Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Giáo trình trung cấp lý luận chính trị phần 8 ( câu hỏi và đáp án)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.22 KB, 77 trang )

Câu 4 : sẽ trích một câu trong Nghị quyết về công tác cán bộ
Bài làm
Cán bộ và công tác cán bộ ln ln chiếm vị trí quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại
đối với sự nghiệp cách mạng. Từ Đại hội VI đến nay, cùng với đường lối đổi mới nói chung, vấn đề cán bộ
và công tác cán bộ đã trở thành khâu then chốt của tồn bộ q trình đổi mới, trong đó cơng tác đánh giá,
quy hoạch, tuyển chọn, bố trí sử dụng và đào tạo cán bộ là vấn đề khó khăn, phức tạp, cần nắm vững
những kiến thức tâm lý học lãnh đạo để tiếp cận với những khía cạnh tâm lý của cán bộ và thực hiện tốt
nhiệm vụ này
I./ Khái niệm :
Để làm rõ những khía cạnh tâm lý trong công tác cán bộ, trước hết chúng ta phải hiểu cán bộ là gì ?
Cán bộ là những người được Đảng và Nhà nước giao cho những trọng trách, nhiệm vụ lớn hoặc nhỏ tùy
theo cương vị và khả năng của mình để hồn thành, thực hiện một hay nhiều nhiệm vụ nào đó trong bộ
máy hoạt động của Đảng và Nhà nước cũng như toàn xã hội. Cán bộ chính là những người tham gia vạch
ra đường lối, sách lược, chiến lược cách mạng chung hay phương hướng thực hiện nhiệm vụ nào đó.
Đồng thời cũng là người thực hiện hoặc lãnh đạo quần chúng thực hiện đường lối đó. Khơng có một đội
ngũ cán bộ mạnh về phẩm chất chính trị, đạo đức, giỏi về chuyên mơn nghiệp vụ, tâm huyết với sự nghiệp
thì khơng có một đường lối nào dù đúng đắn đến đâu cũng có thể trở thành hiện thực.
Cơng tác cán bộ là một nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ một tổ chức nào đồng thời cũng là một khoa
học về con người và mối quan hệ giữa con người với con người, về vai trị của con người trong q trình
quản lý xã hội. Đó là hoạt động nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ đủ về số lượng và đúng về
chất lượng, phù hợp với yêu cầu địi hỏi của từng thời kỳ cách mạng. Cơng tác cán bộ bao gồm rất nhiều
nội dung : đánh giá nhận xét cán bộ, quy hoạch, tuyển chọn, bồi dưỡng cán bộ, bố trí sử dụng, đề bạt, luân
chuyển cán bộ, thực hiện chính sách cán bộ
II./ Một số vấn đề tâm lý trong công tác cán bộ
1. Công tác nhận xét đánh giá cán bộ :
Nhận xét đánh giá cán bộ là khâu đầu tiên xuyên suốt của công tác cán bộ. Đây là khâu quan trọng,
quyết định đối với việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng, đề bạt bổ nhiệm... Nó khơng những là
nhiệm vụ của cơng tác cán bộ mà cịn là u cầu chính đáng của cán bộ địi hỏi tổ chức và cấp trên đánh
giá đúng mình. Nhận xét đánh giá cán bộ là khả năng biết đánh giá cán bộ, nhân viên thuộc phạm vi mình
phụ trách, bởi vì sự thành công hay không của người là công tác cán bộ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng
hiểu biết con người.


Đánh giá cán bộ trước hết phải dựa vào cơ sở tiêu chuẩn cán bộ quy định cho từng chức danh, đồng
thời phải dựa vào hiệu quả công tác, Đánh giá nhận xét cán bộ phải khoa học, khách quan, xem xét một
cách toàn diện và gắn liền với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, chú ý đánh giá hiện tại và dự đốn sự phát triển
trong tượng lai, khơng xem nặng về quá khứ, phải đánh giá một cách toàn diện cả mặt ưu và mặt nhược
điểm của họ. Khơng có cá nhân nào có năng lực bách khoa và cũng khơng có cá nhân nào hồn tồn vơ
dụng. Phải có phương pháp đánh giá dân chủ, trung thực, phải đặt cán bộ trong mối quan hệ nhất định.
Người đứng ra việc thực đánh giá cán bộ phải là người có thẩm quyền, có uy tính, có trách nhiệm và có
khả năng đánh giá.
Nội dung của việc đánh giá cán bộ tập trung ở 2 mặt đức và tài của người cán bộ. Về đức, đó là đánh
giá về lập trường chính trị, xã hội của cá nhân (xu hướng của cá nhân ấy đối với những vấn đề chính trị, xã
hội), về động cơ cá nhân (cái lơi cuốn, thúc đẩy hoạt động của cá nhân bao gồm động c ơ về nhu cầu hàng
ngày và định hướng giá trị chiếm ưu thế của cá nhân), về tích cách (hệ thống thái độ và phản ứng cá
nhân). Về tài, đó là đánh giá về khả năng thực hiện nhiệm vụ, về năng lực của người cán bộ đó có thể
hồn thành cơng việc gì ? loại cơng việc nào, mức độ hồn thành cơng việc … Đánh giá về mặt tài đức của
cán bộ chính là đánh giá đặc điểm nhân cách của cán bộ có thể làm được những gì và làm như thế nào ?
* Thực trạng : Hiện nay trong công tác nhận xét đánh giá cán bộ đã có tiêu chí rõ ràng hơn trong việc
đánh giá cán bộ, có tính dân chủ (cán bộ tự đánh giá, bỏ phiếu tính nhiệm...). Đã có sự phân công phân
cách trong việc nhân xét đánh giá cán bộ (cấp trên nhận xét đánh giá cấp dưới).
Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng khâu yếu nhất hiện nay trong công tác cán bộ là khâu đánh giá cán bộ.
Đã có nhiều cán bộ, kể cả cán bộ đảng viên do Trung ương quản lý vẫn dính líu đến các vụ án tham ô,
tham nhũng (vụ cấp quota, dầu khí, băng nhóm Năm Cam...) và sa đọa về mặt đạo đức ... điều này cho
thấy rằng việc đánh giá cán bộ của ta hiện nay vẫn còn yếu kém. Cơng tác phê bình và tự phê bình, đánh
giá cán bộ hàng năm tuy có cố gắng, song vẫn cịn chậm, phương pháp và cách làm chưa thống nhất. Kết
quả đánh giá cán bộ còn chung chung, thiếu cụ thể, chưa phản ánh đúng kết quả công tác của cán bộ, cán
bộ lãnh đạo ít được nhận xét khách quan, nhất là các khuyết điểm, tình trạng thiên vị, nể nang trong nhận
xét đánh giá cịn khá phổ biến. Cơng tác nhận xét đánh giá cán bộ một số nơi chưa sâu, nhiều trường
hợp thiếu chính xác, thiếu căn cứ khách quan, có nơi vì tình trạng phe cánh, cục bộ, nể nang, né trách, mà
cố tình đánh giá sai lệnh cán bộ. Khơng ít cấp uỷ, người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan chưa nhận thức sâu
sắc, đầy đủ về trách nhiệm và tầm quan trọng của việc đáng giá cán bộ hoặc chưa thực sự công tâm trong
việc đánh giá cán bộ. Cũng có nguyên nhân là các tiêu chí đánh giá cán bộ chưa cụ thể hố nên khi đánh

giá thiếu căn cứ thống nhất; chưa tuân thủ nghiêm túc quy chế quy trình cơng tác cán bộ, trong đó có việc


đánh giá cán bộ. Chưa quy định rõ ràng, hợp lý chế độ trách nhiệm và quyền hạn của ngườyi đứng đầu cơ
quan, đơn vị công tác cán bộ.
Để khắc phục tình trạng trên, phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định, quy trình đánh giá cán bộ, lấy
kết quả hoàn thành nhiệm vụ của họ theo chức trách được giao và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước
đo chủ yếu để đánh giá, thực hiện đúng các nguyên tắc tập thể quyết định công tác cán bộ. Tiêu chuẩn
đáng giá cán bộ phải được cụ thể hóa trong mỗi giai đoạn cách mạng, đối với mỗi chức vụ và cương vị
công tác. Phải thực hiện nhiều giải pháp đánh giá mang tính chất tổng hợp và phải cơng tâm - khách quan.
Người lãnh đạo khi nhận xét đánh giá cán bộ phải có 2 phẩm chất cực kỳ quan trọng: cơng tâm và sâu sát.
Ngồi ra, cần cụ thể hố các vấn đề: dân chủ hố, cơng khai hố cơng tác cán bộ, tổ chức lấy ý kiến nhân
dân và cán bộ cấp dưới, xây dựng cơ chế phát huy trách nhiệm của người đứng đầu và cơ quan sử dụng
cán bộ. Muốn đánh giá cán bộ đúng còn phải định ra rõ trách nhiệm cá nhân, trước hết là trách nhiệm
người đứng đầu. Người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm về những yếu kém
tron g công tác, về tệ nạn tham nhũng, quan liêu, lãnh phí của địa phương cơ quan đơn vị đó. Khắc phục
tình trạng khi kiểm điểm tập thể thì chỉ ra được khuyết điểm nhưng khi kiểm điểm cá nhân thì khơng quy
được trách nhiệm cho ai. Việc đánh giá cán bộ không chỉ làm một lần mà phải làm thường xuyên để đưa
vào hồ sơ cán bộ và giúp cho bản thân của người cán bộ hiểu đúng mình hơn, sửa chữa khuyết điểm để
ngày càng hồn thiện hơn
2. Cơng tác tuyển chọn cán bộ :
Q trình lựa chọn cán bộ (cả tuyển chọn cán bộ mới) là một công việc cần thiết, thường xuyên để
đảm bảo tính kế thừa và phát triển của các tổ chức. Việc lựa chọn cán bộ được tiến hành theo các u cầu
như: u cầu có tính chất tổ chức - hành chính, yêu cầu về mặt tiêu chuẩn của từng vị trí trong cơ cấu tổ
chức, u cầu có tính chất nguyên tắc (như nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc tính đảng, nguyên tắc thống
nhất, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc lịch sử cụ thể), yêu cầu lựa chọn cán bộ theo cơ cấu dân số - xã
hội. Việc lựa chọn cán bộ chịu sự chi phối bởi những khía cạnh tâm lý nhất định, bao gồm: số lượng các
đối tượng được đưa vào lựa chọn (ít q thì cơ hội lựa chọn sẽ nhỏ, nhiều quá thì dễ bị lầm lẫn nhiễu
loạn); cơ sở để lựa chọn (vấn để tuổi tác ...), bản thân chủ thể lựa chọn (xu hướng, trình độ, lợi ích, thói
quen ....), tình huống tiến hành lựa chọn (chu đáo, đầy đủ thông tin hay ngược lại). Vì vậy, việc lựa chọn

