Câu 1: Phân tích khái niệm và nội dung quản lý hành chính nhà nước. Cho
các ví dụ minh họa.
Trước tiên ta cần làm quen với khái niệm “quản lý” là gì? Đó là sự tác động có
định hướng và tổ chưc của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương
thức nhất định để đạt tới những mục tiêu nhất định.
Về góc độ chính trị thì “Quản lý nhà nước” là hoạt động thực thi quyền lực nhà
nước do các cơ quan nhà nước tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và tổ chức trong
xã hội, trên tất cả các mặt của đời sống xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước
có tính cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng
đồng, duy trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo một định
hướng thống nhất của Nhà nước.
Như vậy, “Quản lý hành chính nhà nước” là sự tác động có tổ chức và điều
chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của
công dân, do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến
hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối
quan hệ xã hội, duy trì trật tự, an ninh, thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của công dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung quản lý hành chính nhà nước gồm:
1.3.2.1 Hoạt động lập quy hành chính
Các cơ quan quản lý HCNN có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp
luật để cụ thể hóa các quy định pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành nhằm tạo cơ
sở pháp lý cho hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan quản lý HCNN. Cụ thể
như:
Chính phủ có thẩm quyền ban hành nghị định; nghị quyết liên tịch.
+ Nghị định quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh,
nghị quyết của UBTVQH; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
+ Nghị định quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền thành lập
của Chính phủ.
+ Nghị định quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Chính phủ.
+ Nghị định quy định những vấn đề hết sức cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện
xây dựng thành luật, pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý đất nước, quản lý kinh tế,
xã hội. Việc ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của UBTVQH.
+ Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan Trung ương của tổ chức chính
trị-xã hội được ban hành để hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định
về việc tổ chức chính trị-xã hội đó tham gia quản lý nhà nước.
Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền ban hành quyết định:
+ Quyết định quy định biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ
và hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, chế độ làm việc với các
thành viên Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.
+ Quyết định quy định biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên
Chính phủ, kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, ủy ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền ban hành thông tư;
thông tư liên tịch:
+ Thông tư quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh,
nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; nghị
định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
+ Thơng tư quy định về quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ
thuật của ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.
+ Thơng tư quy định biện pháp để thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực
do mình phụ trách và những vấn đề khác do Chính phủ giao.
+ Thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao được ban hành
để hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động tố tụng và những vấn
đề khác liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó.
+ Thơng tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được ban
hành để hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính
phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của
bộ, cơ quan ngang bộ đó.
-UBND các cấp có thẩm quyền ban hành quyết định, chỉ thị:
+ Quyết định, chỉ thị ban hành để quy định các biện pháp cụ thể thi hành luật và
tổ chức triển khai hoạt động quản lý mọi mặt đời sống trên địa bàn.
+ Quyết định, chỉ thị ban hành để chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân
cùng cấp.
+ Quyết định, chỉ thị ban hành để chấp hành văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên.
1.3.2.2 Hoạt động ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định hành chính
Hoạt động này nhằm giúp hệ thống hành chính vận động và phát triển theo yêu
cầu chung của xã hội. Đồng thời, ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định hành
chính, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước cũng duy trì sự vận động và phát triển
của các đối tượng tham gia vào quá trình kinh tế, xã hội theo mục tiêu quản lý đã định
trước.
1.3.2.3 Hoạt động kiểm tra, đánh giá
Việc kiểm tra và đánh giá hiệu quả hoạt động phải được tiến hành thường xuyên
đối với mọi mặt hoạt động của đối tượng quản lý. Thực hiện tốt hoạt động này sẽ đảm
bảo cho hoạt động của các đối tượng quản lý được thực hiện theo đúng quy định,
đồng thời phát hiện kịp thời những sai lệch, vi phạm để có biện pháp xử lý và khắc
phục hậu quả. Kiểm tra, đánh giá là biện pháp bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của các đối tượng quản lý, góp phần vào sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội.
1.3.2.4. Hoạt động cưỡng chế hành chính
Thực hiện cưỡng chế hành chính góp phần thực hiện hiệu quả các chức năng
hành chính khác. Trong q trình điều hành, nhiều trường họp để các đối tượng quản
lý chấp hành các quy định của pháp luật, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước
phải tiến hành cưỡng chế hành chính.
Liên hệ câu 1: Nhận xét hoạt động lập quy trong thời gian quan
* Mặt đạt được
- Có sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, Sở, ngành trong việc soạn thảo và ban
hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế, nghiên cứu thường xuyên được bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và tập huấn nghiệp vụ soạn thảo văn bản.
- Đảm bảo ban hành kịp thời các quy định đời sống xã hội.
* Hạn chế
Nhiều đạo luật đã có hiệu lực từ 3 đến 4 năm nhưng vẫn chưa có văn bản hướng
dẫn thi hành, điển hình như Luật Năng lượng nguyên tử; Luật Cơng nghệ cao có hiệu
lực từ năm 2009; 4 luật có hiệu lực trong năm 2011 là Luật Khống sản, Luật Chứng
khốn, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
nhưng đến năm 2014 vẫn chưa được hướng dẫn triển khai(1). Bộ luật Lao động năm
2012 có hiệu lực từ ngày 01/5/2013 nhưng đến nay (2014) vẫn chưa có văn bản nào
hướng dẫn việc thực hiện. Theo Bộ Tư pháp, do tình trạng "nợ đọng" văn bản hướng
dẫn quá nhiều nên năm 2014 nhiệm vụ xây dựng văn bản QPPL của Chính phủ rất
nặng nề. Ít nhất trong năm nay Chính phủ và các bộ sẽ phải ban hành 85 văn bản, kể
cả các văn bản còn nợ đọng từ năm 2013 cần ban hành(2).
