BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
Đề tài: BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC SUY ĐỐN VƠ TỘI THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
1
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ............................................................................................................................3
1. Suy đốn vơ tội – “Ngun tắc vàng” trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo quyền
con
người
.................................................................................
…………………………….3
2. Quyền được suy đốn vơ tội theo Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam .........................6
3. Thực tiễn áp dụng quyền được suy đốn vơ tội – Khoảng trống cần được lấp
đầy
......................................................................................................
……………………...9
TÀI
LIỆU
KHẢO..............................................................................................12
2
THAM
Mở đầu
Ghi nhận và bảo đảm quyền con người trên thực tế là biểu hiện của một Nhà
nước tiến bộ, dân chủ, văn minh. Trong TTHS quyền con người dễ bị xâm phạm nhất
và hậu quả của sự xâm phạm đó thường là rất nghiêm trọng cả về vật chất, thể chất và
tinh thần. Bảo đảm quyền con người được thực hiện trong pháp luật TTHS bằng các
quy định đúng đắn, hợp lý, khả thi và đảm bảo thực hiện các quy định đó trên thực tế
là quan trọng nhất. Có thể nói trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, việc nghiên cứu hoàn
thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) liên quan đến bảo đảm
quyền con người, đánh giá việc thực hiện các quy định đó trên thực tế để từ đó đưa ra
các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng là một trong
những nội dung quan trọng của việc nghiên cứu bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự hiện nay.
Trong tố tụng hình sự (TTHS), người bị truy cứu trách nhiệm hình sự dễ có
nguy cơ bị xâm hại quyền con người và có thể bị kết án oan. Không phải bất cứ ở đâu
hay lúc nào các cơ quan tiến hành tố tụng cũng thể hiện được (dựng lại) tồn bộ tình
tiết, diễn biến vụ án đã xảy ra đúng hoàn toàn với thực tế. Do vậy, thực tiễn đã chỉ ra
rằng, còn nhiều vụ án oan sai xảy ra trong TTHS. Có oan sai thì tất yếu có vi phạm
quyền con người. Để hạn chế đến mức thấp nhất vi phạm quyền con người, pháp luật
đặt ra nguyên tắc, trình tự, thủ tục chặt chẽ buộc các cơ quan, người tiến hành tố tụng
và các cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuyệt đối tuân thủ. Trong số các nguyên tắc,
quy định đó có ngun tắc suy đốn vơ tội.
Vì vậy, việc nghiên cứu nội dung bảo đảm quyền suy đoán vơ tội theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
1. Suy đốn vơ tội - “Ngun tắc vàng” trong tố tụng hình sự nhằm đảm
bảo quyền con người
Theo Từ điển Bách khoa luật học, suy đốn vơ tội là trạng thái mà theo đó
người bị buộc tội được suy đốn vơ tội trong khi việc phạm tội của người đó chưa
được chứng minh theo trình tự luật định.
3
Theo Từ điển Bách khoa đương đại, suy đốn vơ tội là một trong những nguyên
tắc của nền tố tụng dân chủ, theo đó người bị buộc tội được suy đốn vơ tội trong khi
việc phạm tội của người đó chưa được chứng minh theo trình tự luật định và chưa
được xác định bởi phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án.
Suy đốn vơ tội theo tiếng Anh là “presumption of innocence”. Thuật ngữ này
cịn có tên gọi khác là “the right to be presumed innocent”, với nghĩa là quyền được
giả định vơ tội, theo đó, người bị cáo buộc thực hiện một tội phạm được coi (được giả
định) là khơng có tội cho đến khi cơ quan cơng tố thuyết phục được Tịa án rằng bị cáo
đã phạm tội.