cán bộ cịn cần phải chú ý cân nhắc đặc biệt là những yếu tố tâm lý xã hội ảnh hưởng đến việc lựa chọn
cán bộ.
* Thực trạng: Công tác tuyển chọn cán bộ hiện nay đã có chủ trương chính sách và tiêu chuẩn cụ
thể, năng lực chuyên môn đã được chú trọng nhiều hơn. Tuy nhiên, vấn đề lựa chọn cán bộ trong thời gian
qua của chúng ta còn cục bộ, chưa thật sự dân chủ, còn nể nang, ám thị. Cơ chế xin việc mà khơng qua thi
tuyển cịn phổ biến nên vẫn cịn nạn nhận của đúc lót, tình cảm cá nhân, giao giá khi tuyển chọn tiếp nhận,
bố trí, tiến cử, giới thiệu cán bộ vào các cương vị cơng tác khác, tính cạnh tranh trong tuyển chọn cán bộ
chưa cao nên chưa thật sự tuyển lựa được người tài đức trong bộ máy nhà nước đồng thời cũng dẫn đến
việc chọn cán bộ không đúng tiêu chuẩn u cầu cho một cơng việc cụ thể nào đó dẫn đến tình trạng vừa
thiếu vừa thừa. Đối với việc tuyển chọn cán bộ thông qua bầu cử cho thấy rằng việc lấy phiếu tín nhiệm
giúp phịng ngừa, ngăn chận những biểu hiện độc đoán mất dân chủ của thủ trưởng, nhưng có mặt hạn
chế là đơi khi chúng ta khơng chọn được những người tốt nhất, có triển vọng nhất mà chỉ chọn được
những người được lòng đa số của cấp dưới, đối với những nơi mất đoàn kết nghiêm trọng, bè phái thì đa
số khơng phải bao giờ cũng đúng. Bên cạnh đó, do vấn đề bằng cấp chun mơn được chú trọng nhiều
hơn nên tình trạng bằng giả xảy ra khá phổ biến.
Để khắc phục nhược điểm trên, cần đảm bảo nguyên tắc công bằng, khách quan, dân chủ và xây
dựng những tiêu chuẩn cụ thể, rõ ràng trong cơng tác tuyển chọn cán bộ, trong đó nội dung tuyển chọn cán
bộ phải xuất phát từ yêu cầu cơng việc. Ngồi ra, người tuyển chọn cán bộ cịn phải đảm bảo tính cơng
tâm, khi xem xét đánh giá cán bộ cần phải nghe nhiều người từ nhiều nguồn. Trường hợp các ý kiến đánh
giá nhận xét khác nhau, thậm chí trái ngược nhau thì phải tìm hiểu làm rõ để khơng dẫn đến việc đánh giá,
bố trí cán bộ nhầm lẫn oan sai.
3. Công tác quy hoạch cán bộ:
Quy hoạch cán bộ là tạo điều kiện để kiện toàn tổ chức và đổi mới cán bộ một cách thường xuyên,
điều quan trọng trong công tác quy hoạch cán bộ là xác định đúng đội tượng cán bộ phải quy hoạch và thời
gian quy hoạch, từ đó xác định rõ mục tiêu trong một thời gian nhất định những cán bộ cần phải đạt được
những yêu cầu cụ thể gì. Khi xác định mục tiêu quy hoạch cán bộ phải đảm bảo những yêu cầu như: Đáp
ứng yêu cầu về số lượng cán bộ đang thiếu hoặc phải bổ sung, khăc phục việc thiếu cán bộ trong cơ cấu
lãnh đạo, thiếu cán bộ hiểu biết về lĩnh v ực khoa học kỹ thuật, về kinh tế, khắc phục tình trạng thiếu tính kế
thừa.
* Thực trạng : Hiện nay, công tác quy hoạch cán bộ được triển khai rộng rãi với cách làm dân chủ

hơn, đổi mới nội dung và cách làm theo phương châm “động” và “mở, khắc phục những biểu hiện thiếu tin,
ngại khó, làm quy hoạch một cách hình thức, đối phó. Tuy nhiên vẫn cịn một số nơi thực hiện khá lúng
túng, hình thức, hiệu quả thấp. Nhiều nơi quy hoạch xong để đấy, quy hoạch một đường làm một nẻo. Vì
vậy việc bố trí sắp xếp cán bộ cịn chấp vá, bị động, tình trạng hụt hẫng cán bộ kế thừa ở các cấp các
ngành, địa phương còn khá phổ biến. Một vấn đề khác cần lưu ý là công tác hậu quy hoạch, tránh tình
trạng đối tượng được quy hoạch ỷ lại, thiếu rèn luyện dẫn đến sa sút phẩm chất; ngược lại những cán bộ


năng nổ nhiệt tình nhưng khơng được quy hoạch do thiếu một vài tiêu chuẩn thì lại mất hết nhiệt tình cơng
tác.
Để khắc phục tình trạng trên, cần kiên trì và tích cực triển khai chiến lược cán bộ, coi trọng công tác
quy hoạch cán bộ, chuẩn bị lớp cán bộ kế cận. Thực hiện nghiêm tiêu chuẩn hóa về chất lượng đạo đức và
chuyên môn đối với cán bộ, công chức ở mỗi cương vị, công tác và căn cứ vào những biểu hiện trong
thực tế của cán bộ trên cả ba mặt: lý tưởng, đạo đức lối sống, trình độ năng lực để xây dựng quy hoạch
cán bộ lãnh đạo và quản lý, nhất là quy hoạch người đứng đầu. Phải tuân thủ đúng hướng dẫn của TW về
công tác quy hoạch cán bộ, coi trọng khả năng đồn kết tập thể, đồng chí, đồng nghiệp. Đồng thời phải
định kỳ xem xét, đánh giá cán bộ trong diện quy hoạch để có sự bổ sung điều chỉnh cần thiết.
4. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Được thực hiện căn cứ vào quy hoạch cán bộ. Để thực hiện tốt cơng tác này cần phải có kế hoạch
được lập ra trên cơ sở tiêu chuẩn về mặt kiến thức cần phải bồi dưỡng đào tạo cho từng loại chức danh
cán bộ, từ đó xác định được yêu cầu đối với từng cán bộ cho phù hợp trong từng giai đoạn nhất định. Cụ
thể như: mục tiêu đào tạo cán bộ là gì ? vào những chức danh cụ thể nào ? những nội dung nào cần phải
bồi dưỡng ? Đồng thời cần phải xem xét phương pháp đào tạo, hình thức đào tạo cho phù hợp với các đối
tượng, nhằm phát huy tính tích cực chủ động của người học.
Thời gian qua, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ đã được quan tâm chỉ đạo chặt chẽ hơn, hướng
dẫn thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào tạo theo từng loại đối tượng. chúng ta đã khắc phục được một
bước tình trạng đào tạo tràn lan, khơng theo quy hoạch. Tuy nhiên, nơi dung chương trình và phương pháp
đào tạo chậm được đổi mới, còn chung chung. Để thực hiện tốt công tác đào tạo cán bộ, cần phải có kế
hoạch, xác định mục tiêu đào tạo cán bộ, từ đó phải có nội dung, hình thức đào tạo cho phù hợp với từng
cán bộ. Việc đào tạo cán bộ phải gắn với chính sách cán bộ, tạo mọi điều kiện về vật chất, tinh thần, thời

gian cho cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng
5. Công tác bố trí, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ
Bố trí, bổ nhiệm cán bộ là đặt cán bộ cụ thể vào những vị trí nhất định trong cơ cấu tổ chức. . Việc bố
trí bổ nhiệm luân chuyển cán bộ phải quán triệt nguyên tắc xuất phát từ nhu cầu nhiệm vụ chính trị của tổ
chức và phải phù hợp với khả năng, sở trường để giúp cán bộ để hoàn thành tốt nhiệm vụ cũng như tạo
điều kiện thuận lợi để cán bộ phát triển.
Hiện nay, chủ trương luân chuyển cán bộ đã thực hiện thành công ở một số nơi và là một trong những
giải pháp đột phá về cơng tác cán bộ trong tình hình hiện nay. Cán bộ được luân chuyển đã thể hiện bản
lĩnh và năng lực lãnh đạo trưởng thành nhanh hơn. Tuy nhiên trong thực tế việc bố trí bổ nhiệm và luân
chuyển cán bộ thường chịu sự tác động của hàng loạt các yếu tố tâm lý XH khác nhau dẫn đến kết quả xa
rời nguyên tắc cơ bản là xuất phát từ yêu cầu công việc và quy hoạch cán bộ. Khơng ít trường hợp bố trí
ln chuyển cán bộ khơng bắt nguồn từ những động cơ trong sáng vừa làm nản lịng cán bộ, vừa khơng
đáp ứng được mục tiêu và lợi ít của cơng việc. Ảnh hưởng của những quan niệm phong kiến của quy luật
tình cảm “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, của sức ép tâm lý “phải chờ đến lượt”, “sống lâu lên lão làng” trong
việc bổ nhiệm bố trí cán bộ tạo nên một sức ỳ rất lớn trong công tác cán bộ.
Để khắc phục nhược điểm trên, việc bố trí bổ nhiệm luân chuyển cán bộ phải thực hiện đúng nguyên
tắc: mục tiêu-tổ chức-con người, phải đảm bảo bố trí bổ nhiệm luân chuyển đúng người, đúng việc, đúng
lúc, đúng yêu cầu. Cấp uỷ địa phương đơn vị có cán bộ được điều động luân chuyển về phải tạo điều kiện
cho cán bộ là tốt nhiệm vụ, đồng thời phải ngăn ngừa việc lợi dụng luân chuyển cán bộ để đẩy những
người không “ăn cách” đi nơi khác.
6. Cơng tác chính sách cán bộ:
Thực hiện chính sách cán bộ là chú ý thoả mãn một cách hợp lý nhu cầu lợi ích vật chất và tinh thần
của cán bộ, thúc đẩy cán bộ làm việc tốt hơn. Chính sách đãi ngộ cán bộ hiện nay chậm đổi mới, tiền
lượng cịn hạn chế, một số chính sách cịn chưa thực hiện thống nhất, vẫn cịn tình trạng vừa bình qn,
vừa khơng cơng bằng, chưa gắn quyền lợi với trách nhiệm và hiệu quả nghĩa vụ với lợi ích. Để khắc phục
tình trạng này Đại hội IX của Đảng đã xác định “tăng cường đầu tư và phát triển con người thông qua phát
triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Đảm bảo nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng,
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của CNH-HĐH”, “đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí
cthức, tơn trọng và tôn vinh nhân tài”. Chúng ta đang tiến dần đến việc xây dựng một chế độ tiền lương
phải là thu nhập chủ yếu của cán bộ, công chức, từ đó kích thích cán bộ, cơng chức sáng tạo và tận tụy

phục vụ nhân dân, hạn chế và đấu tranh có hiệu quả với nạn tham nhũng và các tệ nạn khác.
Kết luận Công tác cán bộ bao giờ cũng là cơng tác quan trọng và khó khăn, phức tạp. Nó vừa mang
tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Để làm tốt công tác này, người đứng đầu cơ quan, người làm
công tác tổ chức cán bộ phải nắm vững các khía cạnh tâm lý cán bộ, phải có phẩm chất chính trị đặc biệt là
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, nhất là tính nhân văn, trình độ năng lực, nhất là tầm nhìn chiến
lược, sự nhạy cảm nghề nghiệp và ở óc tổ chức, phương pháp làm việc, nhất là tính dân chủ khách quan,
vơ tư và trong sáng ... . Bởi lẽ mọi quyết định của họ có ý nghĩa quyết định khơng chỉ đến sinh mệnh của
cán bộ mà còn ảnh hưởng đến uy tín và sức mạnh của cơ quan làm cơng tác tổ chức cán bộ. Thực hiện tốt
chiến lược cán bộ, nhất định chúng ta sẽ xây dựng được đội ngũ cán bộ đảng viên “vững vàng về chính trị,
gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn”./.


Câu 1: A/c hãy pt vai trò của hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở hiện nay? (6đ)

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng phong
cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ. Theo Người, phong cách, lề lối làm
việc của đội ngũ cán bộ có vai trị to lớn để nghị quyết, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước thấm sâu vào "tâm lý quốc dân"và đi vào cuộc sống.Biến
nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước thành hành động của quần chúng,
tạo ra đột phá trong các lĩnh vực cách mạng. Phong cách lãnh đạo, quản lý là
tổng hợp những phương pháp, cách thức, biện pháp, tác phong, lề lối làm việc
để vận dụng các kiến thức, tri thức khoa học vào thực tiễn đem lại hiệu quả. Đây
là yếu tố đặc biệt quan trọng cấu thành phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở.
Thực tế cho thấy, đối với người cán bộ cơ sở, khi thực hiện chức trách,
nhiệm vụ có những lúc, những cơng việc chưa hồn thành tốt khơng phải do
thiếu kiến thức và sự nhiệt tình, trách nhiệm hay phương tiện, vật chất bảo đảm
mà còn do phong cách lãnh đạo, quản lý chưa phù hợp. Trong phạm vi bài làm,
tôi xin đi sâu vào phân tích vai trị của hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở hiện
nay.