Thời gian qua có khơng ít văn bản do một số cơ quan chức năng ban hành để
hướng dẫn đã gây ra phản cảm trong dư luận. Thậm chí có những văn bản dưới luật
nhưng thiếu tính hợp pháp. Ví dụ, Thơng tư số 02/2003/TT-BCA ngày 13/01/2003
quy định "Mỗi người chỉ được đăng ký một xe mô tô hoặc xe gắn máy", trên thực tế
là vi phạm quyền sở hữu hợp pháp của công dân; quy định về việc tuyển dụng ở 01 số
địa phương phải có bằng Đại học chính quy. Điều này trái với Luật giáo dục quy định
ko phân biệt bằng cấp, các cơ sở đào tạo cơng lập, ngồi cơng lập, chính quy khơng
chính quy ngang nhau).
Nhiều luật, điều luật không phù hợp, vướng phải ý kiến phản đối mạnh mẽ của
người dân phải bãi bỏ. (Tháng 8/2012, Bộ NNPTNT ban hành thông tư số 33, quy
định về bán thịt trong 8 giờ, chỉ vài ngày tồn tại phải die; Bên cạnh đó, cịn một số
văn bản thiếu tính khả thi trên thực tế. Ví dụ, có văn bản quy định Mẹ Việt Nam anh
hùng đi thi đại học được cộng điểm; thịt tươi sống bảo quản trong nhiệt độ bình
thường chỉ được bán trong vịng 8 tiếng sau khi giết mổ; xóa đăng ký thường trú với
người đi tù hoặc người xuất cảnh từ 2 năm trở lên.v.v...
Các quyết định văn bản lập quy, pháp luật thường xuyên thay đổi. Thực tế này là
hệ quả tất yếu của việc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế
thị trường. Trong q trình thể chế hố các u cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội,
có khơng ít các quan điểm e ngại với những vấn đề mới, chỉ chấp nhận những vấn đề
đã chín muồi, có sự đồng thuận cao, do đó khó tạo ra những đột phá và từ đó, có sự
ổn định cần thiết. Thực tế này có nguyên nhân ở sự thiếu vắng những tầm nhìn và
quan điểm chiến lược cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội cụ thể và từ đó,
của cả hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp luật tuổi thọ rất ngắn,
thậm chí mới ban hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung. Pháp
luật thường xuyên bị thay đổi, dẫn đến những khó khăn đáng kể trong việc thực hiện
và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội, nhất là đối với các quan hệ
kinh tế.
Một số văn bản, quyết định cịn mang tính chất lợi ích nhóm (như Nghị định 84
quy định giá xăng dầu).
Một số văn bản lập quy, quyết định còn sai sót về mặt trình tự, thủ tục và thể
thức, kỹ thuật trình bày theo quy định của pháp luật.
Nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm thấp, tức là thiếu những quy tắc xử sự
cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Có những văn bản chứa đựng những quy định mang
tính tun ngơn hơn là quy phạm pháp luật. Nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội đòi hỏi
phải được điều chỉnh cụ thể, chi tiết thì pháp luật lại là văn bản pháp luật “khung” hay
văn bản pháp luật “ống”. Phần lớn các văn bản luật như vậy giao cho Chính phủ ban
hành nghị định để cụ thể hố. Nhiều nghị định của Chính phủ lại giao cho bộ, ngành,
địa phương hướng dẫn thực hiện. Thực tế này đã dẫn đến tình trạng nảy sinh khơng ít
mâu thuẫn giữa văn bản hướng dẫn và văn bản được hướng dẫn thi hành. Sự khác
nhau trong ý kiến của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Xây dựng xung quanh
quyết định của Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh về các giấy tờ nhà đất được giao
dịch và của Uỷ ban nhân dân TP. Hà Nội về việc giao cho một cơ quan cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất là một ví dụ. Việc triển khai thực
hiện pháp luật theo cách này thiếu kịp thời, khó mang lại hiệu quả cao, vì phải chờ
văn bản của các cấp khác nhau.
Tính hệ thống của pháp luật còn rất hạn chế. Các văn bản luật, các văn bản dưới
luật khác nhau chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc chỉ đạo
xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Những mâu thuẫn giữa Luật
Nhà ở, Luật Đất đai, Bộ luật Dân sự về một số vấn đề (như: Hiệu lực các giao dịch, về
căn cứ xác định sở hữu, đăng ký quyền sở hữu) mà công luận nêu lên gần đây là ví dụ
cho tính hệ thống thấp của pháp luật hiện hành của nước ta.
Cuối cùng, trên nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, xây dựng pháp luật chưa gắn với
quản lý thi hành pháp luật, do đó, khó tránh khỏi hậu quả pháp luật xa rời thực tiễn,
không những không phản ánh đầy đủ thực tại, mà cịn khó có khả năng dự báo, đi
trước sự phát triển của quan hệ xã hội. Tham mưu xây dựng chính sách, pháp luật
hình sự mà khơng quản lý cơng tác phòng chống tội phạm, xử lý tội phạm, giáo dục
phạm nhân... thì khó có được một chính sách hình sự hồn chỉnh, ổn định, thúc đẩy,
chứ khơng phải kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đề xuất:
Để khắc phục tình trạng nêu trên cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, thực hiện đúng các quy định của pháp luật về ban hành văn bản. Phải kịp
thời xử lý những cơ quan, cá nhân liên quan đến việc ban hành văn bản trái pháp luật.
