộ được cha mẹ chồng hỗ trợ đất đai thì người chồng có quyền
quyết định rất cao (70%) trong khi đó người vợ ít có quyền quyết định (2,4%), cả hai
vợ chồng (22,6%). Ngược lại, đối với đất đai do cha mẹ vợ hỗ trợ thì người chồng
vẫn có quyền quyết định cao hơn vợ (32,4%), vợ (26,5%) điều này cho thấy người
đàn ơng là người có quyền quyết định việc sử dụng đất đai do cha mẹ hai bên hỗ trợ,
không kể đến bên chồng hay bên vợ. Tuy nhiên, nếu đất cha mẹ vợ hỗ trợ thì mức độ
hai vợ chồng cùng quyết định cao hơn (35,3%) so với đất do cha mẹ chồng hỗ trợ.
Bảng 2. Người có quyền quyết định việc sử dụng đất (%)
Đất bên bố mẹ
chồng hỗ trợ
Đất bên bố mẹ
vợ hỗ trợ
Vợ
Chồng
Con
cái
1
Người
khác
4
Tổng
70
Cả
hai
22,6
2,4
26,5
32,5
36
2
3
100
100
Nguồn: Kết quả điều tra đề tài 2021
Nguyên nhân kết quả kiểm định cho rằng học vấn có ảnh hưởng đến quyền
quyết định sử dụng đất do gia đình để lại. Càng lên những cấp học cao hơn thì vai trị
quyết định của người chồng trong hoạt động này càng thấp vì khi trình độ học vấn
càng cao người đàn ông thường giảm định kiến là nam giới có quyền quyết định
những việc lớn trong gia đình và khơng tham khảo ý kiến của vợ. Với người vợ thì
xu hướng ngược lại, càng học lên cao thì người vợ có quyền quyết định cao hơn so
với vì khi có trình độ học vấn càng cao, người phụ nữ càng ý thức được quyền được
bàn bạc với chồng những quyết định quan trọng. Đối với hai vợ chồng cũng vậy, nếu
học vấn càng cao thì sự bình đẳng trong việc đưa quyết định càng rõ.
Trong thực tế người chồng là người có quyền quyết định cao hơn người vợ
trong việc sử dụng, mua bán đất đai của gia đình (bao gồm đất cha mẹ hỗ trợ và đất
10
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
tự hai vợ chồng có được). Điều này khác với luật đất đai (2013) quy định “Quyền sử
dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng”. Như
ơng C.V.S nói “về tài sản đất đai, người chồng có quyền quyết định cao hơn vợ một
tí” hay ơng T. cũng khẳng định ơng là người quyết định chính trong việc mua thêm
đất đai do ơng có tính quyết đốn, và thương xun theo dõi, biết được thơng tin giá
đất.
Dù người chồng là người quyết định cuối cùng trong việc sử dụng đất đai
nhưng trước khi đi đến quyết định hệ trọng này hai vợ chồng thường bàn luận rất kỹ
(nhất là việc bán đất có liên quan đến sinh kế của gia đình). Gia đình bà L.T.H
(Phương Thượng- Lê Hồ- Kim Bảng- Hà Nam) là gia đình có mối quan hệ vợ chồng
khá bình đẳng trong các quyết định quan trọng. Bà nói vừa rồi chồng bà muốn mua
thêm một mảnh đất kia nhưng bà thấy không hợp lý vì bà biết mảnh đất đó khơng tốt,
sau khi nghe bà giải thích chồng bà đã nghe theo.
Kết quả khảo sát bảng câu hỏi định lượng cho thấy người chồng là người có
quyền quyết định chính trong việc sử dụng, mua bán đất đai (kể cả đất do cha mẹ vợ
hỗ trợ) nhưng bên cạnh đó tỷ lệ hai vợ chồng cùng bàn thảo để đưa đến quyết định
cũng khá cao, nhất là đối với những gia đình có trình độ học vấn cao. Tuy nhiên, bên
cạnh yếu tố giới, trình độ học vấn có tương quan chặt chẽ với tỷ lệ chồng, vợ quyết
định đối với vấn đề đất đai.
2.2.2 Quyền quyết định trong việc sản xuất và kinh doanh
Theo thông tin phỏng vấn trong hoạt động tạo ra thu nhập cho gia đình, trên
bình diện tổng thể, khó có thể khẳng định ai là người có quyền quyết định chính mà
tùy theo tính chất cơng việc kinh doanh, sản xuất của gia đình và chồng hay vợ là
người làm chính cơng việc đó thì chồng hoặc vợ là người quyết định chính. Đối với
cơng việc làm ruộng, vợ là người làm chính nên vợ là người ra quyết định chính.