Suy đốn vơ tội xuất hiện lần đầu tiên ở thời La Mã cổ đại vào thế kỷ thứ VI
khi hồng đế La Mã ban hành bản tóm lược Luật La Mã với nội dung: “Chứng minh là
công việc thuộc về anh ta – người khẳng định chứ khơng phải là người phủ định”. Sau
đó, trong các triều đại La Mã, nguyên tắc này được áp dụng trong quá trình xét xử hình
sự và bắt đầu khẳng định nghiã vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội và một hệ quả tất
yếu là bị cáo luôn được coi là vô tội. Ở châu Âu, tư tưởng về suy đốn vơ tội đầu tiên
được thể hiện trong tác phẩm “Tội phạm và hình phạt” năm 1764 của Bekaria (người
Ý). Cách mạng tư sản Pháp trong Tuyên ngôn quyền con người và công dân 1789 đã
ghi nhận tư tưởng này với tư cách là một nguyên tắc pháp lý. Tuy nhiên, chỉ đến khi
cách mạng tư sản Pháp 1789 bùng nổ, tư tưởng này mới được ghi nhận như là một
nguyên tắc của pháp luật. Đây có thể coi là thành tựu của tố tụng hình sự, là dấu son
nhằm bảo vệ quyền của người bị tình nghi.
Nguyên tắc suy đốn vơ tội đã được ghi nhận trong Tun ngơn thế giới về
quyền con người năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm
1966 của Liên hợp quốc. Theo đó,:“Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền suy
đốn là khơng phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình tự
do pháp luật quy định bằng phiên tịa xét xử cơng khai của Tịa án với sự bảo đảm đầy
đủ khả năng bào chữa của người đó”.
Thực tế đã chứng minh khơng phải lúc nào và ở đâu đánh giá của cơ quan tố
tụng cũng đúng. Để tránh án oan, người tiến hành tố tụng phải áp dụng triệt để tư duy
suy đốn vơ tội. Trên thế giới, ngun tắc suy đốn vơ tội đã được nhiều nước ghi
nhận và là xương sống của các hoạt động tố tụng hình sự với nhiều cách diễn đạt khác
nhau.
Ở Liên bang Nga, ngun tắc suy đốn vơ tội được quy định tại Điều 49 Hiến
pháp và Điều 14 của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Liên bang Nga năm 2001.
Theo đó, bị can được coi là khơng có tội, chừng nào lỗi của họ khơng được chứng
4
minh theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và khơng bị Tịa án tun
phạt bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị tình nghi hoặc bị can khơng có
nghĩa vụ chứng minh sự vơ tội của mình. Vấn đề chứng minh tội phạm và bác bỏ
những chứng cứ nhằm bảo vệ cho người bị tình nghi hoặc bị can thuộc trách nhiệm
của bên buộc tội. Mọi nghi ngờ về tội phạm của bị can nếu khơng được loại trừ theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì phải được giải thích có lợi cho bị can. Bản
án kết tội khơng thể được dựa trên giả định. Điều đó cho thấy, pháp luật tố tụng hình
sự của Liên bang Nga đã chính thức ghi nhận ngun tắc suy đốn vơ tội theo tên gọi
của điều luật và ghi nhận đầy đủ bốn nội dung của nguyên tắc này. Còn tại Điều 11.d
của Hiến chương về quyền và tự do (đây là một bộ phận của Hiến pháp Canada) cũng
ghi nhận bất kỳ người nào bị buộc tội phạm một tội đều có quyền suy đốn vơ tội cho
đến khi được một Tịa án độc lập và cơng bằng xét xử một cách công khai theo quy
định của pháp luật.
Nguyên tắc suy đốn vơ tội có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo nhằm đảm
bảo quyền con người trong quá trình thực hiện các thủ tục tố tụng, thể hiện ở những
nội dung sau:
Thứ nhất, ngun tắc suy đốn vơ tội đáp ứng yêu cầu chứng minh
Chứng minh trong tố tụng hình sự là hoạt động cực kỳ phức tạp, khơng chỉ là
những hành vi khách quan, những hậu quả thực tế mà còn cả những yếu tố tâm lý của
người phạm tội. Nếu chứng minh theo hướng suy đốn có tội sẽ kéo theo những hệ lụy
sai lầm nghiêm trọng của hoạt động tố tụng, dẫn đến áp dụng các biện pháp cưỡng chế
tố tụng tràn lan, là nguyên nhân gây ra các vụ án oan sai. Đối với giới luật sư, nguyên
tắc này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là chìa khóa đi tìm sự cơng bằng trong tố
tụng, chống lại sự tùy tiện, ép buộc trong truy tố, dẫn đến việc oan sai. Quan điểm của
người tiến hành tố tụng phải xuất phát từ suy nghĩ ban đầu là người đó khơng có tội,
sau đó mới đến các việc khác. Phải quy định khi điều tra, điều tra viên phải chú ý đến
những tình tiết ngoại phạm của người đó, bảo đảm xuất phát từ vơ tội, phải chú ý đến
những tình tiết chứng minh họ khơng phạm tội.