Cần có cơ chế rõ ràng khi ban hành văn bản, chỉ rõ biện pháp xử lý sai lầm, chỉ rõ
trách nhiệm thuộc về ai nếu có sai lầm và phải có phản hồi cụ thể.
Hai là, đổi mới quy trình xây dựng luật và nâng cao chất lượng các đạo luật được
ban hành. Luật xây dựng thiếu cụ thể thì chưa ban hành, khơng nên lấy số lượng luật
được ban hành làm thành tích trong quản lý nhà nước. Vấn đề cốt lõi là làm thế nào
để luật đi vào cuộc sống. Nhận thức về xây dựng văn bản trong cơ chế thị trường cần
có những thay đổi cho phù hợp. Cùng với các tư tưởng được phản ánh đúng đắn trong
văn bản, phải có cách làm hợp lý, tránh việc ban hành văn bản luật với các quy định
chung chung mà không kịp thời có hướng dẫn cụ thể.
Ba là, loại bỏ các lực cản trong việc sửa chữa sai lầm khi ban hành văn bản,
khơng để lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm chi phối việc ban hành và điều chỉnh văn bản.
Nếu khơng có các biện pháp cần thiết và đủ mạnh để loại bỏ ngun nhân này thì sẽ
rất khó khăn trong việc làm chuyển biến tình trạng ban hành văn bản hướng dẫn trái
với luật hoặc thiếu tính khả thi trong thực tiễn.
Bốn là, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ soạn thảo văn bản cũng
như nâng cao tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, cơng chức trước cơng việc.
Hiện nay, có nhiều chương trình bồi dưỡng về lĩnh vực này, nhưng do nặng về lý
thuyết nên thiếu tính thực tế, hiệu quả thấp. Chương trình bồi dưỡng về xây dựng văn
bản khơng thể chỉ đặt ra với các cơ quan xây dựng luật, trường dạy luật, mà cần mở
rộng hơn để phổ biến kiến thức này cho nhiều người. Đó là cơ sở để phát hiện các sai
trái trong văn bản; những người có trách nhiệm soạn thảo văn bản và giám sát công
việc này cần được bồi dưỡng thường xuyên để tránh các sai lầm khơng đáng có.
Năm là, cần có cách làm cụ thể để tăng cường mạnh mẽ sự phản hồi từ phía
người sử dụng văn bản, tạo điều kiện để người dân thể hiện nguyện vọng của mình và
cơ quan có liên quan phải có trách nhiệm giải trình cụ thể. Điều này sẽ làm cho cơ
quan ban hành văn bản chịu trách nhiệm thực tế hơn trong công việc của mình trước
nhân dân.
Sáu là, phải thay đổi cơ chế thẩm định và giám sát việc ban hành văn bản. Để có
hiệu quả thì việc giám sát phải có tính độc lập và cơng khai; tổ chức giám sát có đủ
quyền hạn trong công việc, được hỗ trợ về cơ chế, ngân sách và các điều kiện cần
thiết để hoạt động. Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế thẩm định nội bộ nhằm góp phần
hạn chế các sai lầm của văn bản
Câu 2: Vai trò của quản lý HC NN đối với sự phát triển của XH, việc thực
hiện các vai trì đó trong thời gian qua
- Góp phần quan trọng trong việc thực hiện hóa chủ trương, đường lối chính trị.
Đường lối chính trị của Đ được thể chế hóa vào trong các VB PL, chính sách của
NN, chính sách, PL của NN là các quy định cụ thể, thể hiện và là cơ sở để triển khai
quan điểm, đường lối của Đ vào thực tiễn cuộc sống. Thông qua việc sử dụng chính
sách, pháp luật để tổ chức triển khai các hoạt động quản lý đối với XH, quản lý hành
chính NN góp phần hiện thực hóa quan điểm, đường lối chính trị của Đ.
- Định hướng, dẫn đắt dự phát triển KT-XH thông qua hệ thống PL và chính sách
của NN.
Để cho hoạt động KT-XH phát triển theo đúng mục tiêu, các cơ quan hành chính
NN quản lý vĩ mơ đối với các đơn vị, tổ chức, Những định hướng lớn, mục tiêu phát
triển của NN trong mỗi đoạn phát triển sẽ được thể hiện trong các chính sách PL của
NN Thơng qua sự tác động các công cụ quản lý như PL, kế hoạch, chính sách lên các
quan hệ xã hội, các cơ quan quản lý hành chính NN chủ động dự kiến những mục tiêu
và phương hướng thực hiện mục tiêu phát triển của Đất nước. Làm như vậy sẽ hướng
các hoạt động KT-XH vận hành đạt được những mục tiêu phát triển mà NN đã đặt ra.
- Điều hành XH, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội
Trong quá trình tham gia hoạt động KT-XH các chủ thể có năng lực và điều kiện
khác nhâu nên hiệu quả hoạt động thu được cũng khác nhau. thơng qua các chính sách
ưu tiên phát triển trong một số lĩnh vực đối với một số đối tượng, các cơ quan quản lý
HC NN hỗ trợ KT-XH phát triển hài hòa.
Hoạt động QL HC NN cịn có vai trị duy trì sự phát triển của XH thông qua việc
tạo môi trường phát triển cho các hoạt động KT-XH. Mơi trường chính trị ổn định
giúp các cá nhân, tổ chức trong XH có cơ hội tham gia vào các quan hệ kinh tế-XH.