Chẳng hạn như những gia đình ơng Đ.V.C, ông B.V.B, bà L.T.C.H, bà N.T.H.L… “
Đàn bà trong gia đình trực tiếp làm ruộng thì quyết định mùa này gieo giống lúa gì,
rải phân, xịt thuốc như thế nào. Hay quyết định mùa này có trồng hoa màu vụ đông
hay không cũng là do đàn bà. Đàn bà không làm chính sao có thể quyết định những
chuyện này. Tuy nhiên, thỉnh thoảng vợ chồng có bàn nên bán lúa hay không” (Bà
N.T.C, xã Lê Hồ).
11
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
Những gia đình ni gà, bị, heo như ơng bà H.V.N (xã Lê Hồ) đều do người
ông đảm trách nên người ông sẽ là người quyết định việc mua bán sản phẩm, mua
con giống, chăm sóc.
Với những hộ gia đình kinh doanh quần áo tại nhà như hộ bà C.T.T( Thị trấn
Quế) đều do bà đảm trách công việc nên sẽ quyết định việc chọn mẫu mã, số lượng,
quyết định giá bán của sản phẩm.
Với những hoạt động, sản xuất đã đi vào “nề nếp”, ai chịu trách nhiệm chính
sẽ là người đưa ra các quyết định liên quan đến công việc ấy.
Việc chồng thường là người quyết định việc chuyển đổi sinh kế của gia đình
hay quyết định mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh được các người trả lời giải thích
rằng đàn ơng có tính quyết đốn và có óc đầu tư trong sản xuất kinh doanh trong khi
người vợ thường sợ thất bại thiếu tính quyết đốn nên người chồng phải là người
quyết định cuối cùng “Chuyện làm ăn thì thường tơi quyết định vì tơi quyết đốn hơn
và mạnh dạn đầu tư và biết đầu tư. Đơi khi tơi có bàn với bà ấy nhưng bà hơi nhát,
bà không chịu, thành ra tôi phải quyết luôn”. Mặt khác, "đàn ông là người nắm rõ
tình hình kinh tế hơn do đàn ơng có giao tiếp rộng rãi hơn” (Ơng N.Đ.A, Xã Lê Hồ).
Bên cạnh đó, khuynh hướng cả hai vợ chồng cùng bàn thảo để mở rộng kinh doanh
cũng khá phổ biến. Gia đình bà N.T.L quyết định đầu tư mở qn tập hố kết hợp bán
bia khi đã có sự thống nhất của hai vợ chồng.
Với việc làm ăn của gia đình cả hai vợ chồng cùng bàn bạc để đưa ra quyết
định là xu hướng khá phổ biến trong các gia đình ở huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
Dù rằng do tính cách quyết đốn, có óc đầu tư lại là người trực tiếp sản xuất nên trong
các gia đình ở huyện Kim Bảng người chồng là người quyết định sau cùng. Nếu chỉ
dựa vào con số thống kê ai là người quyết định chính trong từng việc thì sẽ thấy người
chồng là người có quyền quyết định liên quan đến lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cao
hơn vợ, từ đó kết luận có sự bất bình đẳng trong mối quan hệ vợ - chồng hay quan hệ
giới là điều khiên cưỡng.
2.2.3 Quyền quyết định trong các công việc quan trọng của gia đình: vay
nợ, cách thức điều trị cho người bị ốm, tổ chức lễ cưới, lễ tang trong
gia đình, quan hệ với họ hàng láng giềng
Trong gia đình, người đàn ơng thường là người quyết định việc đầu tư mở rộng
sản xuất kinh doanh nên họ cũng là người quyết định việc vay vốn của gia đình. Trong
12
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
50 hộ khảo sát có 56% hộ vay vốn và 44% hộ không vay vốn. Việc vay vốn chủ yếu
do chồng quyết định (39%), vợ ít có vai trị quyết định đối với việc này (13%) mặc
dù khi vay ngân hàng luôn yêu cầu cả hai vợ chồng đứng tên.