Để hiểu rõ vai trị của lãnh đạo trong cơng tác quản lý, trước hết ta tìm hiểu
hai khái niệm "hoạt động quản lý" và “hoạt động lãnh đạo".
Hoạt động lãnh đạo là hoạt động của người lãnh đạo mang tính định hướng,
gây ảnh hưởng tạo dựng niềm tin, thuyết phục người khác để họ đồng thuận lợi
với người lãnh đạo thực hiện đường lối chủ trương hướng tới mục tiêu nào đó.
Lãnh đạo tạo hiệu ứng điều khiển, dẫn dắt người khác dựa trên cơ chế nhận
thức, niềm tin, tiêu chuẩn đạo đức, lý tưởng mà khơng mang tính cưỡng bức đối
với người khác.
Hoạt động quản lý mang tính kỷ thuật, quy trình được quy định rõ trong khn khổ các
thể chế xác định như PL, quy chế, quy định. Nhà quản lý sử dụng quyền lực để điều hành
người khác.
Hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cấp cơ sở có các vai trò:
- Hoạt động LĐ, QL tạo nên s.mạnh tập thể trên cơ sở thống nhất ý chí và hành động.
Cộng đồng dân cư trên địa bàn xã dù khác biệt nhau nhiều phương diện nhưng mỗi cộng đồng
cũng có những lơị ích chung như bảo vệ mơi trường sống chung có lợi cho sức khỏe, giữ gìn
trật tự trị an, giữ gìn vệ sinh chung, xd cơ sở hạ tầng giao thơng, y tế, trường học...Nếu khơng
có cấp quản lý cơ sở sẽ không thể thống nhất ý chí và hành động của người dân để tất cả đều
có cuộc sống tốt hơn. Hơn nữa, cấp cơ sở còn là nơi hỗ trợ trực tiếp cho dân cư khi họ gặp
khó khăn, cũng như tạo đk cho dân cư tham gia vào hệ thống chính trị chung của quốc gia.
- Hoạt động LĐ, QL tạo ra m.trường vừa cho phép mỗi người dân được sáng tạo, vừa
định hướng hoạt động của mọi người theo mục tiêu chung. Các xã thị trấn đều nằm trong 1
huyện, 1 tỉnh nào đó và nằm trong nước ta do đó vừa được hưởng lợi ích chung của sự quản
lý của huyện, của tỉnh, của quốc gia, vừa phải tập thể thực thi nghĩa vụ của mình với tập thể
lớn hơn. Cơ quan quản lý cấp cơ sở là đầu mối để triển khai chính sách chung 1 cách hiệu quả
trên địa bán csở, vừa phản ánh nguyện vọng, nhu cầu của csở cho cấp trên để dược hỗ trợ giải
quyết kịp thời, hiệu quả.


- Hoạt động lđ, QL ở cơ sở tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận khác nhau
của đơn vị thành một hệ thống nhất. Giữa các bộ phận dân cư nghành nghề trên địa bàn xã,

phường, thị trấn đôi khi cũng xảy ra xung đột cấp csở là nơi trực tiếp đúng ra hòa giaỉ hoặc
phân xử nhằm tạo ra bâud khơng khí đồn kết thơng cảm, tương trợ lẫn nhau. Chuacs năng
xét xử có thể chia phân quyền ở phạm vi hẹp cho cấp csở, nhưng chức nang hịa giải của hệ
thống chính trị chủ yếu do cấp csở đảm nhiệm.
- Hoạt động lđ, QL ở cơ sở góp phần tạo dựng sức mạnh bền vững của hệ thống chính
trị. Nhờ có sự quản lý ở cấp csở mà hoạt động của dân cư và các tổ chức trên địa bàn đi vào
nền nếp, kỹ cương, giảm nhẹ vtrò quản lý, giám sát của cấp trên. Hơn nũa, sự chuyen nghiệp
linh hoạt và tận tâm của cbộ quản lý cấp csở làm tăng uy tín của hệ thống ctrị. Ngược lại, sự
yếu kém của cấp csở nhất là việc xử lý quan liêu, thiếu chuyên nghiệp của đội ngũ cbộ csở
không những làm cho hệ thống ctrị thiếu bền vững, mà còn làm phai nhạt niềm tin của quần
chúng vào hệ thống ctrị.
hệ thực tế: Ở địa phương tơi, cấp ủy, chính quyền địa phương ln làm tốt vai trị lãnh
đạo quản lý thơng qua việc xây dựng các Nghị quyết, kế hoạch, chương trình hành động,…
phát triển kinh tế xã hội Liên hằng năm. Từ sự chỉ đạo thực hiện đó đã thống nhất trong ý chí
và hành động của các ban ngành đồn thể, sự đồng thuận của người dân. Các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội hàng năm đều được thảo luận, lựa chọn phù hợp với đk của địa phương,
………

Tóm lại, cán bộ cấp cơ sở cần phải coi việc rèn luyện, xây dựng phong cách
lãnh đạo, quản lý theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ thường xuyên, tự
giác và bền bỉ suốt đời. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải trên
trời sa xuống. Nó do học tập, đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát
triển hoàn thiện, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong. Rèn luyện đạo đức cũng như phong cách của mỗi người không thể trong
ngày một ngày hai, mà cần phải rèn luyện thường xuyên. Thực tiễn luôn thay
đổi, đặt ra những yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng và trước những tác động
của nền kinh tế thị trường, nếu không tự tu dưỡng, rèn luyện phong cách của bản
thân, người cán bộ cấp cơ sở sẽ không thể đáp ứng yêu cầu của thời cuộc. Hồ
Chí Minh đã dạy: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ
đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định hơm nay và ngày mai vẫn được mọi

người yêu mến và ca ngợi nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân"16. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải học tập, rèn luyện không
ngừng, học không chỉ là nghĩa vụ để chuẩn hóa cán bộ theo yêu cầu của Đảng
mà còn phải là nhu cầu tự thân, học tập thường xuyên, học tập suốt đời để có
phẩm chất tốt, đồng thời có nền tảng học vấn cần thiết. Chỉ khi nào học vấn trở
thành công cụ nhận thức, công cụ hoạt động làm tăng lên giá trị của chính mình,
tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đem lại ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân, khi đó học vấn mới trở thành văn hóa, trở thành thành tố quan trọng
trong phong cách lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, góp phần xây
dựng Đảng ta thật sự "là đạo đức, là văn minh".


Câu 2: A/c hãy pt lãnh đạo, qlý trong ctác của các tổ chức chính trị – xã hội? (4đ)
Tổ chức chính trị - xã hội là các tổ chức quần chúng của Đảng, là công cụ để tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng trong các tầng lớp nhân dân, ln giữ vị trí, vai trị
quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Có thể nói rằng lãnh đạo, quản lí trong cơng tác của các tổ chức chính trị - xã hội có
thể được nhìn nhận dưới hai góc độ khác nhau: lãnh đạo, quản lý của tổ chức chính trị - xã hội
và lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ của các tổ chức chính trị - xã hội.
- Dưới góc độ lãnh đạo, quản lý của tổ chức chính trị - xã hội:
+ Lãnh đạo trong cơng tác của tổ chức chính trị - xã hội là việc các tổ chức chính trị xã hội xây dựng và đề ra các chủ trương, nghị quyết về công tác của tổ chức mình trên cơ sở
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệ, nghị quyết của tổ chức chính
trị - xã hội và nhu cầu nguyện vọng của hội viên và xã hội.
+ Quản lý trong cơng tác của các tổ chức chính trị - xã hội là công việc tổ chức, giám
sát, điều hành các hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội nhằm đảm bảo định hướng cho
các hoạt động của tổ chức mình đạt kết quả cao đáp ứng với nhiệm vụ mà Đảng và đất nước
giao phó.
Các tổ chức chính trị-xã hội làm tham mưu và nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã
hội, phát huy dân chủ, năng lực, trí tuệ, ý thức trách nhiệm cơng dân trong thực hiện giám sát

xây dựng chính quyền,xây dựng Đảng; xây dựng, củng cố và hoàn thiện các thiết chế dân chủ
ở cơ sở như: Quy chế về hoạt động hoà giải, Quy chế giám sát đầu tư cộng đồng và Quy chế
hoạt động thanh tra nhân dân; coi trọng và sử dụng rộng rãi hoạt động tư vấn trong công tác
của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội.
Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền và các tổ chức
trong hệ thống chính trị về nhiệm vụ lãnh đạo, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đồn
thể chính trị-xã hội vững mạnh. Các cấp uỷ đảng tiến hành kiểm điểm sâu sắc việc tổ chức
thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã ban hành về công tác Dân vận, công tác Mặt
trận và các Đoàn thể. Đưa nội dung lãnh đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể
vững mạnh thành một trong những tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ
chức đảng các cấp.
- Dưới góc độ lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ của các tổ chức chính trị - xã hội:
+ Có thể nói rằng, cán bộ các tổ chức chính trị - xã hội những “nhà lãnh đạo” đối với
các thành viên của tổ chức, với nghĩa này muốn khẳng định rằng người cán bộ của tổ chức
chính trị - xã hội là những người trực tiếp "gây ảnh hưởng đến các hoạt động của tổ chức
chính trị - xã hội nhằm đạt được mục đích hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội" hay
"Cán bộ tổ chức chính trị - xã hội là những người có sức thuyết phục, thu phục, gây ảnh
hưởng, uy tín của mình với các hội viên của tổ chức chính trị - xã hội"
+ Người cán bộ tổ chức chính trị - xã hội cũng là những “nhà quản lý”. Điều đó có
nghĩa là bên cạnh tư cách là người lãnh đạo, người cán bộ tổ chức chính trị - xã hội cịn có
nhiệm vụ tổ chức giáo dục, định hướng, kiểm tra, giám sát, chăm sóc, bảo vệ quyền lợi trực
tiếp của hội viên ...


Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng,
động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện
nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia
vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy q trình dân chủ hố và
đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của đồn viên,
hội viên và nhân dân
Đa dạng hố các hình thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt động
về cơ sở; phát huy tính năng động sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể
chính trị- xã hội các cấp trong cơng tác vận động quần chúng, phù hợp với đặc điểm từng địa
phương, cơ sở
Tóm lai, lãnh đạo, quản lý trong cơng tác của tổ chưc chính trị- xã hội có vai trò rất
quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng
đồng dân cư.