Thứ hai, ngun tắc suy đốn vơ tội cịn bảo vệ được quyền của người bị tình
nghi, bị can, bị cáo.
Tố tụng hình sự nhằm chống lại hành vi xâm hại từ phía tội phạm, nhưng đồng
thời lại phải bảo vệ cá nhân người bị buộc tội chống lại sự xâm hại quyền con người từ
phía cơng quyền. Người bị tình nghi, bị can, bị cáo là người yếu thế, cần phải được
bảo vệ khỏi sự lạm quyền của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử. Quyền con người,
quyền công dân là quyền tối thượng, do đó khi cơ quan điều tra, truy trố, xét xử không
5
đủ hoặc không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, phải thực hiện ngun tắc "suy đốn
vơ tội" đối với bị can, nếu khơng sẽ dẫn đến tình trạng oan, sai. Thực tế đã chứng
minh, một người bị oan sai sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cả gia đình và dịng họ. Do đó, áp
dụng ngun tắc “suy đốn vơ tội” là hồn tồn cần thiết. Khi khơng đủ và không thể
làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố 5 tụng hình
sự quy định, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo khơng có tội.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng đã quy định chức năng,
nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong đó có nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; đảm bảo mọi hành vi phạm tội,
người phạm tội phải xử lý theo đúng pháp luật; không để người nào bị khởi tố, bị bắt
tạm giữ, tạm giam, hạn chế quyền con người, quyền công dân trái quy định pháp luật.
2. Quyền được suy đoán vô tội theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam
Ở nước ta, ngun tắc suy đốn vơ tội đã được đề cập trong một số văn bản quy
phạm pháp luật trước đó. Thơng tư số 2252/HCTP ngày 29/10/1953 đã hướng dẫn:
“Khơng nên có định kiến rằng hễ người bị truy tố là nhất định có tội mà đối xử như
người có tội; bị can trước khi tuyên án được coi như vơ tội để tồ án có thái độ hồn
tồn khách quan”. Thơng tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tồ án Nhân dân tối cáo
đã đưa ra hướng dẫn có tính ngun tắc trong hoạt động xét xử của tồ án như sau:
“Việc xét hỏi tại phiên toà nhằm trực tiếp và công khai thẩm tra lại các chứng cứ của
vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử phải xét hỏi một cách đầy đủ, khách quan, cần tránh tư
tưởng quá tin vào hồ sơ mà coi nhẹ tác dụng của việc xét hỏi tại phiên toà, hoặc cho
rằng xét hỏi chỉ nhằm buộc tội bị can phải nhận những lời mà họ đã khai ở cơ quan
điều tra”. BLTTHS đầu tiên của nước ta (1988) đã tiếp thu tư tưởng về suy đốn vơ tội
và ghi nhận tại Điều 10: “Khơng ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của tịa án đã có hiệu lực pháp luật”. Tuy nhiên, ngun tắc suy
đốn vơ tội khơng được lột tả hết nội dung của nó trong BLTTHS 1998, 2003 do
khơng ghi nhận chính thức ngun tắc này.
Trong Hiến pháp 1992, ngun tắc suy đốn vơ tội cũng đã được ghi nhận tại
Điều 72: “Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị tạm 6 giữ, bị truy tố, xét xử trái
pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người
làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác
phải bị xử lý nghiêm minh”
6
Hiến pháp 2013 quy định quyền được suy đốn vơ tội rõ ràng hơn, trực tiếp hơn
trong Điều 31: “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Như vậy, chủ thể của quyền được suy đốn vơ tội được xác định rõ, đó chính là “người
bị buộc tội”. Đó chính là các chủ thể được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một
trong những giai đoạn được quy định trong BLTTHS.1 Đây không chỉ đơn thuần là
việc đổi mới về kỹ thuật lập pháp mà thể hiện việc tôn trọng và thực hiện Công ước
quốc tế mà của Đảng và Nhà nước ta, địng thời hiện thực hóa những chủ trương,
chính sách ngày càng quan tâm hơn tới việc đảm bảo quyền con người.