Người vợ thường là người trực tiếp chăm sóc người bệnh nên sẽ là người quyết
định chính trong việc đưa ra cách thức điều trị cho người bệnh (25,6%), người chồng
ít có quyết định hơn (8,1%) trong khi xu hướng hai vợ chồng cùng bàn bạc để đưa ra
quyết định lớn (39,1%). Mặt khác, do phụ nữ với vai trị là người chăm sóc các thành
viên trong gia đình, tái sản xuất sức lao động cho gia đình nên là người quan tâm đến
những thơng tin sức khỏe, họ chủ động tìm kiếm thơng tin để có cách điều trị tốt nhất
cho người bị ốm trong gia đình. Vì vậy, họ là người quyết định chính trong vấn đề
này. Trong các hộ khảo sát, phần lớn khơng có xảy việc tang lễ (80,3%), trong số hộ
cịn lại (19,7%) thì có 11,3% người trả lời cho rằng cả hai vợ chồng cùng ra quyết
định đối với vấn đề tổ chức tang lễ trong gia đình.
2.2.4 Quyền quyết định trong việc học hành, định hướng nghề nghiệp
(chọn trường cho con) và hôn nhân của con cái
Con cái là người có quyết định chính trong việc học hành của mình (20,3%)
nhưng tỷ lệ vợ, chồng cùng bàn thảo để đưa ra quyết định chọn trường cho con là cao
nhất (27,2%) điều này cho thấy có sự thống nhất cao của hai vợ chồng. Chỉ có 5,6%
người trả lời cho rằng vợ là người ra quyết định trong việc chọn trường cho con. Con
cái cũng là người quyết định chính khi xin việc làm (30,9%). Đối với hôn nhân của
con cái, ngày nay cha mẹ vẫn có vai trị (16,9%), và trong đó người cha (8,8%) là
người có quyết định cao hơn mẹ (1,9%).
2.2.5 Quyền quyết định trong chi tiêu hằng ngày
Người vợ là người trực tiếp làm việc nội trợ, chăm sóc gia đình, là người quản
lý trong gia đình nên người vợ là người có quyền quyết định chính trong chi tiêu hàng
ngày (80,6%), kế đến là hai vợ chồng cùng quyết định ( 9,7%), người chồng ít tham
gia quyết định việc này ( 6,9%), con cái (0,9%) và người khác (1,9%).
Thông tin từ những cuộc phỏng vấn cho biết vì người vợ là người qn xuyến
cơng việc trong gia đình nên là người quyết định chính trong việc chi tiêu hàng ngày.
Ơng N.T.T (xã Lê Hồ) nói vợ ông là người quản lý chi tiêu cho gia đình từ năm 2001.
Ơng C.V.S (Thị Trấn Quế) cho rằng các khoản chi tiêu trong gia đình do người phụ
nữ quyết định “Vì bà ấy là cái hầu bao (là người giữ tiền) nên là người quyết định
13
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
việc chi tiêu. Tuy nhiên, để gia đình hạnh phúc thì vợ chồng nên trao đổi với nhau,
thí dụ như hơm nay là chi tiêu cái gì, hay cho con đóng tiền học phí hai vợ chồng đều
biết hết; cịn thường thường thì bà ấy quyết định cái vấn đề tài chính hơn, người vợ
đảm đang hơn nên đảm nhiệm việc giữ tiền và chi tiền”. Trong gia đình ơng N.V.S
(Thị Trấn Quế), mọi chi tiêu trong gia đình đều do vợ ơng quản lý. Ơng nói "mình
đàn ơng làm ra tiền chứ đâu giữ tiền, vợ chồng quan trọng phải tin tưởng nhau, thu
nhập bao nhiêu tôi mang về giao cho vợ giữ". Người vợ giữ tiền vì "đàn ơng có đi
đâu thì vợ đưa tiền bỏ túi là được rồi. Còn người vợ ở nhà phải lo mọi chi phí trong
gia đình từ việc mua hành, bột ngọt, nước mắm, đồ ăn, thức uống, đóng tiền học cho
con, mua sắm lặt vặt cho gia đình… kiểu đàn ơng mà giữ tiền, quyết định chi tiêu
hàng ngày là coi không được. Đàn ông mà giữ tiền kỳ lắm, khi có việc nói vợ đưa
tiền thì hay hơn”.