Câu 3: A/c hãy trình bày và pt những biểu hiện đặc trưng trong phong cách lãnh
đạo của người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở? (6đ)
Phong cách được coi như là một nhân tố quan trọng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong đó thể hiện khơng chỉ mặt khoa học và tổ chức quản lý mà còn thể hiện tài năng và chí
hướng của con người, nghệ thuật chỉ huy của lãnh đạo đối với đơn vị mình quản lý, tác động
và ảnh hưởng của người lãnh đạo đến với người khác trong hệ thống quản lý.
Phong cách lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở là mẫu hành vi mà người
lãnh đạo, quản lý lựa chọn nhằm tác động và ảnh hưởng có hiệu quả đến cấp dưới và quần
chúng nhân dân tại cơ sở. Nó được biểu hiện qua các tác phong làm việc dân chủ, khoa học,


hiệu quả và thiết thực, đi sâu sát quần chúng, tôn trọng và lắng nghe quần chúng, khiêm tốn
học hỏi và thực sự cầu thị, năng động và sáng tạo, gương mẫu và tiên phong.
Sau đây ta đi tìm hiểu cụ thể từng tác phong:
- Tác phong làm việc dân chủ là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo ở cấp xã, nó
sẽ khơi dậy được mọi sự tham gia nhiệt tình và những đóng góp sáng tạo của quần chúng
trong việc tạo ra các QĐ, chỉ thị trong việc tổ chức thực hiện những chủ trương chính sách,

PL của đảng và NN ở cơ sở có hiệu quả. Chú trọng dân chủ ko có nghĩa là bng lỏng trách
nhiệm, người lđạo, quản lý cấp cơ sở phải luôn thực hiện nguyên tắc tập thể lđạo cá nhân phụ
trách. Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. A dua theo quần chúng, quá
dựa dẫm vào quần chúng, thiếu trách nhiệm không phải là biểu hiện của tác phong làm việc
dân chủ. (Vd cụ thể)
- Tác phong làm việc khoa học thể hiện đặc điểm nghiệp vụ tổ chức của phong cách
lãnh đạo cấp cơ sở. Lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở hiện nay khác hẳn thời kỳ bao cấp. Người
lđạo quản lý ko chỉ có nhiệt tình cách mạng, có đạo dức mà cần thiết phải có tình độ chun
mơn trí tuệ. Người lãnh đạo, quản lý cơ sở không thể lãnh đạo theo kinh nghiệm chủ quan,
không thể sử dụng phương pháp thử và sai mà địi hỏi phải có tầm nhìn đúng, trong cơng tác
phải thơng thạo và có tính chun nghiệp, có phương pháp khoa học, sáng tạo trong vận dụng
lý luận vào thực tiễn, nhạy cảm với cái mới. Cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện nên địi hỏi
người lđạo quản lý phải có năng lực tổ chức kỹ năng giao tiếp, am hiểu con người và sd con
người đúng việc, đúng chỗ.
Sự phát triển KT-XH, VH-GD, cơng tác xố đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, chuyển
đổi vật ni cây trồng… dịi hỏi tính hiệu quả, thiết thực, tránh phơ trương, hình thức, qua loa,
đại khái. Nhu cầu, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân dịi hỏi tính thiết thực hiệu quả trong
q trình giải quyết. Chính vì vậy, tác phong làm việc hiệu quả thiết thực cũng là một đặc
trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo cấp xã. (Vd cụ thể)
- Tác phong đi sâu đi sát quần chúng.
Cấp cơ sở là cấp gần dân nên lđạo muốn thành cơng địi hỏi người lđạo quản lý cấp cơ
sở phải có phong cách đi sâu đi sát quần chúng. Lãnh đạo phải hiểu quần chúng, đặt mình vào
vị trí của quần chúng. Cơng tác lãnh đạo phải xuất phát từ quan điểm: dân là gốc, nếu xa dân,
tách dời dân chúng sẽ dẫn đến phong cách quan liêu. Lãnh đạo là phục vụ.
Tác phong đi sâu đi sát quần chúng là đặc trưng riêng biệt của phong cách lãnh đạo cấp
cơ sở. Có đi sâu đi sát quần chúng mới có đc tác phong khoa học dân chủ, tác phong hiệu quả
và thiết thực. (Vd cụ thể)
- Tác phong tôn trọng lắng nghe ý kiến quần chúng.
Dân là gốc, dân là chủ, là mọi nguồn sức mạnh, trí tuệ sáng tạo đều từ nhân dân mà ra.
Chính vì thế tác phong tơn trọng và lắng nghe quần chúng không chỉ là đặc trưng cơ bản của

phong cách lãnh đạo cấp cơ sở mà còn là nguyên tắc làm việc, nguyên tắc ứng xử của người
lđạo.
Để rèn luyện tác phong làm việc trên người lãnh đạo quản lý cấp cơ sở phải luôn luôn
ghi nhớ lời dạy của Bác Hồ “Dễ mười lận không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng
xong”
- Tác phong khiêm tốn học hỏi và thực sự cầu thị.
Trái ngược với tác phong khiêm tốn học hỏi là sự giấu dốt ko dám thừa nhận sự hạn chế
thiếu sót của mình trước đ/c, trước nhân dân; có thái độ tự kiêu, tự đại, ln nghĩ mình là giỏi,


là nhất. Khiêm tốn học hỏi sẽ giúp cho cán bộ lđạo quản lý cấp cơ sở tiến bộ có thêm kinh
nghiệm tri thức, kỹ năng để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thái độ cầu thị vừa thể hiện sự chân thực, khiêm tốn lại vừa thể hiện mong muốn hồn
thiện, tiến bộ của bản thân người lđạo; nó trái ngược với tính tự cao, tự đại. Người lãnh đạo,
quản lý cấp cơ sở có phong cách khiêm tốn, học hỏi và thật sự cầu thị sẽ dễ gần được dân
chúng, chiếm được sự cảm tình, tơn trọng của dân chúng.
- Tác phong làm việc năng động và sáng tạo.
Sự CNH-HĐH đòi hỏi cán bộ lđạo quản lý ko chỉ thụ động chờ hướng dẫn chỉ đạo của
cấp trên mà phải chủ động năng động sáng tạo tìm ra hướng đi hướng chuyển dịch cơ cấu KT
phù hợp cho quê hương, làng xã mình.
Người lãnh đạo năng động, sáng tạo phải là người nhạy bén trong việc phát hiện cái
mới, ủng hộ cái mới tích cực, nhân nó lên thành diện rộng, thành phong trào để đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân trong xã ngày càng được cải thiện, đổi mới, văn minh hơn.
- Tác phong làm việc gương mẫu và tiên phong.
Tính gương mẫu tiên phong của cán bộ đảng viên là yếu tố đảm bảo vai trò lđạo của
Đảng đối với XH, tạo đc sự tín nhiệm, niềm tin của nhân dân. Từ lâu nhân dân đã có câu
“đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
CB lãnh đạo, quản lý phải rèn luyện phong cách sinh hoạt mẫu mực, phù hợp với những
chuẩn mực giá trị xã hội, làng xã, thơn xóm mình.
Để tạo ra bước chuyển biến mới trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá… rất cần đến

phong cách tác phong gương mẫu, tiên phong của những người lãnh đạo, quản lý để qua đó
người dân mến phục, noi theo và tin tưởng.
Tóm lại: phong cách lãnh đạo của CB lãnh đạo, quản lý có vị trí ,vai trị quan trọng đối
với việc lãnh đạo đơn vị góp phần hồn thành tốt chức trách nhiệm vụ. Người CB có phong
cách lãnh đạo - quản lý dân chủ, sâu sát, tỉ mỉ, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm và coi trọng
nội dung thực chất sẽ đem lại hiệu quả cao trong đơn vị, là tấm gương tốt để mọi người học
tập. Vì vậy cần nắm vững các yêu cầu, biện pháp hình thành, phát triển phong cách lãnh đạoquản lý; kiên quyết đấu tranh với những phong cách lãnh đạo-quản lý quan liêu, mất dân chủ,
phơ trương hình thức.


Câu 4: Phân biệt các phong cách lãnh đạo độc đoán – dân chủ – tự do? Theo a/c
phong cách lãnh đạo nào là phù hợp trong giai đoạn hiện nay, vì sao? (4đ)

Phong cách lãnh đạo, quản lý có vai trị quan trọng, ảnh hưởng đến uy tín
của cán bộ lãnh đạo, quản lý và tác động đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính
trị của tổ chức, phong cách của cán bộ cấp dưới, lợi ích của nhân dân. Bởi vậy,
việc xây dựng phong cách lãnh đạo, quản lý chuẩn mực cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý là vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về phong cách lãnh đạo, quản lý.
Theo chúng tôi, Phong cách đạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý là mẫu hành vi mà
người lãnh đạo, quản lý lựa chọn nhằm tác động một cách có hiệu quả đến đối
tượng lãnh đạo, quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ lãnh đạo,
quản lý đã đề ra.
Có nhiều cách phân loại phong cách lãnh đạo, mỗi cách phân loại dựa trên một số cơ sở
nhất định. Sau đây ta sẽ tìm hiểu phân biệt các phong cách lãnh đạo độc đoán – dân chủ – tự
do
* Phân biệt các phong cách lãnh đạo:
độc đoán
Đặc điểm


dân chủ

Tập trung quyền lực, nắm Không quyết theo chủ
bắt tất cả các quan hệ và quan của mình mà ln mở
thơng tin.
rộng dân chủ, tranh thủ,
Các quyết định mệnh lệnh động viên mọi người tham
đưa ra chỉ dưa trên cơ sở gia vào các quyết định
kiến thức, khả năng, kinh quản lý và giải quyết các
nghiệm của người lãnh đạo, nhiệm vụ của đơn vị.

tự do
Tham gia ít nhất vào
cơng việc của tập thể,
hầu như giao hết quyền
hạn, trách nhiệm cho
mọi người.

Thông tin trong tổ chứa
được cung cấp cho mọi
không quan tân ý kiến người Biết phân quyền phù hợp, người và cho phép mọi
dưới quyền, buộc cấp dưới không ôm đồm, mọi việc người tự do hành động


thực hiện một các tập trung, đều có sự tham gia của tập theo suy nghĩ, theo cách
chính xác, nghiêm ngặt.
thể.
thức mà mình cho là tốt
nhất.
Bản thân người lãnh đạo trực

tiếp kiểm tra việc thi hành
của cấp dưới.
Thông tin

Từ trên xuống

Hai chiều: từ trên xuống Theo chiều ngang
và từ dưới lên.

Ưu điểm

Giải quyết nhanh chóng các
nhiệm vụ và có thể phù hợp
với những tổ chức mới thành
lập.

Phát huy được trí tuệ, khả Phát huy tối đa khả năng
năng sáng tạo của cấp của cấp dưới.
dưới, động viên được tính
tích cực của mọi người khi
tiến hành vì cấp dưới ln
thấy rằng trong quyết định
hay cơng việc đó có sự
tham gia ý kiến của mình.

Hạn chế

Thiếu dân chủ, khơng tranh
thủ được trí tuệ, kinh nghiệm
của cấp dưới dễ tạo nên trạng

thái bất bình, căng thẳng

Dễ mất nhiều thời gian và
nếu người lãnh đạo khơng
nhanh chóng lựa chọn
phương án tốt nhất sẽ dẫn
đến bàn bạc kéo dài.

Dễ dẫn đến tình trạng
người lãnh đạo thiếu
trách nhiệm, tình trạng
hỗn loạn, vơ chính phủ.

* Mỗi phong cách có điểm mạnh và điểm yếu riêng. Khơng có phong cách nào là tốt
nhất tuyệt đối. Trong một môi trường cụ thể, có thể có một số phong cách thích hợp hơn
những phong cách khác. Người lãnh đạo giỏi biết tôn trọng và sử dụng người giỏi, phong
cách lãnh đạo khơng có phương án tuyệt đối mà tùy vào đối tượng quản lý, vào mơi trường
quản lý, ví dụ như đối tượng là những nhà trí thức, những nghệ sĩ thì lãnh đạo bằng phong
cách tự do là phù hợp.
Chọn phong cách quản lý phải chú ý các đặc điểm sau:
- Khơng có phong cách quản lý tối ưu
- Khơng có phong cách quản lý chung cho mọi đối tượng như người mới vào nghề phải
hướng dẫn chỉ việc, người lâu năm thì phong cách dân chủ tự do để phát huy chất xám
- Khơng có phong cách quản lý chung cho mọi loại tập thể : tập thể mới thì là phong
cách tập trung để rèn nề nếp, tập thể lâu năm thì phong cách bớt mệnh lệnh
- Khơng có phong cách quản lý chung cho mọi loại tình huống: Trường hợp cấp bách
thiên tai cần tập trung
- Khơng có phong cách quản lý chung cho mọi lĩnh vực hoạt động : như trong quân đội
bắt buộc phải quản lý bằng mệnh lệnh.
- Khơng có phong cách quản lý chung cho mọi nhà quản lý : người lãnh đạo bản lĩnh là

phong cách tự do, người lãnh đạo thiếu bản lĩnh dùng phong cách dân chủ, độc đoán
Hiện nay trình độ quản lý ở VN chưa đạt mức cao, do đó phong cách lãnh đạo dân chủ
được xem là phong cách có nhiều ưu thế nhất. Là đặc trưng cơ bản của phong cách lãnh đạo ở
cơ sở, nó sẽ khơi dậy được mọi sự tham gia nhiệt tình và mọi những đóng góp sáng tạo của


quần chúng trong việc tạo ra những quyết định, chỉ đạo, chỉ thi trong việc tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ở cơ sở có hiệu quả.
Tuy nhiên nhà lãnh đạo cũng không nên tuyệt đối thực hiện theo phong cách này nên
lựa chọn một phong cách phù hợp, dù lựa chọn phong cách nào cũng cần tuân thủ những tác
phong quản lý như:
- Tác phong làm việc dân chủ;
- Tác phong khoa học;
- Tác phong làm việc hiệu quả thiết thực;
- Tác phong sâu sát quần chúng, tiên phong gương mẫu;
- Tác phong làm việc năng động, sáng tạo.
* Liên hệ thực tiễn: UBKT đảng uỷ phường 2
Tính chất hoạt động:

p/c lãnh đạo lựa chọn

UBKT Đảng uỷ là một bộ phận tham
mưu làm công tác kiểm tra của Đảng
uỷ; thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
qui định trong Điều lệ Đảng, tham
mưu, giúp Đảng uỷ thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật Đảng

Thực hiện chỉ đạo từ Đảng uỷ phường và UBKT
Quận uỷ => áp dụng p/c lãnh đạo độc đoán.

