MỤC LỤC
I. Nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao?
8. Mỗi tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp.
Nhận định sai. Mỗi tội phạm có thể có nhiều khách thể trực tiếp nhưng chỉ có
một khách thể trực tiếp chính vì khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội
cụ thể bị loại tội phạm cụ thể trực tiếp xâm hại.
Ví dụ: Tội cướp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 168 BLHS có hai quan
hệ xã hội là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu đồng thời bị xâm hại và cả hai
quan hệ này đều là khách thể trực tiếp.
Nhận định sai. Vì
Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm cụ thể xâm hại
mà sự xâm hại này phản ánh được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm đó.
Có tội phạm chỉ có 1 khách thể trực tiếp, nhưng cũng có tội phạm có nhiều
khách thể trực tiếp. Đó là trường hợp tội phạm xâm hại nhiều quan hệ xã hội và gây
thiệt hại cho một trong các quan hệ xã đó đều chưa thể hiện được tính đầy đủ tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
VD: quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân đều là khách thể trực tiếp của tội
cướp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 168 BLHS
9. Mọi tội phạm, suy cho cùng, đều xâm hại đến khách thể chung.
Nhận định đúng. Vì khách thể chung của tội phạm là những quan hệ xã hội
được Luật Hình sự bảo vệ khỏi sự xâm phạm của tội phạm. Khách thể của tội phạm
chính là đối tượng bảo vệ được quy định ở Điều 1 và Khoản 1 Điều 8 BLHS. Khách
thể chung của tội phạm là thống nhất với tất cả các tội phạm như tội phản quốc, tội
giết người… đều xâm phạm đến khách thể chung. Vì vậy, suy cho cùng mọi tội
phạm đều xâm phạm đến một khách thể chung là các quan hệ xã hội được Luật
Hình sự bảo vệ.
Ví dụ: Tội trộm cắp tài sản xâm hại đến quan hệ sở hữu, tội giết người xâm
phạm đến quan hệ nhân thân, tội cướp tài sản xâm phạm đến hai quan hệ xã hội đó
là quan hệ nhân thân và sở hữu.
10. Một tội phạm nếu trên thực tế đã làm cho đối tượng tác động của tội
phạm tốt hơn so với tình trạng ban đầu thì khơng bị coi là gây thiệt hại cho xã
hội.
Nhận định sai. Vì hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng bình thường của đối
tượng tác động gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm.
Việc xâm hại đến các quan hệ xã hội bằng cách tác động đến các đối tượng tác động
khơng đồng nghĩa là các đối tượng tác động đó luôn bị thiệt hại cùng với các quan
hệ xã hội. Trên thực tế có những trường hợp dù đối tượng tác động có trở nên tốt
hơn so với tình trạng ban đầu nhưng khách thể vẫn bị xâm hại nên vẫn bị coi là gây
thiệt hại cho xã hội.
Ví dụ: A vào nhà B ăn trộm điện thoại cũ đem về tân trang thay màn hình, dán
ốp lưng nên điện thoại đã tốt hơn nhiều so với ban đầu. Nhưng hành vi trộm cắp tài
sản đó của A đã gây thiệt hại đến quyền sỡ hữu của B cụ thể là từ đang sỡ hữu điện
thoại mà bị mất. Do đó hành vi của A vẫn gây thiệt hại cho xã hội.
2
15. Phương tiện phạm tội của Tội đua xe trái phép (Điều 266 BLHS) là xe ô
tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ.
Nhận định đúng. Căn cứ khoản 1 Điều 266 BLHS quy định xe ô tô, xe máy
hoặc các loại xe khác có gắn động cơ để thực hiện hành vi được quy định trong điều
này là Tội đua xe trái phép. Xe ô tơ, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ là
phương tiện phạm tội của Tội đua xe trái phép vì nó chịu tác động của người thực
hiện hành vi và thơng qua sự tác động đó gây thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại đến
khách thể.
16. Mọi xử sự của con người gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã
hội đều được coi là hành vi khách quan của tội phạm.
Nhận định sai. Vì để một hành vi được xem là hành vi khách quan của tội phạm
thì phải thỏa mãn 3 điều kiện sau:
- Hành vi khách quan của tội phạm phải có tính nguy hiểm cho xã hội tức phải
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội do Luật Hình sự bảo
vệ.
- Hành vi khách quan của tội phạm phải là hoạt động có ý thức và ý chí của con
người.
- Hành vi khách quan của tội phạm phải là hành vi trái pháp Luật Hình sự tức
những hành vi bị Luật Hình sự cấm và quy định hành vi đó là tội phạm.
Ví dụ: A trong một lần mộng du đã gây thương tích cho B (trên 11%).