Như vậy, theo kết quả nghiên cứu, trong gia đình tùy theo cơng việc mà chồng
là người quyết định chính hay vợ là người quyết định chính. Quyền quyết định này
chịu ảnh hưởng từ tính chất cơng việc nhiều hơn là tính chất quyền lực của giới. Phần
lớn trong các gia đình ở nơng thơn huyện Kim Bảng- tỉnh Hà Nam, người chồng tạo
ra nguồn thu nhập và người vợ là người quản lý, quyết định các khoản chi. Nguồn
thu của người chồng không phải là yếu tố duy nhất quyết định sự giàu có hay nghèo
khó của một gia đình mà sự “vun vén” của người vợ cũng khơng kém phần quan
trọng. Người vợ có cách chi tiêu hợp lý, quản lý hiệu quả nguồn thu nhập chồng mang
về thì kinh tế của gia đình sẽ khá lên và ngược lại. Vậy trong mối tương quan giới
không thể nói người chồng có quyền lực hơn người vợ trong việc ra quyết định cho
những công việc của gia đình. Hầu hết, những người vợ, người chồng được phỏng
vấn cho rằng, có sự thỏa thuận ngầm giữa vợ và chồng trong việc phân công ai là
người ra quyết định cho những việc của gia đình. Cơ sở của sự quyết định này là dựa
trên lợi ích của gia đình. Người nào hiểu biết nhiều về lĩnh vực nào, làm chính cơng
việc nào và thường có những quyết định đúng thì sẽ là người quyết định cơng việc
đó. Phần lớn những cơng việc trong gia đình đều do hai vợ chồng bàn luận để cùng
ra quyết định là xu hướng phổ biến nơi các gia đình ở huyện Kim Bảng- tỉnh Hà Nam
ngày nay.
Ơng C.V.N (xã Văn Xá) nói rằng nếu những việc quan trọng trong gia đình cả
hai vợ chồng cùng bàn thảo để ra quyết định thì sáng suốt hơn do vợ hay chồng quyết
14
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
định “Tôi thấy chuyện ra quyết định điều gì trong gia đình nếu bàn cho kỹ do hai
người quyết định thì nó tốt hơn một người, bởi vì nhiều ý kiến nó hay hơn một ý kiến,
mà có nhiều khi quyết đốn có khi nó cũng sai chứ không phải đúng đâu, ai mà đúng
hết được, thành ra làm cái gì tơi thấy có vợ chồng bàn kỹ nhau thì nó tốt hơn”.
Tại cuộc trị chuyện nhóm nữ ở xã Lê Hồ đa số phụ nữ trả lời “Chuyện tiền
bạc trong gia đình chủ yếu do phụ nữ quản lý. Những chuyện chi tiêu cho các vấn đề
trong cuộc sống đều được hai vợ chồng bàn bạc, thông qua. Việc dạy dỗ con cái cũng
do cả hai vợ chồng đảm nhiệm. Nếu có đám tiệc, hai vợ chồng có ở nhà thì cùng đi,
chồng phải đi làm thì vợ đi hoặc ngược lại nhưng nếu đi hai vợ chồng thì tốt hơn
(hàng xóm đánh giá sự bền chặt trong tình cảm của vợ chồng đó)”.
Theo bà N.T.H (xã Lê Hồ): “gia đình nào phụ nữ biết đi làm kiếm được tiền
về cho gia đình sẽ chiếm ưu thế, có quyền phân cơng chồng, tại mấy bà cũng đã tự
lập được rồi mấy ông phải nghe thôi. Vấn đề kinh tế chi phối chứ không phải là cái
quan niệm nữa. Ví dụ như nhiều gia đình chồng nghèo cưới vợ giàu là vợ lấn quyền.
Tôi thấy ở xã Đồng Thái có nhiều trường hợp vợ đi làm kiếm được nhiều tiền hơn
chồng có quyền sai khiến chồng nữa”.
Ông T.X.P (xã Văn Xá) cho rằng: “khi mua sắm đồ đạc đắt tiền thường hai vợ
chồng cùng bàn bạc chứ khơng thể mình chồng hay mình vợ quyết định. Khơng phải
đàn ơng là trụ cột gia đình rồi có quyền quyết định tất cả. Đồng ý đàn ơng là người
kiếm tiền chính trong gia đình nhưng phụ nữ là người giữ tiền, sẽ là người cân đối
chi tiêu trong nhà nên chồng phải bàn qua. Hai vợ chồng thường thống nhất đàn ơng
quyết định, cịn đàn bà quản lý. Người ta thường nói đàn ơng như cái đăng, đàn bà
như cái đó, đàn ơng gom tiền về mấy bả quản lý cái chuyện chi tiêu hàng ngày”.
Dù có việc do người chồng quyết định chính, có việc do người vợ quyết định chính
nhưng tỷ lệ chồng và vợ cùng bàn bạc để quyết định chiếm tỷ lệ tương đối lớn nên
trong số 50 hộ khảo sát, vợ chồng ít mâu thuẫn nhau trong việc đưa ra các quyết định.