Tuy nhiên, UBKT Đảng uỷ còn phối hợp với các bộ
phận khác trong thực hiện tham mưu xây dựng kế
hoạch, nghị quyết đảng bộ phường => p/c lãnh đạo
dân chủ

Tính chất phát triển:
- UBKT Đảng uỷ thường xuyên thay - Nhân sự thường thay đổi, nên áp dụng p/c lãnh đạo
đổi nhân sự (chuyển công tác, tuổi độc đốn để thực hiện n/v chính trị do lãnh đạo cấp
tác…)
trên giao phó.
- Thường trực UBKT (CN và PCN) là - Các nhân sự đã có sự gắn kết, quan hệ tốt trong xử
nhân sự đã làm việc cùng nhau 03 lý công việc, ý thức thực hiện nhiệm vụ -> có thể áp
năm.
dụng p/c dân chủ.
Trình độ: cao đẳng, đại học.

Tập thể có trình độ, chun mơn nên áp dụng p/c
lãnh đạo dân chủ

Tính chất cơng việc

Hoạt động kỹ thuật nghiệp vụ cần p/c lãnh đạo độc
đoán; Hoạt động tiếp xúc đảng viên và chi bộ cần
p/c lãnh đạo tự do.

Tình huống cơng việc

Xử lý sự cố áp dụng p/c lãnh đạo độc đoán
Áp dụng biện pháp, hình thức mới: áp dụng p/c lãnh
đạo dân chủ


Tóm lại, phong cách lãnh đạo của CB lãnh đạo, quản lý có vị trí ,vai trị quan trọng đối
với việc lãnh đạo đơn vị góp phần hồn thành tốt chức trách nhiệm vụ. Người CB có phong
cách lãnh đạo - quản lý dân chủ, sâu sát, tỉ mỉ, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm và coi trọng
nội dung thực chất sẽ đem lại hiệu quả cao trong đơn vị, là tấm gương tốt để mọi người học
tập. Vì vậy cần nắm vững các yêu cầu, biện pháp hình thành, phát triển phong cách lãnh đạo-


quản lý; kiên quyết đấu tranh với những phong cách lãnh đạo-quản lý quan liêu, mất dân chủ,
phơ trương hình thức.

Câu 5: A/c hãy nêu và phân tích các kỹ năng ra quyết định của cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở cơ sở? (6đ)
Một trong những chức năng của quản lý là ra quyết định quản lý. Quyết định quản lý
liên quan đến thành bại, đến hiệu quả cao thấp của tồn bộ q trình quản lý. Quyết định quản
lý được coi là sản phẩm của người lãnh đạo quản lý, người lãnh đạo thể hiện tài năng của
mình là ở khâu ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý. Vì vậy, để có quyết
định chính xác, đúng đắn, khả thi và hiệu quả, người quản lý phải nắm vững các đặc điểm, vài
trò và yêu cầu của quyết định quản lý, phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện quyết
định một cách khoa học. Bằng những kiến thức về khoa học quản lý, trong phạm vi bài làm
tơi xin đi sâu phân tích các kỹ năng ra quyết định của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở.
TRước tiên ta tìm hiệu khái niệm quyết định lãnh đạo, quản lý? Quyết định LĐ,QL là sự
thể hiện ý chí của các chủ thể trong hoạt động LĐ,QL xã hội, tiến hành theo một trình tự, thủ
tục, được thể hiện dưới những hình thức nhất định như: nghị quyết, quyết định, chỉ thị…;
nhằm tổ chức và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người theo định
hướng nhất định.
Ví dụ thực tiễn: …
Để ra được quyết định lđ, quản lý đúng đắn, có tính khả thi cần chú ý một số kỹ năng
sau:
1. Kỹ năng thu thập thông tin, phân tích và sử dụng thơng tin

Thơng tin có vai trị quan trọng trong cơng tác lãnh đạo, điều hành và giải quyết cơng việc
của người lãnh đạo. Có đầy đủ thơng tin, cơng việc được giải quyết hợp tình hợp lý. Cung cấp
thông tin kịp thời công việc được giải quyết nhanh chóng. Ngược lại, thiếu thơng tin, thơng
tin sai lệch sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết công việc. Đôi khi công việc giải quyết
một cách phiến diện không đáp ứng được nhu cầu công tác.
Để ra được 1 quyết định LĐ, quản lý phù hợp, cán bộ, công chức LĐ cấp cơ sở cần phải
xđ thông tin được thu thập từ nguồn nao? Và khi có thơng tin cần phải kiểm tra thơng tin bằng
cách đặt ra và trả lời 1 loạt câu hỏi: Thông tin có hồn tồn mới ko? Thơng tin dùng trong
việc ra quyết định như thế nào? Độ tin cậy và chính xác của thơng tin là bao nhiêu phần trăm?
Có cần lưu trữ thông tin này ko?
Thông tin đến với lđ cấp cơ sở qua nhiều “kênh” đó là: các nghị quyết, chỉ thị, thông tư,
văn bản của cấp trên trực tiếp có liên quan; số liệu điều tra, tình hình thực tiễn tại cơ sở; mạng
internet; tham mưu của các chuyên gia ở các lĩnh vực khác nhau; trình độ, năng lực, phẩm
chất của người cán bộ lđ, qlý,...
Cấp cơ sở là cấp trực tiếp gần dân và giải quyết những vấn đề thực tế đặt ra ở địa
phương vì vậy việc lãnh đạo cấp cơ sở trực tiếp tìm hiểu thơng tin về tình hình thực tế cơ sở là
hết sức cần thiết, tránh tình trạng nắm bắt thông tin ko kịp thời dẫn đến việc ra những quyết
định lđ, quản lý xa rời thực tế, hiệu quả ko cao.
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, người lãnh đạo cấp cơ sở cũng phải chú ý
tới việc cập nhật và khai thác thông tin từ mạng internet ở những địa phương có điều kiện đáp
ứng về CNTT.


Ở cấp cơ sở có thể khai thác tốt sự tham mưu, góp ý của cán bộ, cơng chưc đã nghĩ hưu
vì đây là những “chuyên gia” trong nhiều lĩnh vực mà cấp cơ sở có thể khai thác tại chổ. Vai
trò của già làng, trưởng ấp, tổ trưởng tổ dân phố cũng hết sức quan trọng vì đây là đầu mối
nắm bắt thông tin ở các cụm dân cư trên địa bàn cấp xã.
Việc xử lý thông tin để ra quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở dược thực hiện trước
hết là chính cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở và bản thân cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở
vẫn là người lựa chọn thơng tin cuối cùng. Chính vì vậy, nâng cao năng lực, trình độ, phẩm

chất của người lãnh đạo là một trong những yêu cầu luôn phải được đặc ra và thường xuyên
trao dồi.
2. Kỹ năng soạn thảo, ra quyết định:
Trong quá trình soạn thảo và ra quyết định LĐ, qlý cần chú ý tới việc thực hiện đúng
quy trình ra quyết định, tránh việc làm tắt tùy tiện dẫn tới những sai sót trong q trình ra
quyết định
Trong q trình dự thảo QĐ chú ý tới những ý kiến phản biện đã được thu nhận. Người
lãnh đạo cần phải có thái độ cầu thị đối với những ý kiến phản biện để lựa chọn những
phương án, giải pháp thích hợp nhất trong quá trình xây dựng dự thảo quyết định quản lý.
Các sai lầm cần tránh trong việc soạn thảo và ra QĐ lãnh đạo, quản lý.
Một là, ra QĐ lãnh đạo, quản ý mà không nắm vững yêu cầu thực tế, giải quyết các vấn
đề một cách chung chung, ko đủ cụ thể và hiện thực, ko đủ chính xác rõ ràng, có thể hiểu và
làm khác nhau.
Hai là, quá tin vào tham mưu, người dự thảo, ko xem xét nghiên cứu kỹ lưỡng, ko lắng
nghe ý kiến người tham gia, người phản biện, hay quá tin vào những hiểu biết chủ quan of
mình đi đến ra QĐ lãnh đạo, quản lý một cách phiến diện, chủ quan.
Ba là, thể hiện ở chổ ra QĐ lãnh đạo, quản lý mang tính thỏa hiệp, nể nang, dựa dẫm
cấp trên một cách thụ động, khơng có tính sáng tạo, k tự chịu trách nhiệm.
Bốn là, ra QĐ lãnh đạo, qlý ko đúng thẩm quyền, ko đủ căn cứ pháp lý, QĐ có nội dung
trùng lặp, chồng chéo ngay trong bản thân QĐ or với các QĐ đã ra trước đó.
3. Kỹ năng lập kế hoạch thực hiện quyết định lãnh đạo quản lý
Lập kế hoạch là 1 khâu trong chu trình lãnh đạo, quản lý. Trong quy trình tổ chức thực
hiện quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở, lập kế hoạch là bước dầu tiên trong quy trình tổ
chức thực hiện qd và có ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo hiệu quả thực hiện qd trên thực
tế. Tuy nhiên, lập kế hoạch tổ chức thực hiện qd lãnh đạo, quản lý phải được đặt trong mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khâu của chu trình thực hiện quyết định.
Người lãnh đạo có kỹ năng lập kế hoạch thể hiện: việc tiên liệu được các tình huống
trong hoạt động lãnh đạo, quản lý; phối hợp mọi nguồn lực của tổ chức 1 cách hữu hiệu; tập
trung vào các mục tiêu và chính sách của tổ chức; …..
Trình tự lập KH thực hiện QĐ lãnh đạo, quản lý như sau: xác định mục tiêu; nội dung;

địa nàn, đối tượng, thời gian; phương pháp thực hiện; phương pháp theo dõi, kiểm tra….việc
thực hiện quyết định.
4. Kỹ năng chỉ đạo, điều hành thực hiện QĐ lãnh đạo, quản lý: Khi kế hoạch thực hiện
QĐ lãnh đạo, quản lý đã được đặt ra bất cứ đối tượng chịu sự lãnh đạo, quản lý đều phải thực
hiện nghiêm chỉnh trên thực tế dưới sự chỉ đạo điều hành của người lãnh đạo. Để điều hành
được việc thực hiện quyết định trên thực tế một cách có hiệu quả người lãnh đạo có khả năng
nắm bắt các vấn đề phát sinh trong q trình thực hienj QĐ, bên cạnh đó chú ý tới 1 số vấn đề


mang tính ngun tắc như: thường xun giám sát tình hình, tinh thần làm việc của CB, CC
dưới quyền; đưa ra các chỉ đạo hợp lý; có phương án hỗ trợ khi cần thiết;…
5. Kỹ năng xử lý tình huống trong lãnh đạo, quản lý: người lãnh đạo cầ chú ý các vấn đề
sau: chỉ đạo triển khai giải quyết 1 cách chủ động theo KH đã xây dựng trước; có phương án
kịp thời giản quyết nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời những sai phạm phát sinh;…
6. Kỹ năng giải quyết khieus nại, tố cáo để thực hiện tốt công tác này người lãnh đạo
thực hiện hiện đúng yêu cầu sau: nắm được các quy định pháp luật nhà nước, quy định của
Đảng về giải quyết khiếu nại, tố cáo kể cả thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại tố
cáo và các quy định pháp luật về giải quyết KN-TC gắn với đặc thù địa phương
Những kỹ năng cần trau dồi đó là: kỹ năng tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo; gia tiếp
của CBCC trong khi thực thi công vụ; phân loại, xử lý đơn thư; xác minh, xem xét và giải
quyết;…. đơn thư khiếu nại tố cáo
Ví dụ tại đơn vị:
Quyết định thành lập BCĐ thực hiện QCDC tại đơn vị
Công ty tôi công tác là Công ty TNHH MTV, trực thuộc Sổ Giao Thông Vận Tải TP
HCM. Căn cứ công văn số 26-CV/ĐU ngày 15 tháng 7 năm 2011 của Đảng Ủy Sở Giao
Thông Vận Tải TP HCM về việc tổ chức học Nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quấc lần thứ XI,
Đại Hội Đảng Bộ thành phố lần thứ IX, Đại Hội Đảng Bộ Sở lần thứ V.
Ban Thường Vụ Đảng Ủy Công ty tôi công tác ra quyết định số 13 thành lập Ban Tổ
Chức gồm 05 đồng chí thực hiện tổ chức đợt học tập này ( gồm 1 trưởng ban, 1 phó ban và 3
thành viên ).