II. Bài tập
Bài tập 9
Chị Y vừa được công ty thương mại X tuyển vào làm thủ quỹ. Biết rõ việc
này, ba tên A, B, C (đã thành niên và đều là thành phần thất nghiệp, nghiện
ngập) đã chặn đường chị Y đòi Y phải giao nộp cho chúng 5 triệu đồng, nếu
không chúng sẽ tố cáo hành vi tham ô mà chị Y đã thực hiện trước đây ở một
cơ quan nhà nước. Lo sợ bị mất việc làm, chị Y đã tự ý lấy số tiền 5 triệu trong
công quỹ của công ty X và giao cho bọn chúng. Vụ việc bị phát hiện.
Anh (chị) hãy xác định: chị Y có được coi là bị cưỡng bức khơng? Nếu có
thì là loại cưỡng bức gì và có ảnh hưởng như thế nào đến trách nhiệm hình sự
của Y?
Trả lời:
Chị Y được xem là bị cưỡng bức vì đã bị sử dụng thủ đoạn đe dọa về tinh thần
bắt chị làm việc trái với ý muốn của mình.
Đây là loại cưỡng bức về mặt tinh thần đối với chị Y. Cưỡng bức về tinh thần là
trường hợp dùng lời nói hoặc bằng cách nào khác đe dọa, uy hiếp tinh thần, tác
động đến ý chí người khác, nhằm buộc họ phải làm hoặc không được làm một việc
gì đó. Cưỡng bức là hợp pháp khi luật pháp cho phép làm và do người có thẩm
quyền thực hiện.
Trách nhiệm hình sự của chị Y, căn cứ điểm k khoản 1 Điều 51 BLHS là phạm
tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Dù
chị Y bị A, B, C cưỡng bức nhưng chưa đến mức làm cho chị Y tê liệt ý chí cụ thể là
3
chị có khả năng tìm biện pháp khác tốt hơn nên chị Y vẫn chịu trách nhiệm hình sự
nhưng được coi là phạm tội vì do đe dọa hoặc cưỡng bức.
Bài tập 10
A có nhiệm vụ quản lý và bảo vệ khu rừng của nông trường X. B đã nhiều
lần vào khu rừng trên để chặt trộm cây bạch đàn. Một buổi nọ, A bắt quả tang
B đang chặt trộm bạch đàn. A buộc B phải về trụ sở của nông trường để xử lý
theo quy định. B xin tha nhưng A không chấp nhận. Trên đường trở về trụ sở
nơng trường, lợi dụng trời tối và đoạn đường khó đi, B đã dùng rìu chặt cây
chém hai nhát vào đầu A làm A té quỵ, B tiếp tục chém nhiều nhát vào vùng
ngực và mặt của A. Khi thấy A nằm bất động B xách rìu đi về phía rừng. Một
lúc sau có người phát hiện và A đã được cứu sống. Giấy chứng thương ghi
nhận A bị thương tật với tỷ lệ 65%.
Biết rằng hành vi của B cấu thành 2 tội: tội giết người (Điều 123 BLHS) và
tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS).
Anh (chị) hãy xác định:
1. Đối tượng tác động và khách thể của tội phạm do B thực hiện.
2. Công cụ phạm tội trong vụ án này là gì? Dấu hiệu cơng cụ phạm tội có
phải là dấu hiệu định tội của các tội phạm trên hay không? Tại sao?
3. Loại hậu quả do hành vi phạm tội của B gây ra?
4. Lỗi của B trong việc gây thương tích cho A? Tại sao?
Trả lời:
1. Đối tượng tác động của tội phạm do B thực hiện là A và cây bạch đàn.
Khách thể của tội phạm do B thực hiện là sức khỏe, tính mạng và tài sản bị xâm
hại cụ thể là sức khỏe, tính mạng của A và tài sản là cây bạch đàn của nông trường
X.
2. Công cụ phạm tội trong vụ án này là cái rìu chặt cây.
Trong một số tội phạm thì dấu hiệu cơng cụ phạm tội là dấu hiệu định tội của
tội phạm đó. Nhưng trong tình huống này thì đối với tội giết người (Điều 123
BLHS) và tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS) thì dấu hiệu cơng cụ phạm tội
khơng được quy định là dấu hiệu định tội của tội phạm trên. Do cơng cụ này khơng
có tính chất quy định tội phạm và trong các tội danh trên thì việc sử dụng cơng cụ gì
khơng ảnh hưởng đến việc định tội danh. Nên dấu hiệu công cụ phạm tội trong
trường hợp này không là dấu hiệu định tội của các tội phạm trên.
3. Loại hậu quả do hành vi phạm tội của B gây ra là:
- Thiệt hại về vật chất: hành vi chặt trộm cây bạch đàn của B làm mất đi một
lượng cây bạch đàn.
- Thiệt hại về thể chất: hành vi dùng rìu để chém A đã khiến A bị ảnh hưởng đến
sức khỏe và bị thương tật với tỷ lệ 65%.