Môi trường pháp lý thuận lợi sẽ giúp cho các chủ thể KT-XH chủ động lựa chọn công
việc hợp pháp theo năng lực, sở trường của mình.Đồng thời nó cũng tạo nên sự minh
bạch công khai giũa các chủ thể với nhau và với NN.
Thông qua hoạt động QLHC, NN tạo động lực thúc đậy hoạt động KT-XH có
hiệu quả của các chủ thể. NN khuyến khích các chủ thể nằng những lợi ích vật chất và
tinh thần thông qua các chính sách KT-XH.
- Trọng tài, giải quyết các mâu thuẩn ở tầm vĩ mơ:
Trong q trình tham gia vào các hoạt động KT-XH các chủ thể có thể có những
mâu thuẩn khơng thể tự điều hòa, giải quyết được. Chẳng hạn, những tranh chấp trong
thực hiện các hợp đồng KT-XH, vì lợi nhuận vi phạm các quy định trong các hợp
đồng KT-XH. Trong nhửng trường hợp như vậy các cơ quan QLHHNN có thẩm
quyền sử dụng PL để giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể
* Liên hệ
Thực tế nước ta hiện nay, nền kinh tế còn ở giai đoạn thấp, sơ khai và cịn thiếu
nhiều điều kiện để phát triển; tính cạnh tranh cịn kém, sản phẩm cịn nghèo nàn; cơng
tác quản lý nhà nước về kinh tế cũng còn nhiều hạn chế như : công tác dự báo kém,
quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi thời kỳ mới, hệ thống pháp luật và cơ
chế chính sách chưa đồng bộ, nhất quán, quản lý nhà nước trên các lĩnh vực tài chính,
ngân hàng, giá cả, kế hoạch hóa, thương mại, phân phối, đất đai, vốn và tài sản nhà
nước chưa thật tốt, chậm được đổi mới và lúng túng trong chuyển sang cơ chế thị
trường, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước còn cồng kềnh, kém hiệu quả, năng lực và
phẩm chất cán bộ chưa tương xứng, một bộ phận cán bộ quản lý tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, thủ tục hành chính phức tạp... Chính những hạn chế này là rào cản lớn
cho sự phát triển kinh tế
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, cần tập trung vào một số
giải pháp chủ yếu như sau đây:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đổi mới việc xây
dựng, thay dần quy trình xây dựng pháp luật theo kiểu từ trên xuống bằng quy trình từ
dưới lên, các sáng kiến pháp luật, ban hành, thực thi pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ,
hệ thống, phải tạo điều kiện cho mọi loại hình kinh tế bình đẳng trước pháp luật và
phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế trên cơ sở vừa đảm bảo yêu cầu của quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế vừa cân nhắc những đặc điểm riêng biệt của nước ta, nhất là
những đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, bảo hộ sản xuất trong nước . Bên cạnh đó,
phải tăng cường pháp chế để nâng cao hiệu quả của công cụ pháp luật.
- Đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng cơng tác xây dựng các
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội; tăng cường thông tin
kinh tế xã hội trong nước và quốc tế ... nhằm đảm bảo phù hợp và định hướng được
nền kinh tế thị trường đang trong bước sơ khai và nhiều biến động.
- Tiếp tục cải cách hành chính để nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý vĩ
mô và chức năng chủ sở hữu tài sản công cộng của quốc gia, không can thiệp vào
chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch tốn của doanh nghiệp. Kiện
tồn và làm trong sạch bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, giảm bớt các đầu mối,
các khâu trung gian, tập trung vào chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, giảm dần đi tới
xóa bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp, đảm bảo bộ máy tinh gọn, phân định rõ
chức năng, trách nhiệm và quyền hạn, đủ khả năng quản lý và xử lý tốt các vấn đề nảy
sinh trong nền kinh tế thị trường. Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy Nhà nước về kinh tế
phải gắn liền với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức Nhà nước có phẩm chất,
trình độ và năng lực trong quản lý nền kinh tế: phải thực hiện tốt quy chế tuyển chọn
đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, không ngừng nâng cao phẩm chất và
năng lực của cán bộ đặc biệt là cán bộ quản lý kinh tế. Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo,
tuyễn dụng, bố trí, đề bạc, đãi ngộ và khen thưởng tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ
phát huy tính chủ động, sáng tạo, tồn tâm tồn ý với sự phát triển của đất nước. Song
song đó phải thực hiện cải cách thủ tục hành chính cả về quy chế và tổ chức thực
hiện, giảm đến mức tối đa các thủ tục, quy chế và phong cách quan liêu, phiền hà đối
với nhân dân và các doanh nghiệp và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế.
- Tích cực đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc
lợi và coi đây là nhiệm vụ quan trọng sống cịn, nó phải được thực hiện bằng nhiều
biện pháp cả tố chức hành chính, kinh tế và tâm lý giáo dục, nhưng trước hết phải từ
việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế phải kiên quyết loại trừ các phần tử
thoái hoá biến chất khỏi bộ máy quản lý nhà nước.
Câu 3: Tình huống quản lý nhà nước về cán bộ, công chức
ANH A, ANH B AI ĐÚNG AI SAI?