Sa khi ra quyết định, Ban Thường Vụ Đảng Ủy đưa quyết định này lên trên mạng nội bộ
của Công ty để thơng báo đến những đồng chí có tên trên trong quyết định biết để thực hiện
các nội dung trong quyết định.
Căn cứ vào chức danh trong quyết định, tôi là trưởng ban tổ chức đã họp các đồng chí
trong Ban Tổ Chức và đề ra kế hoạch thực hiện như sau: Mời báo cáo viên là các báo cáo viên
thuộc Đảng Ủy Sở Giao Thông Vận Tải, thời gian học tập Nghị quyết vào 29, 30 tháng 07
năm 2011, địa điểm: Hội trường Công ty, các đối tượng tham gia học là cán bộ chủ chốt, toàn
thể đảng viên, toàn thể đoàn viên, các cán bộ đoàn và cán bộ cơng đồn cơ sở, đồng chí
trưởng Ban Tổ Chức sau khi soạn thảo kế hoạch đã trình đồng chí Bí Thư phê duyệt.
Sau khi kế hoạch được phê duyệt, tơi và các đồng chí trong Ban Tổ Chức phối hợp với
Ban Chấp Hành 2 Đoàn thể cử người chuẩn bị âm thanh, ánh sáng, nhạc Quốc Ca, cắt dán
phông chữ và khẩu hiệu, chuẩn bị xắp bàn ghế đúng với số lượng trong kế hoạch, chuẩn bị
nước uống. Tất cả những cơng việc trên đều được chuẩn bị hồn chỉnh trước ngày học 01
ngày.
Ban tổ chức làm thư mời báo cáo viên và ghi rõ thời gian , địa điểm học gửi lên Đảng
Ủy Sở để báo cáo viên biết ngày và xắp xếp lịch giảng ( thư mời báo cáo viên được gửi trước
30 ngày ).
Ban tổ chức học tập Nghị Quyết ra thông báo ngày học là ngày 29 và ngày 30 tháng 07
năm 2011 thời gian; sáng từ 8 giờ đến 11 giờ; chiều từ 1 giờ 30 đến 4 giờ 30 và gửi thông báo
lên mạng nội bộ của công ty trước ngày học là 07 ngày để các đối tượng tham dự học biết và
xắp xếp công việc và thời gian để đii học.
Trong q trình thực hiện quyết định, Đồng chii1 Bí Thư Đảng Bộ Công ty thường
xuyên mời tôi là trưởng ban tổ chức đến để báo cáo công tác chuẩn bị đến đâu và gần ngày đi
học Đồng chí trực tiếp xuống Hội trường Công ty để kiểm tra các công tác chuẩn bị đã được


đầy đủ chưa nếu có gì bị thiếu kịp thời chấn chỉnh và bổ sung ngay để cho buổi học Nghị
quyết đạt kết quả tốt.
Sau khi tổ chức học tập Nghị quyết XI xong, Ban Thường Vụ Đảng Ủy đã họp Ban Tổ
Chức và đánh giá việc thực hiện đạt kết quả tốt và thành cơng tốt đẹp.

Tóm lại: Kỹ năng ra quyết định là khả năng của cán bộ lãnh đạo, quản lí biết quyết định
lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cơng tác quản
lí, lãnh một cách kịp thời. Ra quyết định là khâu mấu chốt trong quản lí, lãnh đạo. Kỹ năng ra
quyết định là thành phần quan trọng của nhân cách quản lí. Đây là sự thể hiện năng lực, trình
độ, phẩm chất của nhà quản lí. Để có kỹ năng ra quyết định, người cán bộ phải học tập lâu
dài, hiểu biết sâu sắc lí luận, phải trải nghiệm và đúc rút kinh nghiệm liên tục.

Câu 6: Theo anh, chị để ra được 01 quyết định đúng, có tính khả thi, được quần
chúng nhân dân ủng hộ, quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải đáp ứng được các
yêu cầu nào?
Một trong những chức năng của quản lý là ra quyết định quản lý. Quyết định quản lý
liên quan đến thành bại, đến hiệu quả cao thấp của tồn bộ q trình quản lý. Quyết định quản
lý được coi là sản phẩm của người lãnh đạo quản lý, người lãnh đạo thể hiện tài năng của
mình là ở khâu ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý. Vì vậy, để có quyết
định chính xác, đúng đắn, khả thi và hiệu quả, người quản lý phải nắm vững các đặc điểm, vài
trò và yêu cầu của quyết định quản lý, phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện quyết
định một cách khoa học. Bằng những kiến thức về khoa học quản lý, trong phạm vi bài làm
tôi xin đi sâu phân tích các yêu cầu cơ bản của quyết định của lãnh đạo, quản lý ở cơ sở.


TRước tiên ta tìm hiệu khái niệm quyết định lãnh đạo, quản lý? Quyết định LĐ,QL là sự
thể hiện ý chí của các chủ thể trong hoạt động LĐ,QL xã hội, tiến hành theo một trình tự, thủ
tục, được thể hiện dưới những hình thức nhất định như: nghị quyết, quyết định, chỉ thị…;
nhằm tổ chức và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người theo định
hướng nhất định.
Để ra được một quyết định đúng, có tính khả thi, được quần chúng nhân dân ủng hộ,
quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải đáp ứng được các yêu cầu sau:+
Thứ nhất, bảo đảm tính chất chính trị: qd lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở là sự cụ thể hóa
Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn của địa phương cơ sở, là sự cụ thể hóa các quyết định
quản lý của cơ quan nhà nước cấp trên, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của chính quyền cơ sở

theo quy định của pháp luật ở địa phương ơ sở. Vì vậy, NQ của Đảng bộ cơ sở và Quyết định
quản lý của chính quyền cơ sở khơng được trái với đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của NN.
Thứ 2, bảo đảm tính hợp pháp. Hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền cấp cơ
sở được đặt trong khn khổ pháp luật vì vậy các quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải
phù hợp với các quy định của pháp luật.
Thứ 3 là ban hành quyết định lãnh đạo, quản lý đúng hình thưc và thủ tục quy định. Về
hình thức: các quyết định lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải đúng tên gọi, thể thức như: tiêu đề,
số, ký hiệu, ngày, tháng, năm ban hành và hiệu lực, chữ ký, con dấu,…hình thức thể hiện chủ
yếu bằng văn bản. Vi phạm các quy định về hình thức, thể thức có thể dẫn dắt đến hậu quả là
làm cho quyết định lãnh đạo, quản lý trở thành bất hợp pháp.
Thứ 4 là cần bảo đảm tính hợp lý. Tính hợp lý của quyết định lãnh đạo, quản lý thể
hiện:
- Quyết định lãnh dạo, quản lý phải đảm bảo hài hịa lợi ích của nhà nước, tập thẻ và cá
nhân.
- Quyết định lãnh đạo, quản lý phải cụ thể và đáp ứng được các yêu cầu của đời sống xã
hội đặt ra và với các đối tượng thực hiện. Một quyết định lãnh đạo, quản lý có tính khả thi cao
khi được ban hành đúng lúc, phù hợp với yêu cầu lãnh đạo, quản lý ở địa phương cơ sở.
- Quyết định lãnh đạo, quản lý phải mang tính hệ thống tồn diện.
Thứ 5, bảo đảm kỹ thuật ban hành quyết định lãnh đạo, quản lý. Yeu cầu này thể hiện:
ngơn ngữ, văn phong, cách trình bày một quyết định lãnh đạo, quản lý phải rõ ràng, dễ hiểu,
ngắn gọn, chính xác khơng đa nghĩa.
* Liên hệ thực tế: Trong thực tiễn cho thấy có những quyết định quản lý khi ban hành
được triển khai rộng rãi và trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, q trình này cũng là q trình đổi
mới, q trình hồn thiện pháp luật để thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Sự
phát triển của pháp luật với sự phát triển của thực tế trong giai đoạn này không phải lúc nào
cũng đạt được sự đồng bộ nhất nhất mà có lúc, có nơi cịn có những khoảng cách mà Nhà
nước đã và đang cố gắng khắc phục tình trạng này.
Lấy ví dụ như việc ban hành Nghị định 60/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/7/1994 về việc

Quyền sử dụng nhà ở và Quyền sử dụng đất ở tại đơ thị. Nội dung chính của Nghị định này là
nhà nước quy định đối với nhà và đất ở thuộc khu vực đơ thị thì chủ sở hữu nhà và chủ sử
dụng đất sẽ được cấp 1 giấy chứng nhận trên đó có cả 2 quyền : quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở. Đây là một quyết định hợp pháp do được ban được rất nhiều người
đồng tình ủng hộ, tham gia thực hiện nhưng cũng có những quyết định quản lý rất khó tổ


chức triển khai thực hiện. Đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, vốn là những vấn đề rất nhạy
cảm trong quần chúng nhân dân. Pháp luật nói chung và pháp luật đất đai nói riêng đang
hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức. Tuy nhiên, về tính khoa học, tính linh hoạt, tính hiệu
quả, tính tồn diện và tính khả thi của quyết định có rất nhiều vấn đề cần phải xem xét
Về tính khoa học và tính thống nhất, quyết định này có nhiều yếu tố phù hợp với mục
tiêu mà chính phủ và cả người dân mong muốn : đó là nhằm quản lý chặt chẽ hơn tình hình
đất đai - nhà ở tại đơ thị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách đền bù,
giải toả, quy hoạch, chỉnh trang đô thị cũng như các quan hệ giao dịch khác của người dân
(thế chấp, chuyển nhượng ...). Rõ ràng việc gắn cả 2 quyền này vào cùng một giấy chứng
nhận sẽ thuận tiện hơn cho người dân khi thực hiện các quyền (chuyển nhượng, thừa kế, thế
chấp, bảo lãnh, góp vốn ...) và cũng phù hợp xu thế hình thành một thị trường bất động sản ở
nước ta. Tuy nhiên bản thân của 2 quyền này có những điểm khác nhau rất cơ bản : đó là đối
với quyền sở hữu nhà thì người chủ sở hữu có thể tồn quyền định đoạt tài sản của mình, họ
có thể thế chấp, chuyển nhượng, thừa kế phần tài sản này cho bất cứ đối tượng nào mà pháp
luật không cấm, tuy nhiên về quyền sử dụng đất đai thì khác, quyền của người sử dụng đất sẽ
có những giới hạn nhất định, do đó có những trường hợp có thể pháp luật về nhà ở, dân sự
không cấm nhưng đối với pháp luật đất đai thì khơng được phép chuyển nhượng, thừa kế, thế
chấp... Mặt khác, nội dung của Nghị định còn giao cho cả 2 ngành Xây dựng và Địa chính
trong phạm vi chức năng của mình tổ chức thực hiện, mỗi ngành với nhân lực và nội dung
quản lý riêng nên ban hành hướng dẫn lại chưa thống nhất. Do đó, Nghị định này cịn hạn
chế về tính khoa học và tính thống nhất.
Về tính khả thi, tính tồn diện và tính linh hoạt thì thực tế cho thấy rằng phương án tổ
chức thực hiện mà Nghị định đưa ra là phải có sự phối hợp của cả hai cơ quan xây dựng và