Thể chế hóa Điều 31 Hiến pháp 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc suy đốn vơ tội
như sau:
“Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu
lực pháp luật.
Khi khơng đủ và khơng thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự,
thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội”
Như vậy, ngun tắc suy đốn vơ tội có ba nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án có hiệu
lực pháp luật
Q trình chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi có tố giác, tin báo về tội
phạm và thông qua các thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động
điều tra, kết thúc điều tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét
xử, điều tra cơng khai tại phiên tịa. Nếu có căn cứ để kết tội thì Tịa án sẽ ra bản án kết
tội. Một người chỉ có thể bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật, tức là bản án của tòa án đã tuyên đối với người này là có tội và bản án đó
khơng bị kháng cáo khàng nghị, khơng có căn cứ để giá đốc thẩm hay tái thẩm bản án.
Pháp luật tố tụng hình sự yêu cầu tội phạm nào cũng phải được chứng minh theo trình
tự, thủ tục do luật định, nhằm đảm bảo ngun tắc suy đốn vơ tội được thực hiện trên
thực tế.
Quy định trên cũng khẳng định nguyên tắc một người bị tam giữ, tạm giam,
thậm chí đã xét xử sơ thẩm thì vẫn chưa phải là người có tội. Và sẽ thật sai lầm nếu đối
xử với họ như một người có tội. Việc ghi nhận nguyên tắc suy đốn vơ tội chính là cơ
sở nhằm khắc phục sự định kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến
7
hành tố tụng đối với người bị tình nghi, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo
đồng thời còn tạo điều kiện để những người này thực hiện quyền bào chữa của mình.
Điều 31 Hiến pháp 2013 cũng khẳng định chỉ Tồ án mới có quyền tun bố
một người phạm một tội nào đó, ngun tắc suy đốn vơ tội cịn thể hiện quyền được
xét xử cơng bằng của bất kỳ người bị buộc tội nào: “2. Người bị buộc tội phải được
Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét
xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai. 3. Không ai bị kết
án hai lần về một tội phạm”. Quy định này góp phần làm hệ thống pháp luật Việt Nam
ngày càng tương thích với các quy định của văn kiện nhân quyền quốc tế, trong đó có
điều 10 Tun ngơn thế giới về quyền con người năm 1948 “Mọi người đều bình đẳng
về quyền được xét xử cơng bằng và cơng khai bởi một Tòa án độc lập và khách quan
để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như bất cứ sự buộc tội nào đối với
họ”.
Thứ hai, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Người bị tình nghi, bị can, bị cáo khơng có nghĩa vụ chứng minh sự vơ
tội của mình. Đây chính là ngun tắc xác định sự thật của vụ án được quy định ở
Điều 10 Bộ luật TTHS: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến
hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vơ
tội”.
Như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh một người đã thực
hiện hành vi vi phạm luật hình sự. Quá trình chứng minh được thực hiện ở cả ba giai
đoạn độc lập của quá trình tố tụng: điều tra, truy tố, xét xử. Các chủ thể có nghĩa vụ
chứng minh ở các giai đoạn này phải chịu trách nhiệm về việc chứng minh đó, hướng
tới mục đích đảm bảo việc kết tội được chính xác, không làm oan người vô tội. Nếu cơ
quan điều tra cịn chưa chắc chắn về chứng cứ thì khơng ra kết luận điều tra, nếu Viện
kiểm sát còn băn khoăn về hồ sơ vụ án thì khơng ra cáo trạng, nếu thấy chưa đủ chứng
cứ thì tịa khơng kết tội. Như vậy, “ai đưa ra lời buộc tội thì người đó phải chứng
minh” là nguyên tắc quan trọng nhằm đảm bảo quyền được suy đốn vơ tội của người
bị buộc tội. Suy đốn vơ tội được thừa nhận cho đến khi bản án kết tội của Tịa án có
hiệu lực pháp luật.
Quyền suy đốn vơ tội cần phải là điều đầu tiên mà những người tiến hành tố
tụng nghĩ tới khi thực thi nhiệm vụ. Trong quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ
án, người tiến hành tố tụng phải thu thập cả chứng cứ buộc tội lẫn gỡ tội. Khi không
đủ bằng chứng hoặc không chứng minh được hành vi phạm tội thì phải suy đốn theo
hướng ngược lại.