Nhìn chung, trong các gia đình ở huyện Kim Bảng- tỉnh Hà Nam, người vợ đã tham
gia bàn bạc với chồng để đưa ra quyết định về những công việc của gia đình nên giữa
họ ít khi xảy ra mâu thuẫn.
15
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy đã có sự biến đổi về quyền quyết định các vấn đề trong
gia đình Việt Nam, khác với trước đây là nam giới có quyền quyết định mọi việc, bất
chấp những ý kiến từ phụ nữ, thì nay ngày càng có sự bàn bạc, trao đổi giữa người
chồng và người vợ trước khi quyết định nhưng người chồng vẫn có quyết định nhiều
hơn. Tuy nhiên dư âm của định kiến giới vẫn cịn đó, cũng như những thói quen từ
xưa là người nam giới là chủ gia đình, nên về cơ bản nam giới vẫn là người quyết
định những vấn đề lớn, những vấn đề quan trọng trong gia đình, cũng như là người
đại diện gia đình đưa ra những quyết định đóng góp cho xã hội, trong việc bầu cử
cũng như các hoạt động ở nơi sinh sống. Nữ giới đã có thể tự do bày tỏ ý kiến của
mình xong những ý kiến đó chỉ ở mức đưa ra hướng giải quyết, chưa thể mang tính
chất quyết định, chỉ một phần những người phụ nữ có khả năng quyết định những
vấn đề lớn và đó là những người làm chủ kinh tế gia đình, có đóng góp lớn vào ngân
sách chung.
Trong hoạt động cộng đồng phụ nữ ngày càng tham gia nhiều hơn và cũng có
tiếng nói quan trọng hơn. Nữ giới có khả năng đưa ra những quyết định quan trọng
về công việc nội trợ cũng như việc ni dạy con cái, vì đó là thiên chức của người
phụ nữ là làm vợ và làm mẹ, vì vậy họ ln tận tâm với những cơng việc của gia đình
hơn người chồng.
Để một gia đình vận hành và phát triển lành mạnh người vợ, người chồng phải
thực hiện hai nhóm cơng việc: những cơng việc liên quan đến việc tạo ra nguồn thu
nhập và tái sản xuất sức lao động (chăm sóc sức khỏe, học tập, hơn nhân...).
Như đã phân tích ở trên, trong các gia đình ở huyện Kim Bảng- tỉnh Hà Nam,
người chồng hay người vợ là người đưa ra quyết định cuối cùng trong cơng việc gia
đình chịu sự chi phối của sự phân cơng lao động, trình độ học vấn, bối cảnh văn hóa
của gia đình, yếu tố quyền lực áp đảo mang tính chất giới khơng thể hiện rõ rệt trong
các quyết định này.Như vậy, khơng có sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc
ra quyết định các cơng việc của gia đình. Giữa hai vợ chồng khơng có mâu thuẫn lớn
trong việc đưa ra các quyết định.
16
SV: Chu Ngọc Thái
MSSV: 1753410399
Lớp: K5-QTKDA
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “ Một số khái niệm cơ bản về giới”,
2. “ Quyền quyết định của phụ nữ trong thực hiện các chức năng gia đình”, Học
viện phụ nữ Việt Nam
3. Mai Kim Châu (1986), “Phụ nữ Việt Nam trong gia đình nơng thơn”, Tạp chí Xã
hội học, số 2, tr.28-34.
4. Vũ Thị Cúc (2007), “Vấn đề thu nhập và quyền quyết định trong gia đình nơng
thơn hiện nay – Nghiên cứu trường hợp tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội”,
Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, số 6, tr.41-52.
5. Trương Phúc Hưng (2008), “Phân tích vai trị giới và ảnh hưởng của nó tới sự
ra quyết định”, Http://repositories.vnu.edu.vn.
6. Vũ Thị Thanh (2009), “Bất bình đẳng giới giữa vợ và chồng trong gia đình nơng
thơn Việt Nam hiện nay – Qua khảo sát tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội”,
Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, số 1, tr.35-46.
7. Vũ Mạnh Lợi, ctv (2013), “Phân công lao động và quyền quyết định trong gia
đình nơng thơn đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình & Giới, số 1,
tr.3-16.
8. “ Quyền quyết định của phụ nữ và nam giới trong gia đình và ngồi xã hội”,
9. “ Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền quyết định của vợ và chồng đối với các công
việc quan trọng của gia đình: Những phát hiện mới từ Điều tra Gia đình 2017”
Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, />
17