địa chính cùng thực hiện, quản lý hồ sơ lưu và bản lưu giấy chứng nhận cũng ở cả hai đơn vị,
điều này trên thực tế gây rất nhiều phiền hà cho người dân vì khi có thay đổi nội dung trên
giấy chứng nhận thì phải đến cả 2 cơ quan để xác nhận. Mặt khác, do mỗi cơ quan chức năng
quản lý khác nhau nên cơ quan nào cũng muốn giấy chứng nhận phải thể hiện đầy đủ những
thơng tin mình cần quản lý, điều đó càng làm cho quy trình thực hiện khó khăn hơn nhiều.
Lực lượng thực hiện của 2 bên cũng không đồng nhất nên cùng một nhà và đất ấy phải đo vẽ
nhà đất 2 lần. Ngồi ra, có rất nhiều hồ sơ nhà đất chưa đủ điều kiện cấp giấy nên để được
hợp thức hóa cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở thì người dân
phải cùng một lúc phải nộp một khoản tiền khá lớn vừa nhà, vừa đất. Bên cạnh đó, trong q
trình sử dụng có khi chủ nhà hợp pháp về đất nhưng do nhà xây dựng lấn chiếm không gian
hoặc xây dựng trái phép và không phù hợp với quy hoạch nên khơng được cấp quyền sở hữu
nhà, do đó người chủ nhà này cũng không được cấp GCN. Từ những vướng mắc trên cho
thấy rằng tính khả thi và tính tồn diện của Nghị định là rất thấp và sau 10 năm ban hành cả
nước cũng chỉ mới cấp được không quá 50% số trường hợp phải cấp, không thỏa mãn những
mục tiêu đã đề ra cũng như không đáp ứng được những vấn đề mà thực tế diễn ra.
* Ví dụ cụ thể 2: kiểm tra nề nếp sinh hoạt của 01 đảng viên chuyển về sinh hoạt tạm
tại chi bộ 02 được 05 tháng và đã vắng 02 kỳ họp (có thơng báo)
1) Triển khai quyết định: truyền thơng nội dung của buổi tiếp xúc đến các đối tượng
có liên quan: UBKT đảng uỷ, cấp uỷ chi bộ 02 và đảng viên được tiếp xúc.
2) Tổ chức thực hiện quyết định:
+ Phân công nhiệm vụ cho từng đối tượng, đơn vị: UBKT chuẩn bị các nội dung cho
buổi tiếp xúc, cấp uỷ chi bộ liên hệ và đôn đốc nhắc nhở đảng viên tham gia đúng thời gian.
+ Chuẩn bị các điều kiện thuận lợi để tiến hành.
3) Kiểm tra thực hiện quyết định:
+ Trong buổi tiêm, nắm bắt tình hình, tâm tư của đảng viên.


Giám sát quy trình tiếp xúc theo đúng quy định: phong cách tiếp xúc, lời nói, cử chỉ…
4) Tổng kết, đánh giá việc thực hiện quyết định:
+ Sau buổi tiếp xúc đề xuất phương án thực hiện: vận động đảng viên làm đơn xin tạm

miễn sinh hoạt trong 6 tháng.
+ Đánh giá hiệu quả thu được qua buổi tiếp xúc.

Câu 7: Phân tích những kỹ năng cần thiết của người cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở cơ sở khi tiến hành diễn thuyết trước công chúng
Chuẩn bị diễn thuyết
* Nghiên cứu đối tượng
- Sự cần thiết phải nghiên cứu đối tượng:
Trong diễn thuyết trước công chúng, đối tượng quy định việc xác định nội
dung, lựa chọn phương pháp diễn thuyết. Đối với những đối tượng khác nhau,
nội dung phương pháp phát biểu, trình bày phải khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu
về đối tượng là công việc đầu tiên mà người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tiến
hành trước khi diễn thuyết. Sinh thời Bác Hồ thường xuyên căn dặn cán bộ
tuyên truyền, nhà văn, nhà báo phải tự đặt câu hỏi: “Viết cho ai xem? Nói cho ai
nghe?” trước khi nói, viết một vấn đề nào đó.
- Nội dung nghiên cứu đối tượng:
+ Nghiên cứu đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu: các đặc điểm về thành
phần xã hội - giai cấp, nghề nghiệp, học vấn, giới tính, tuổi tác... của đối tượng.
+ Nghiên cứu các đặc điểm về tư tưởng và tâm lý - xã hội: hệ thống các
quan điểm, chính kiến, động cơ, khn mẫu tư duy, tâm trạng và trạng thái thể
chất...của họ.
+ Nghiên cứu về nhu cầu, thị hiếu thông tin; thái độ của người nghe đối
với nguồn thông tin và nội dung thông tin; con đường, cách thức thỏa mãn nhu
cầu thông tin của đối tượng.


Trên cơ sở nghiên cứu về đặc điểm này và xuất phát từ các đặc điểm này,
người cán bộ lãnh đạo, quản lý xác định mục đích, nội dung, phương pháp diễn
thuyết phù hợp.
* Chọn chủ đề cho bài diễn thuyết phri đạt các yêu cầu sau:

Một là, bài diễn thuyết phải mang đến cho đối tượng công chúng những
thông tin mới, hấp dẫn.
Hai là, nội dung chủ đề diễn thuyết phải mang tính thiết thực, đáp ứng
nhu cầu thơng tin, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của người dân.
Ba là, chủ đề bài diễn thuyết mang tính thời sự, tính cấp thiết tức là nói
phải đề cập đến những vấn đề đang tác động lớn đến dư luận xã hội, những vấn
đề mà công chúng đang quan tâm.
Bốn là, nội dung chủ đề bài diễn thuyết phải mang tính giáo dục tư tưởng,
tức là nói phải góp phần giáo dục tư tưởng cho người nghe, góp phần giúp người
nghe hiểu đúng đường lối, chính sách, pháp luật và quyết tâm thực hiện chúng.
* Xây dựng đề cương bài diễn thuyết
- Đề cương bài diễn thuyết cần đạt tới các yêu cầu sau:
+ Phải thể hiện mục đích tuyên truyền, thuyết phục. Đề cương là sự cụ thể
hóa mục đích tuyên truyền bằng các phần, các mục, các luận điểm, luận cứ, luận
chứng.
+ Phải chứa đựng, bao hàm nội dung tun truyền một cách lơgíc
- Cần xây dựng nhiều phương án của đề cương, từ đó chọn phương án tối
ưu. Phương án tôi ưu là phương án phù hợp với một đối tượng cơng chúng cụ
thể, xác định. Q trình xây dựng đề cương có thể thay đổi, bổ sung hoàn thiện
dần từ thấp đến cao, từ đề cương sơ bộ đến đề cương chi tiết.
- Kết cấu đề cương:
Phần mở đầu:
+ Chức năng của phần mở đầu: là phần nhập đề cho chủ đề bài diễn
thuyết; là phương tiện giao tiếp ban đầu với người nghe, kích thích sự hứng thú
của người nghe đối với nội dung bài diễn thuyết.
+ Yêu cầu đối với phần mở đầu: phải tự nhiên và gắn với các phần khác
trong bố cục toàn bài cả về nội dung và phong cách ngôn ngữ; ngắn gọn, độc
đáo và tạo hấp dẫn đối với người nghe.
Phần chính của bài diễn thuyết:
+ Đây là phần dài nhất, quan trọng nhất, quy định chất lượng của bài diễn

thuyết, là phần bao hàm, phát triển nội dung diễn thuyết một cách toàn diện, sâu
sắc.


+ Nếu như chức năng đặc trưng của phần mở đầu là thu hút sự chú ý của
người nghe ngày từ đầu thì chức năng đặc trưng của phần chính là lơi cuốn ý
nghĩ, kích thích tư duy của họ bằng sức thuyết phục của lơgíc trình bày.
Việc chuẩn bị phần chính của bài diễn thuyết cần đạt được các yêu cầu
sau:
+ Bố cục chặt chẽ, được trình bày lập luận theo những quy tắc, phương
pháp nhất định.
+Tính xác định, tính nhất qn và tính có luận chứng.
+ Tính tâm lý, tính sư phạm:
Phần kết luận
Kết luận là phần khơng thể thiếu trong cấu trúc một bài diễn thuyết. Nó
làm cho bố cục diễn thuyết trở nên cân đối, lơgíc, có tác dụng khái quát và nhấn
mạnh điều đã nói.
Phần kết luận có chức năng đặc trưng sau:
+Tổng kết những vấn đề đã nói
+ Củng cố và làm tăng ấn tượng về nội dung bài nói
+Đặt ra trước người nghe những nhiệm vụ nhất định và kêu gọi họ đi đến
hành động.
+ Kết luận phải đạt tới yêu cầu ngắn gọn, giàu cảm xúc nhưng tự nhiên,
không giả tạo và được sử dụng để kết thúc bài diễn thuyết.
b. Tiến hành diễn thuyết trước cơng chúng
Trong q trình diễn thuyết, người nói tác động đến người ngheo chủ yếu
thơng qua hai kênh: kênh ngôn ngữ và kênh phi ngôn ngữ (mối quan hệ người
người nghe – người nói cũng được thực hiện bằng kênh này).
- Kênh ngơn ngữ (Có tài liệu gọi là cận ngôn ngữ, tức là những yếu tố đi
liền với ngôn ngữ). Khi dùng kênh ngôn ngữ có thể sử dụng các yếu tố như ngữ

điệu, cường độ, âm lượng, nhịp độ lời và sự ngừng giọng...để tạo ra sự hấp dẫn
cho bài nói.
+ Ngữ điệu của lời nói phải phong phú, biến hóa, có sự vận động của âm
thanh, tránh cách nói đều đều, đơn điệu, buồn tẻ.
+ Cường độ lời nói (nói to hay nói nhỏ) cần phù hợp với khn khổ kích
thước của hội trường, số lượng và đặc điểm người nghe. Cần điều chỉnh cường
độ lời nói đủ để người ngồi xa nhất có thể nghe được.
+ Nhịp độ lời nói (nói nhanh hay nói chậm) do nội dung bài nói, tình
huống và không gian giao tiếp, khả năng hoạt động của tư duy và sự chú ý của
người nghe quy định.