8
Thứ ba, mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình
nghi, bị can, bị cáo nếu khơng được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo.
Ngun tắc suy đốn vơ tội địi hỏi mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị
can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không 9 chứng minh làm
rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được
giải thích theo hướng có lợi cho họ. Ở các giai đoạn tố tụng, đến một thời hạn nhất
định, các cơ quan tố tụng vẫn không thể chứng minh được tội phạm thì phải xác định
là bị can, bị cáo vơ tội. Từ chỗ đang suy đốn có tội, nếu khơng đủ chứng cứ thì phải
trở thành suy đốn vơ tội. Khi nào phát hiện vụ án có tình tiết mới thì đưa ra xem xét
lại.
3. Thực tiễn áp dụng quyền được suy đốn vơ tội – Khoảng trống cần được
lấp đầy
Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ “…vẫn cịn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam
giữ, truy tố, xét xử”. Trong thực tế hoạt động tố tụng hình sự có nhiều người bị buộc
tội, bị truy tố trước Tịa án nhưng Tịa án khơng kết tội, bản án của Tòa án đã tuyên bố
người bị buộc tội không phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Thời gian qua có khơng ít
vụ án hình sự “được” kéo dài thời hạn tố tụng để “chứng minh được tội phạm”, một
trong những nguyên nhân khiến thời hạn tạm giữ, tạm giam thường bị vi phạm trong
thực tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do của công dân và gây nên những bức
xúc cho quá trình tố tụng từ phía bị can, bị cáo, thân nhân của họ và cả xã hội. Theo
Báo cáo tổng kết công tác Tịa án hàng năm của TANDTC thì năm 2013, Tịa án trong
cả nước tuyên án 21 người không phạm tội và năm 2015 đã tuyên án 22 người không
phạm tội. Kết quả này cho thấy, không phải người buộc tội nào cũng là người bị kết
tội.
Số liệu thống kê cho thấy, trong giai đoạn sơ thẩm, từ 2005-2009, Tòa án sơ
thẩm đã ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với 1.633 vụ/2.403 bị cáo;
có 201 bị cáo được tuyên không phạm tội và 198 bị cáo được miễn trách nhiệm hình
sự. Riêng trong năm 2008, tỷ lệ bản án, quyết định về hình sự bị hủy là 0,6%, bị sửa là
4,6%. Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án đối với
743 bị cáo, trong đó đã tun 620 bị cáo khơng có tội và đình chỉ vụ án.
Tuy nhiên, trong thực tế có người bị buộc tội đã có bản án có hiệu lực pháp luật
nhưng người bị kết án đó vẫn được quyền suy đốn là mình vơ tội, đó là khi họ bị kết
án oan. Những vụ án oan điển hình trong những năm gần đây đã chứng tỏ quyền được
9
suy đốn vơ tội của người bị buộc tội đã bị vi phạm nghiêm trọng. Hàng chục nghìn tỷ
đồng đã được quyết định chi trả để bồi thường cho những công dân bị hệ thống tư làm
oan như “người tù thế kỷ” Huỳnh Văn Nén, ông Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang),
ơng Lương Ngọc Phi (Thái Bình), ơng Đinh Quang Điền (Đắk Lắk)…
Ví dụ thứ nhất: Vụ án oan đối với ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang. Theo
đó ông Nguyễn Thanh Chấn (sinh năm 1961 tại Bắc Giang) đã bị kết án chung thân về
tội giết người. Ông chỉ được trả từ do vào tháng 11.2013 sau khi hung thủ thực sự của
vụ án ra đầu thú. Tính đến thời điểm đó ơng đã phải ngồi tù hơn 10 năm . Một trong
những nguyên nhân dẫn đến oan sai trong vụ án này đó là các cơ quan và người tiến
hành tố tụng ngay từ đầu đã định kiến ông Chấn phạm tội nên quá trình điều tra, truy
tố và xét xử chỉ tập trung dùng các tài liệu để buộc tội, xem nhẹ nguyên tắc quan trọng
trong tố tụng hình sự là ngun tắc suy đốn vơ tội. Ơng Chấn đã khai rằng, trong quá