4. Lỗi của B trong việc gây thương tích cho A thuộc lỗi cố ý trực tiếp vì:
- Về lý trí:
+ Đối với hành vi: B nhận thức rõ tính chất nguy hiểm từ hành vi do mình
thực hiện (hành vi B dùng rìu chém A).
4
+ Đối với hậu quả: B thấy trước hậu quả từ hành vi của mình tất yếu xảy ra
hoặc có thể xảy ra (B có thể biết hành vi của mình sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe,
tính mạng của A).
- Về ý chí: B mong muốn cho hậu quả xảy ra.
Bài tập 11
Do mâu thuẫn với mẹ ruột mình (bà Liêu), sau một hồi cãi vã với mẹ,
Trung liền mang can nhựa đi mua 3 lít xăng đem về nhà. Lúc này cháu Thảo
(con gái Trung) đang ngủ trên giường, chị Xuân (vợ Trung) đang bế đứa con
gái 2 tuổi là cháu Vy. Thấy Trung tay cầm can xăng với thái độ rất hung hăng,
chị Xuân liền can ngăn, nhưng Trung gạt chị Xuân ra, vừa quát: “Tao đốt nhà
rồi trả cho bà Liêu”, vừa tưới xăng lên nền nhà và vách nhà bằng gỗ. Chị Xuân
một tay bế con, một tay giật can xăng trên tay Trung. Tức thì Trung bật quẹt,
lửa bùng cháy. Sau đó hàng xóm đến can ngăn và dập lửa.
Kết quả là cháu Vy bị bỏng nặng và chết ngay sau đó. Chị Xuân và Trung
cũng bị bỏng nhưng thoát chết (chị Xuân bị bỏng nặng với tỷ lệ thương tật là
41%). Một phần vách nhà và tài sản trong nhà (gồm giường, tủ, bàn ghế) bị
cháy, thiệt hại về tài sản là 10 triệu đồng.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của Trung là gì?
2. Hành vi của Trung đã xâm phạm khách thể trực tiếp nào?
3. Xét về hình thức thể hiện, hành vi phạm tội của Trung thuộc loại nào?
4. Loại hậu quả do hành vi phạm tội của Trung gây ra là gì? Mức độ thiệt
hại của mỗi loại hậu quả là như thế nào?
5. Dạng quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm trong vụ
án này. Tại sao?
6. Lỗi của Trung đối với từng loại thiệt hại trong vụ án trên? Tại sao?
Trả lời:
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của Trung là cháu Vy, chị Xuân,
một phần vách nhà và tài sản trong nhà (gồm giường, tủ, bàn ghế) bị cháy.
2. Hành vi của Trung đã xâm phạm khách thể trực tiếp là tính mạng, sức khỏe
của con người và tài sản cụ thể là tính mạng của cháu Vy, sức khỏe của chị Xuân,
một phần vách nhà và tài sản trong nhà.
3. Hành vi phạm tội của Trung thuộc hành động phạm tội.
- Thiệt hại về tài sản là lỗi cố ý trực tiếp.
- Lỗi gây chết người, tổn hại sức khỏe người khác là lỗi cố ý gián tiếp.
4. Loại hậu quả do hành vi phạm tội của Trung gây ra là thiệt hại về vật chất và
thiệt hại về thể chất.
- Mức độ thiệt hại về vật chất: một phần vách nhà và tài sản trong nhà (gồm
giường, tủ, bàn ghế) bị cháy, thiệt hại về tài sản là 10 triệu đồng.
- Mức độ thiệt hại về thể chất: cháu Vy bị bỏng nặng và chết ngay sau đó, chị
Xuân bị bỏng nặng với tỷ lệ thương tật là 41%.
5
5. Dạng quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm trong vụ án
này là mối quan hệ nhân quả đơn trực tiếp. Bởi trong vụ việc trên chỉ có một hành
vi trái pháp luật đó là việc đốt nhà của Trung dẫn đến hậu quả thiệt hại về tính mạng
của cháu Vy, sức khỏe của chị Xuân, một phần vách nhà và tài sản trong nhà.
6. Lỗi của Trung đối với từng loại thiệt hại trong vụ án trên là:
- Lỗi cố ý trực tiếp đối với thiệt hại về tài sản vì Trung cố tình đốt nhà và gây
thiệt hại đối với căn nhà của bà Liêu. Trung biết được hành vi của mình là nguy
hiểm, thấy trước hậu quả sẽ cháy nhà và mong muốn hậu quả đó xảy ra (khoản 1
Điều 10 BLHS).
- Lỗi cố ý gián tiếp đối với thiệt hại về tính mạng của cháu Vy và sức khỏe của
chị Xn vì Trung có khả năng nhận thức được hành vi của mình sẽ gây nguy hiểm
đến vợ và con, thấy trước hậu quả sẽ xảy ra dù không mong muốn nhưng lại mặc
cho hậu quả đó xảy ra (khoản 2 Điều 10 BLHS).
6