4.1. Mơ tả tình huống:
Ơng Nguyễn Văn A là đội trưởng đội quản lý thị trường số X thuộc Chi cục
quản lý thị trường tỉnh T. Ngày 5 tháng 12 năm 2005 nhận được giấy mời của UBND
thị xã đến dự buổi “tổng kết cơng tác phịng chống buôn lậu, gian lận thương mại trên
địa bàn tỉnh”. Đang trong tình trạng say rượu ơng Nguyễn Văn A đã cho gọi anh
Nguyễn Văn B là đội phó lên phòng và uỷ quyền cho anh Nguyễn Văn B đến dự thay.
Nhưng vì giấy mời ghi rõ ràng là mời ơng Nguyễn Văn A đội trưởng đội quản lý thị
trường số X cùng thành phần khách mời khác. Thấy mình khơng đúng thành phần
được mời họp nên anh Nguyễn Văn B đã báo cáo lại đội trưởng và không đến dự buổi
tổng kết. Đến ngày 10 tháng 12 năm 2005 ông Nguyễn Văn A đi họp ở chi cục, lãnh
đạo Chi cục quản lý thị trường khiển trách anh A trước Chi cục về hành vi không
tham dự buổi tổng kết. Khi về đến đội ông Nguyễn Văn A đã nặng lời với anh Nguyễn
Văn B, cho là anh B không hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho.
4.2. Phân tích tình huống:
Việc anh Nguyễn Văn B khơng đi họp vì khơng đúng thành phần (có báo cáo
lại đội trưởng) là đúng. Việc anh Nguyễn Văn A say rượu không đi họp là vi phạm kỷ
luật lao động phải bị phê bình, rút kinh nghiệm làm gương cho tồn đội.
4.3. Phương án giải quyết:
Chi cục QLTT chỉ đạo đội QLTT X tiến hành họp kiểm điểm rút kinh nghiệm
về những sai trái trong điều hành đội QLTT X và quá trình đảm trách cơng vụ của đội
trưởng đội QLTT X. Sau khi làm rõ sai phạm của anh A lãnh đạo chi cục QLTT phê
bình anh A trước tồn thể chi cục để giữ nghiêm kỷ luật lao động.
VỀ MỘT QUYẾT ĐỊNH CỬ CÁN BỘ ĐI HỌC
5.1 Mơ tả tình huống:
Nhận rõ vai trị con người đối với q trình xây dựng và phát triển tỉnh nhà,
tỉnh V thực hiện chủ trương đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Thực hiện
chủ trương của tỉnh, Sở A đã tiến hành phân loại và bình xét để cử cán bộ đi học cao
học.
Sở
A
chọn
ra
2
người
để
bình
chọn.
Người thứ nhất là anh Hồng Văn T là người thẳng thắn, trung thực, sôi nổi, nhiệt tình
trong các cơng tác của Sở, ln hồn thành tốt nhiệm vụ được giao, có trình độ
chun mơn giỏi và là đảng viên Đảng cộng sản được mọi người rất tin tưởng.
Người thứ hai là anh Nguyễn Văn H là con ơng phó giám đốc sở, là Đảng viên
trẻ, mới ra trường, cũng tích cực trong các hoạt động, phịng trào của Sở, nhưng có
trình độ chun mơn trung bình.
Nhưng khơng hiểu vì sao ơng giám đốc sở A quyết định anh Nguyễn Văn H được
đi học cao học, mọi người trong Sở đều rất bất ngờ trước quyết định nay. Vì giám đốc
khơng cử người có trình độ chun môn giỏi đi học lại cử người mới ra trường và có
trình độ chun mơn trung bình đi học. Việc này đã gây ra sự phản đối khá gay gắt
trong tập thể cán bộ cơng chức trơng cơ quan.
5.2.Phân tích tình huồng:
Chủ trương đẩy mạnh cơng tác bồi dưỡng đào tạo cán bộ là chủ trương rất đúng
đắn của tỉnh B. Tuy nhiên việc triển khai chủ trương đó của tỉnh ở Sở A có vẻ cơng
khai và dân chủ nhưng thực chất là không dân chủ, không công bằng nên đã dẫn đến
việc cử cán bộ không xứng đáng đi đào tạo gây bất bình và dư luận khơng tốt trong cơ
quan.
5.3.Phương án giải quyết:
Để đánh giá bình xét đúng năng lực và phẩm chất cán bộ, lấy đó làm tiêu chí
trong quy hoạch, đề bạt, sử dụng cán bộ cũng như để bình chọn cán bộ cử đi học, lãnh
đạo sở A phải lấy phiếu tín nhiệm cán bộ của toàn thể cơ quan một cách dân chủ cơng
khai. Ngồi ra cần thu thập các ý kiến nhận xét về năng lực, tư cách, phẩm chất đạo
đức cán bộ của các đoàn thể trong cơ quan như: Cấp uỷ đảng, cơng đồn, thanh niên,
phụ nữ… Căn cứ các ý kiến đánh giá khách quan, toàn diện đó lành đạo sở A ra quyết
định cử anh Hồng Văn T đi học đợt sau, để đảm bảo công khai dân chủ thực sự trong
quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
TÌNH HUỐNG VỀ ĐẤT ĐAI
ƠNG A SỬ DỤNG ĐẤT SAI MỤC ĐÍCH
1. Mơ tả tình huống:
Năm 1989 Gia đình ơng A ở xã B, huyện C, tỉnh D (một tỉnh đồng bằng trung du
bắc bộ) được giao một mảnh đất 3000m2 ven bờ một con sông để trồng lúa, trồng
mầu.