trình điều tra, các cán bộ điều tra đã có hành vi bức cung, mớm cung, nhục hình, bắt
ơng Chấn phải nhận tội giết người. Như vậy, ngay từ đầu cán bộ điều tra đã có định
kiến Nguyễn Thanh Chấn phạm tội giết người nên tìm mọi cách để hỏi cung theo
hướng buộc tội ơng Chấn. Trong lúc đó, nhiều chứng cứ, tài liệu (hiện trường, nhân
chứng) có tính chất gỡ tội cho ơng Chấn lại không được điều tra làm rõ. Tại tại các
phiên tịa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Chấn ln khai khơng thực hiện hành vi giết
người. Sở dĩ có lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra là do bị ép cung, mớm cung, bức
cung. Trong lúc đó chứng cứ buộc tội ông Chấn rất lỏng lẻo, thiếu logic, có sự mâu
thuẫn về thời gian, về mơ tả vật chứng, dấu vết, việc thực nghiệm hiện trường; hồ sơ
vụ án có nhiều chứng cứ, tài liệu gỡ tội cho ông Chấn… Tuy nhiên, hội đồng xét xử
(sơ thẩm và phúc thẩm) cũng như kiểm sát viên không kiên quyết yêu cầu điều tra làm
rõ mà vẫn kết tội cho ơng Chấn.
Ví dụ thứ hai, vụ ơng Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận bị kết án tù chung thân về
tội giết người, cướp tài sản từ ngày 31/8/2000, đến ngày 10/10/2015, kẻ giết bà Bông
và cướp tài sản là Nguyễn Thọ mới bị phát hiện và bắt giữ. Trong thời gian bị Tịa kết
án và bản án có hiệu lực pháp luật, ông Nén và người biết sự việc là ông Nguyễn Thận
luôn cho rằng, ông Nén bị kết tội oan và kiên trì kêu oan. Suy đốn vơ tội của ông Nén
và ông Thận là đúng nên ông Huỳnh Văn Nén đã được minh oan. Đây là một trường
hợp vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc trách nhiệm chứng minh của cơ quan tiến hành
tố tụng. Nghi can có quyền chứng minh mình khơng phạm tội nhưng họ khơng có
trách nhiệm chứng minh ai là người thực hiện tội phạm. Giữa việc ông Nén không giết
bà Bông với việc ai giết bà Bơng là hai việc hồn tồn khác nhau. Ai giết bà Bông, ông
Nén không cần biết và ông cũng không thể chứng minh được, ông ấy chỉ biết được
mình khơng giết. Ơng ấy khơng phải nhà điều tra. Trọng án giết người, có thể 10 năm,
10
hay 20 năm sau vẫn chưa tìm ra thủ phạm, nhưng người bị cơ quan tố tụng tình nghi bị
oan thì vẫn là ốn.
Để quyền được suy đốn vơ tội được bảo đảm, thực thi trong thực tế, để nguyên
tắc suy đốn vơ tội thực sự là “ngun tắc vàng”, nguyên tắc xương sống trong hoạt
động tố tụng hình sự, các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục hồn thiện một số quy
định về suy đốn vơ tội theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đồng thời, tăng cường
công tác phổ biến giáo dục và hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng
hình sự mới. Ngun tắc suy đốn vơ tội trong TTHS là thành tựu vĩ đại của văn minh
pháp lý nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc
này là một yêu cầu cần thiết nhằm thực hiện đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về cải cách tư pháp trong điều kiện 12
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Cần quán triệt một cách sâu sắc để vận
dụng đúng, đầy đủ, toàn diện các quan điểm, chỉ đạo về cải cách tư pháp, đúng như
Phó Chủ nhiệm Ủy ban tư pháp Lê Thị Nga đã nói: “Nếu bỏ lọt tội phạm là sai một
lần thì làm oan đã nhân gấp đơi số lần sai vì đã vừa bỏ lọt tội phạm, vừa làm oan.
Cho nên cơ quan tố tụng phải tuân thủ nghiêm ngặt ngun tắc suy đốn vơ tội và
trách nhiệm chứng minh”.
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013.
2. Bộ Luật Tố tụng hình sự nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm
2015.
3. TS Nguyễn Thành Long, Nguyên tắc suy đoán vơ tội trong lt tố tụng hình
sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.174.
12