+ Ngừng giọng cũng là yếu tố của kỹ năng sử dụng kênh ngôn ngữ trong
diễn thuyết. Việc sử dụng kỹ năng ngừng giọng là để nhấn mạnh tầm quan trọng,
tạo ra sự tập trung chú ý của người nghe đối với một vấn đề nào đó.
- Kênh phi ngơn ngữ (có tài liệu gọi là kênh tiếp xúc cơ học hay các yếu
tố về hành vi). Kênh này bao gồm các yếu tố như tư thế, vận động và cử chỉ, nét
mặt, nụ cười...chúng là những yếu tố được quy định bởi phong cách và thói quen
cá nhân.
+ Tư thế đứng trước công chúng: phải tự nhiên, linh hoạt. Trong suốt
buổi nói chuyện diễn thuyết phải có vài lần thay đổi tư thế để người nghe không
cảm thấy mệt mỏi, nhưng cũng không nên thay đổi tư thế nhiều.
+ Cử chỉ và diện mạo: phải phù hợp với ngữ điệu của lời nói và cảm xúc,
với sự vận động của tư duy và tình cảm. Nét mặt, nụ cười, ánh mắt có thể truyền
đạt hàng loạt các cảm xúc: niềm vui hay nỗi buồn, sự kiên quyết hay nhân
nhượng, sự khẳng định hay nghi vấn...mà nhờ nó người nói gieo được lịng tin,
sự hào hứng vào tâm hồn, trí tuệ người nghe.
Các yếu tố trên đây tác động lên thị giác của người nghe và đồng thời có
tác dụng nâng cao hiệu quả tri giác thông tin của họ. Chúng cịn được kết hợp
phù hợp với tính chất nội dung thông tin và với các yếu tố ngôn ngữ để nâng cao

chất lượng bài phát biểu.
- Một số cách nói thu hút sự chú ý và gây ấn tượng đối với người nghe
khi diễn thuyết:
+ Tăng hàm lượng thông tin bằng cách xử lý tốt lượng dư thừa của ngôn
ngữ diễn đạt.
+ Tăng sức hấp dẫn của thông tin bằng cách sử dụng yếu tố bất ngờ, cách
trình bày độc đáo.
+ Sử dụng một số biện pháp ngôn ngữ như: dùng từ láy, ẩn dụ, câu đảo
đổi, câu đối chọi...và các biện pháp tu từ ngữ âm như: biện pháp hịa bình đối
thanh điệu, biện pháp lặp số lượng âm tiết, lặp vần, biện pháp tạo nhịp điệu...
+ Trình bày cái cụ thể xen kẽ cái trừu tượng, trình bày sự kiện xen kẽ các
khái niệm, phạm trù quy luật.
+ Nắm vững nghệ thuật sử dụng các con số. Có thể sử dụng kỹ năng để
làm cho một số nhỏ thành số lớn hoặc ngược lại làm cho một số lớn thành số
nhỏ; hoặc so sánh số đó với số khác để làm bật ý nghĩa của con số đang sử dụng.
+ Phát biểu theo kiểu ngẫu hứng, thoát ly đề cương.
- Thủ thuật tái lập sự chú ý
Trong quá trình trình bày, do tác động của một nguyên nhân khách quan,
sự chú ý của người ngheo có thể bị suy giảm. Trong trường hợp này, người nói
phải phát hiện những dấu hiệu đó thơng qua việc quan sát thái độ, hành vi của


người nghe và chủ động tìm cách khắc phục.Dựa trên những quy luật tâm - sinh
lý, người ra đưa một số kỹ xảo, thủ thuật sau mà người diễn thuyết có thể sử
dụng để tái lập và tăng cường sự chú ý:
+ Cử chỉ, vận động và sự kết hợp chúng với các thủ thuật khác. Chẳng
hạn, có thể rời bục giảng tiến gần về phía người nghe hoặc đi vào giữa hội
trường tiếp tục nói.
+ Thủ thuật âm thanh: nói to lên hoặc nói nhỏ đi (gần như nói thầm)
+ Sử dụng các phương tiện trực quan như sơ đồ, bản đồ, biểu bảng, băng

ghi hình và kết hợp các phương tiện đó với phương tiện ngơn ngữ.
+ Thay đổi trạng thái giao tiếp từ độc thoại sang đối thoại bằng cách đặt
các câu hỏi và đề nghị người nghe trả lời.
+ Hài hước: Chuyển sang nói bằng giọng hài hước, sử dụng biện pháp
gây cười như: chơi chữ, nói lái, nói thiếu, nói tước bỏ ngữ cảnh, kỹ thuật tương
phản hoặc kể một câu chuyện cười phù hợp để giảm bớt sự căng thẳng, khôi
phục lại sự chú ý.
- Kỹ năng trả lời câu hỏi khi thực hiện đối thoại.
+ Việc trả lời các câu hỏi của người nghe là cơng việc bình thường của
cán bộ lãnh đạo, quản lý nhất là trong điều kiện dân chủ hóa và tăng cường các
phương pháp đối thoại với quần chúng.
+Cán bộ lãnh đạo, quản lý cần thiết phải trả lời câu hỏi của quần chúng
và tạo điều kiện, giành thời gian trong mỗi lần nói chuyện để họ được hỏi về
những vấn đề mà họ quan tâm nhưng chưa được giải thích hoặc giải thích chưa
rõ.
Các kỹ năng cần thiết khi trả lời câu hỏi:
+ Trả lời rõ ràng, đúng, trúng yêu cầu của câu hỏi.
+ Lập luận có cơ sở khoa học, có căn cứ xác đáng, trên cơ sở các quy luật
lơgíc và phương pháp chứng minh, lời nói nhã nhặn, khiêm tốn, phù hợp với
quan hệ và giao tiếp.
+ Có thể đặt tiếp những câu hỏi gợi ý để người nghe tự trả lời câu hỏi của
mình thông qua việc trả lời câu hỏi gợi ý của cán bộ lãnh đạo, quản lý.
+ Có thể trả lời ngay hoặc hẹn vào một thời điểm khác (cuối giờ, cuối
buổi, hoặc sang ngày khác nếu cịn tiếp tục nói chuyện) để có thêm thời gian
chuẩn bị trả lời. Nếu xét thấy khó trả lời thì tìm cách nói để người hỏi thoải mái,
thông cảm. Không nên trả lời những vấn đề mà mình chưa nắm vững.
+ Nếu người nghe đưa ra nhiều câu hỏi q thì có thể tìm cách hạn chế
bớt phạm vi vấn đề của các câu hỏi.



+ Từ chối những câu hỏi liên quan đến lợi ích quốc gia hoặc hướng dẫn
họ gặp những người có trách nhiệm.
* Liên hệ thự tế:
Ưu điêm
- Nắm chắc các quan điểm của đảng, nói đúng trọng tâm, trọng điểm
- Tự tin, bình tĩnh trước đám đơng.
- Có chuẩn bị đề cương, đề cương có tính giáo dục về TT, đạo đức
- Xử lý tình huống nhanh gọn, giải quyết được vần đề.
- Kết hợp giửa cử chỉ và lời nói
- Trang phục gọn gàng, lịch sự.
- Giọng nói nói to, nói rõ, dễ nghe
- Ứng dụng cơng nghệ TT trong diễn thuyết
Hạn chế
- Bài nói chưa sinh động nên khơng thu hút người nghe
- Trình bày dài dịng, dẫn chứng thực tế ít
- Lập từ trong bài diễn thuyết
- Dùng từ khó hiểu, chưa sát với thực tế đại phương
- Còn chú ý nhiều vào tài liệu
- Chưa kiểm sốt được thời gian.
- Có 1 vài động tác thừa
- Bố cục trình bày chưa chặt chẽ
Giải pháp
- Khơng ngừng học tập nâng cao trình độ CM, bản lĩnh chính trị
- Áp dụng rộng rãi CNTT trong bài giảng
- Đề xuất cấp trên mở các lớp tập huấn cho lãnh đạo quản lý ở cơ sở để trang bị kỷ
năng tuyên truyền thuyết phục trước công chúng.
- Mời các báo cáo viên cấp trên về tác nghiệp tại cơ sở
Phải liên hệ thực tế nội dung diễn thuyết.

Tóm lại: Để trả lời những câu hỏi khó, phức tạp, đỏi hỏi người cán bộ

lãnh đạo, quản lý phải có phản ứng nhanh về cách trả lời và phải thường xuyên
tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng, có sự hiểu biết rộng, sâu sắc về văn hóa
chung và có kinh nghiệm tốt về văn hóa đối thoại.

Câu 8: Trình bày các quy tắc vận động hành lang

Vận động hành lang xuất hiện đầu tiên ở nước Anh, nó gắn liền với sự ra
đời của nền dân chủ đại diện. Vận động hành lang được lấy theo tên địa điểm
mà hoạt động này diễn ra đầu tiên trong lịch sử, đó là hành lang của Nghị viện
Anh, nơi mà trong thời gian nghỉ giải lao, các nghị sỹ thường trao đổi với đồng
nghiệp, hoặc các cử tri tập trung để trình bày ý kiến, kiến nghị với các đại diện
của mình. Tại các hành lang lớn này đã diễn ra các cuộc vận động, thuyết phục
giữa các cử tri và các nghị sỹ nhằm mục đích gây ảnh hưởng đến những vấn đề


sẽ được tranh luận và thông qua ở Nghị viện. Trong phạm vi bài viết ta đi sâu
nghiên cứu về các nguyên tắc vận động hành lang?
TRước tiên ta tìm hiểu khái niệm về vận động hành lang? Vận động hành lang là nghệ
thuật khai thác các khả năng các cơ may để thuyết phục các nhà hoạch định chính sách, các
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên, các đại biểu HĐND, đại biểu Quốc hội ủng hộ các chương
trình cơng tác của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở đồng thời vận động họ có sự tác động
làm thay đổi chính sách theo hướng có lợi cho công tác lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở.
Mục đích của vận động hành lang ko phải là nhằm thay đổi nhận thức, thái độ và hành
vi của đối tượng thực hiện đường lối, chính sach, pháp luật mà là tác động nhằm thay đổi các
chính sách, các chương trình phát triển.
Đối tượng của vận động hành lang là những ng tham gia vào q trình chuẩn bị và
thơng qua các quyết định, các chính sách phát triển. Đó là những cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
trên cấp ủy, UBND, đại biểu HĐND, đại biểu QH,..
* Các quy tắc của vận động hành lang
- Xác định rõ ngay từ đầu mục đích vận động.

- Nắm vững đối tượng vận động hành lang: họ là ai? Giữ chức vụ gì? Trong cơ quan
nào? Đồng thời cần nắm vững những thông tin về quan điểm, phong cách công tác về vai trò
của họ trong tổ chức mà họ tham gia và vai trò cua họ trong việc tham gia soạn thảo, ban hành
các quyết định, các vấn dề cần vận động.
- Nắm vững thông tin về các tổ chức, các ủy ban và cv của tổ chức mà các nhà lãnh
đạo, quản lý tham gia. Như các thông tin: cv, time, lịch trình cơng tác, các cuộc hội thảo, quan
hệ nội bộ của các tổ chức,….
- Chuẩn bị tài liệu và cung cấp thông tin cho các nhà lãnh đạo, quản lý cấp trên. Các
nhà hoạch định chính sách, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên có thể vẫn thiếu thơng tin về vấn
đề sẽ ra qd hoặc có thông tin, nhưng chưa đầy đủ. Cho nên, trong khi vận động hành lang cần
cung cấp đầy đủ thêm thông tin về các vấn đề có liên quan cho họ. Chú ý dến tính chính xác
tính thới sự và cơ sở pháp lý của các tài liệu. Sách nhỏ, tờ gấp, bản in, tờ số liệu la những
phương tiện có thể sử dụng kết hợp để nâng cao hiệu quả vận động hành lang.
- Chủ động tạo time và thời cơ cho các cuộc tiếp xúc. Thông thường các nhà hoạch
định chính sách, cb lãnh đạo, quản lý cấp trên có rất ít time rỗi và ko thích thú các cuộc gặp
gỡ này. Cho nên, khi vận động hành lang phải nắm đc thời gian biểu hoạt động của họ để lập
KH về time gặp gỡ. Giờ giải lao, trước và sau làm viejc, bữa ăn trưa là những cơ may đặc biệt
để gặp gỡ họ.
Phải có nghệ thuật đặt câu hỏi và kích thích cb lãnh đạo, quản lý cấp trên trả lời cởi
mở để tìm kiếm tin tức và sự ủng hộ.
Nghệ thuật vđộng hành lang là làm thế nào để đưa yêu cầu của mình vào chương trình
nghị sự một cách kịp thời và tất cả các cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên coi vấn đề đó là quan
trọng đối với họ ở 1 phương diện nhất định và có thái độ ủng hộ nhiệt tình, vơ tư, triệt để.
Tóm lại, lý hoạt động này nhằm khắc phục, hạn chế sự lợi dụng, làm biến dạng Vận
động hành lang là một hoạt động chính trị cần thiết trong xã hội dân chủ đại diện. Bản chất
của hoạt động này khơng xấu, nó chỉ xấu khi bị người ta lợi dụng trong những môi trường,
điều kiện cụ thể nhằm mang lại lợi ích cho cá nhân hoặc nhóm nhỏ cục bộ. Vì vậy cần phải có
khung pháp lý để điều chỉnh và quản hoạt động này trong xã hội của những người, nhóm
người mưu lợi ích cá nhân.



×