Ơng A và gia đình đã dùng mảnh đất được giao trên để trồng một vụ lúa, một vụ
màu trong một năm. Hàng năm, gia đình ơng A ln đóng thuế nơng nghiệp đầy đủ
cho nhà nước. Tới năm 2003 tỉnh, huyện và xã sở tại chủ trương phát triển mơ hình
VAC để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, chuyển đổi ngành nghề tăng thu nhập cho
ngân sách nhà nước và tăng thu nhập cho bà con nông dân. Ơng A đã bàn cùng gia
đình cải tạo mảnh đất 3000m2 đã được HTX nông nghiệp giao để triển khai sản xuất
theo mơ hình VAC. Gia đình ơng A đã tự ý đào một mảnh ao 500m2, xây các cơng
trình phục vụ ăn ở cho gia đình trên diện tích đất 3000m2. Số diện tích đất cịn lại,
một phần đất trũng ơng để trồng lúa, một phần đất gị ông A cùng gia đình dùng để
trồng cây ăn quả lâu năm. Trên bờ ao mới đào ông A xây 2 dãy nhà nuôi lợn cao sản
cùng một dãy chuồng vịt. Việc thay đổi phương án sản xuất, chuyển mục đích sử dụng
đất của ơng A cùn gia đình đã thu được những kết quả rất phấn khởi. Năm 2004, gia
đình ơng A đã thu về hơn 50.000 triệu đồng sau khi đã trừ hết các khoản chi phí đầu
vào cho sản xuất trên mảnh đất 3.000m2. Nhưng tới đầu năm 2005 UBND xã cùng
UBND huyện C đã thành lập tổ công tác tới kiểm tra việc sử dụng diện tích đất
3.000m2 mà gia đình ơng A đã nhận khốn của HTX nông nghiệp xã A. Sau khi kiểm
tra tổ kiểm tra đã tiến hành lập biên bản kết luận gia đình ơng A đã sử dụng đất sai
mục đích, u cầu gia đình ơng A đình chỉ sản xuất VAC trên diện tích 3.000m2 đất
nơng nghiệp đã nhận khốn đồng thời khôi phục lại hiện trạng ban đầu cho diện tích
đất nói trên. Ơng A cùng gia đình đã phản ứng rất quyết liệt với lập luận: Gia đình ông
vẫn đóng thuế nông nghiệp cho HTX đầy đủ, gia đình ơng sản xuất VAC theo đúng
chủ trương của xã, của Huyện, của Tỉnh vì vậy, cho đến nay, đầu tháng 7/2006 vụ việc
vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.
2. Phân tích tình huống:
Tình huống nêu trên là thực tế thường gặp ở các địa phương nông thôn hiện nay.
Chủ trương của Đảng nhà nước, của các cấp chính quyền phát triển sản xuất VAC,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất với mục tiêu tăng cao
hiệu quả sử dụng đất mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhà nước, cho bà con nông
dân. Tuy nhiên quá trình phát triển VAC phải đặt trong quản lý nhà nước về đất đai
chặt chẽ của các cấp chính quyền. Do vậy, người nơng dân khơng thể tự ý, tuỳ tiện
chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã nhận khốn. Việc làm tuỳ tiện của gia đình ông A
trong tình huống vừa nêu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cơng tác quản lý nhà nước vị đất
đai tại địa phương và dẫn tới hậu quả không tốt. Do vậy khi phát hiện sai phạm của
gia đình ơng A, các cơ quan chức năng ở địa phương cần dựa trên cơ sở các quy định
pháp luật về đất đai sử lý vụ việc một cách tích cực, triệt để.
3. Phương án giải quyết:
Trên cơ sở những quy định của luật đất đai năm 1993 (sửa đổi các năm
1998,2001,2003) và một số văn bản pháp luật khác có liên quan.
UBND huyện C và xã B thành lập tổ kiểm tra xuống điều tra việc sử dụng đất
nơng nghiệp của gia đình ơng A.
Sau khi phát hiện các sai phạm tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất, xây cơng
trình kiến trúc trái phép trên đất nơng nghiệp, của gia đình ơng A. Tổ kiểm tra làm kết
luận báo cáo UBND huyện C.
Căn cứ vào tính chất, mức độ sai phạm mà gia đình ơng A UBND huyện C sẽ
tiến hành sử phạt hành chính đối với hành vi tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Đối với diện tích đất mà gia đình ơng A đang sản xuất VAC nếu nằm trong quy hoạch
phát triển sản xuất VAC của xã B thì yêu cầu ông A làm đơn xin chuyển mục đích sử
dụng đất và tiếp tục cho phép gia đình ơng A sản xuất VAC trên diện tích đó. Nếu diện
tích đất gia đình ơng A đang sản xuất VAC khơng thuộc quy hoạch phát triển kinh tế
trang trại thì UBND huyện C u cầu gia đình ơng A tháo dỡ cơng trình kiến trúctrả
lại trạng thái ban đầu cho mảnh đất.
TÌNH HUỐNG VỀ XÂY DỰNG
Bà M ngụ tại phường A, thành phố B, tỉnh C. Ngày 01/6/2015 mực dù chưa có
giấy phép nhưng là ngày tốt nên bà M tiến hành cơi nới ngôi nhà một trệt 1 lầu thành
2 lầu. Ngày 5/6/2015 lực lượng chức năng đã tiến hành kiểm tra, lập biên bản về
hành vi vi phạm của bà M. Ngày 15/6/2015, UBND phường đến giao quyết định xử
phạt thì phát hiện lầu 2 được xây dựng gần như đã xong. Vậy:
a.
UBND phường A sẽ xử lý như thế nào?
b.
Trường hợp trên có phải buộc tháo dở khơng? Thẩm quyền?
c.
Điều kiện và chi phí?
*Trường hợp của bà M đã vi phạm nghị định 121/2013/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 10/10/2013 ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây
dựng; quản lý cơng trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở. Việc xử
phạt được áp dụng tại điểm b khoản 6 điều 13 nghị định 121/2013/NĐ-CP quy định
cụ thể như sau: “Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với xây dựng
nhà ở riêng lẻ ở đô thị;”.
Khi UBND phường A đến giao quyết định xử phạt thì phát hiện lầu 2 được xây
dựng gần như đã xong thì UBND phường A sẽ lập biên bản yêu cầu dừng thi công và
báo cáo về UBND thành phố B giải quyết theo thẩm quyền theo điều 8 và điều 9
thông tư số 02/2014/TT-BXD ngày 12 tháng 02 năm 2014 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 121/2013/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm
2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng;
kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý
cơng trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở.
Điều 8. Về xác định giá trị phần xây dựng sai phép, không phép, sai thiết kế
được duyệt, sai quy hoạch hoặc sai thiết kế đô thị được duyệt quy định tại Khoản 9
Điều 13 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP
1. Khoản 9 Điều 13 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP chỉ được áp dụng đối với
trường hợp khi người có thẩm quyền phát hiện hành vi vi phạm hành chính thì hành vi
này đã kết thúc, cơng trình xây dựng đã được hồn thành, đưa vào sử dụng.
2. Giá trị phần xây dựng sai phép, không phép, sai thiết kế được duyệt, sai quy
hoạch hoặc sai thiết kế đô thị được duyệt được xác định như sau:
a) Đối với cơng trình chỉ u cầu lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật xây dựng cơng
trình, lập dự án đầu tư xây dựng cơng trình hoặc cơng trình xây dựng khác trừ nhà ở
riêng lẻ:
- Trường hợp xây dựng cơng trình nhằm mục đích kinh doanh được tính bằng số
m2 sàn xây dựng vi phạm nhân với giá tiền 1m2 theo hợp đồng đã ký.
- Trường hợp xây dựng cơng trình khơng nhằm mục đích kinh doanh được tính
bằng số m2 sàn xây dựng vi phạm nhân với giá tiền 1m2 theo dự toán được duyệt.
b) Đối với nhà ở riêng lẻ được tính bằng số m2 xây dựng vi phạm nhân với giá
tiền 1m2 xây dựng tại thời điểm vi phạm cộng với số m2 đất xây dựng vi phạm nhân
với giá tiền 1m2 đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành hằng năm, trong đó giá trị
đất được xác định theo nguyên tắc sau:
- Tầng 1(hoặc tầng trệt) tính bằng 100% giá tiền 1m2 đất tại vị trí đó nhân với số
m2 đất xây dựng vi phạm.
- Từ tầng 2 trở lên tính bằng 50% giá tiền 1m2 đất tại tầng 1 nhân với số m2 đất
xây dựng vi phạm.
3. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quyết định và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc xác định giá trị phần xây dựng sai phép, không phép,
sai thiết kế được duyệt, sai quy hoạch hoặc sai thiết kế đô thị được duyệt.
Điều 9. Về áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép xây
dựng quy định tại Khoản 8 Điều 13 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP
1. Hình thức xử phạt bổ sung quy định tại Khoản 8 Điều 13 Nghị định số
121/2013/NĐ-CP được áp dụng như sau:
a) Tước quyền sử dụng Giấy phép xây dựng từ 3 tháng đến 6 tháng đối với hành
vi quy định tại khoản 3 Điều 13 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP;
b) Tước quyền sử dụng Giấy phép xây dựng từ 6 tháng đến 12 tháng đối với
hành vi quy định tại khoản 5 Điều 13 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP.
2. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính có áp dụng hình thức xử phạt bổ sung
phải được gửi cho Tổ trưởng tổ dân phố hoặc Trưởng thôn để thông báo cho nhân dân
tại địa bàn được biết, đồng thời gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan cấp giấy
phép xây dựng.
Chủ tịch UBND thành phố B có thẩm quyền buộc bà M phải tháo dở cơng trình
bằng biện pháp cưỡng chế, mọi chi phí thực hiện sẽ do người bị cưỡng chế, tức là bà
M buộc phải thi hành.
Câu 4: Tình huống quản lý nhà nước về hành chính – tư pháp
NGƯỜI CHẾT ĐÃ NHIỀU NGÀY MÀ CHƯA ĐƯỢC ĐĂNG KÝ KHAI
TỬ
1. Mơ tả tình huống
HC là một làng q nghèo thuộc xã TK. Đời sống của người dân ở đây dựa vào
cây lúa, đất đai lại bạc màu, cuộc sống đã nghèo lại càng nghèo hơn.Vì thế, khi nhà
nước có chủ trương di dân đến vùng kinh tế mới ở Tây Ngun, đã có rất nhiều gia
đình hăm hở đi khai hoang, với niềm tin thay đổi được cuộc sống, anh P cũng vậy.
Nhưng khác với những gia đình khác, anh chỉ có thể đi một mình vì bố mẹ anh đã già
yếu, các em còn nhỏ, chưa thể dãi dầu được như anh. Bù lại khi vào trong đó, anh P
làm ăn rất chăm chỉ, lại khéo tay và sáng dạ, nên chẳng bao lâu anh được ông chủ tịch
xã gả con gái cho. Hai vợ chồng cứ thế khấm khá dần. Công việc bận rộn cuốn hút
người đàn ông cần mẫn, song không vì thế mà anh nguôi ngoai nỗi nhớ nhà. Năm
2005, khi gia đình ngồi Bắc đã khấm khá về kinh tế, các em đều trưởng thành anh P
bàn với vợ chuyển về quê nội, mang theo cả tài sản mà vợ chồng anh đã dành dụm
được suốt thời gian qua. Nhưng ngày 2 tháng 6 năm 2005, một vụ tai nạn xe máy đã
cướp đi mạng sống của anh P. Thực hiện ước nguyện cuối cùng của anh, gia đình đưa
anh
về
mai
táng
tại
làng
quê
cũ.
Ngày 5/6/2005, gia đình anh P đến UBND xã TK làm thủ tục khai tử cho anh, anh Q,
cán bộ xã được phân công tiếp đã không giải quyết do trong lúc bối rối, vợ anh P đã
quên không mang theo chứng minh thư nhân dân của anh ra Bắc, nên không đủ căn
cứ
pháp
lý
làm
thủ
tục
khai
tử.
Chị liền nhờ người quen đang ở Tây Nguyên tìm lại và gửi ra cho. 17 giờ ngày
17/6/2005, gia đình anh P mang chứng minh thư của anh ra UBND xã TK cùng toàn
bộ giấy tờ cần thiết, nhưng các cán bộ trong xã đã nghỉ làm việc và nhất định không
giải quyết cho gia đình anh P với lý do đã q thời hạn. Gia đình anh P những ngày
sau đó lâm vào bối rối, không biết phải làm thế nào để khai tử được cho anh.
2. Phân tích tình huống
Cái chết là sự kiện pháp lý cuối cùng về hộ tịch của mỗi cá nhân, nhưng cũng
làm nảy sinh nhiều vấn đề pháp lý khác. Chính vì vậy, việc đăng ký khai tử cho người
chết cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý hành chính nhà nước. trong tình
huống này,anh P khơng được khai tử mặc dù anh đã được mai táng hơn nửa tháng.
Khi vợ anh mang được chứng minh nhân dân của anh ra UBND , thời hạn đăng ký
khai tử chưa hết, song do anh Q , cán bộ xã TK làm việc chưa hết trách nhiệm của
mình, nên đã phó mặc. Anh Q cũng khơng hướng dẫn gia đình anh P thực hiện thủ tục
đăng ký khai tử q hạn.
Chính việc khơng tơn trọng thủ tục khai tử cho anh P của anh Q đã vơ tình làm
cho thủ tục vốn rất quen thuộc này trở thành rắc rối, gây tâm lý ngại đến cơ quan nhà
nước của nhân dân.
3.Phương án giải quyết
Căn cứ Nghị định 158 /2005/NĐ-CP của Chính Phủ về đăng ký và quản lý hộ
tịch ngày 27 tháng 12 năm 2005 , có thể giải quyết tình huống trên như sau:
- UBND xã TK cử cán bộ hướng dẫn gia đình anh P làm thủ tục đăng ký khai tử
quá hạn cho anh.
- Gia đình anh P phải nộp giấy báo tử, chứng minh nhân dân, sổ hộ
khẩu gia đình cho cán bộ có trách nhiệm giải quyết.
- Sau khi nhận đủ các giấy tờ hợp lệ, cán bộ tư pháp hộ tịch có trách nhiệm: Ghi
đầy đủ các nội dung vào sổ đăng ký khai tử và giấy chứng tử ; ghi vào cột ghi chú là
“đăng ký quá hạn”; trình chủ tịch UBND xã ký giấy chứng tử; cấp cho người đi đăng
ký khai tử một bản chính giấy đăng ký chứng tử.
- UBND xã TK họp rút kinh nghiệm kiểm điểm anh Q.
- Đẩy mạnh công tác hoạt động phổ biến giáo dục PL để đảm bảo PL đến với
mọi người dân nhằm nâng cao ý thức của người dân về vai trò của PL trong đời sống
xã hội.
- Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ làm
cơng tác hành chính TP để đáp ứng nhu cầu CV được giao.
- Thường xuyên kiểm tra giám sát nhằm kịp thời uốn nắn sai phạm nếu có qua đó
hướng dẫn thêm về chuyên môn nghiệp vụ nhất là trong công tác xét xử phải nghiêm
minh bản án phải phù hợp như trường hợp của Ông A là chưa thật sự nghiêm minh.
- Có đề xuất khen thưởng kịp thời đối với những cá nhân, tập thể có thành tích
xuất sắc trong hoạt động HCTP.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo nhằm đảm bảo tính
phù hợp và lợi ích của người dân trong khiếu nại tố cáo.
- Đảm bảo phương tiện, tạo mọi điều kiện, kinh phí để cơng tác HCTP được thực
hiện một cách tốt nhất.
Câu 5. các kiến thức và kỹ năng cần thiết để xây dựng và thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế, các yêu cầu này được đáp ứng ra sao?
KH phát triển kinh tế-xh ở cơ sở là một công cụ quản lý kinh tế của NN theo
mục tiêu. Nó được thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển kinh tế-xh
phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định ở địa phương, dồng thời đưa ra
những giải pháp cần thực hiện để đạt được những mục tiêu đó một cách có hq nhất.
Kế hoạch phát triển KTXH ở cơ sở là 1 tập hợp những hoạt động được sắp xếp
theo lịch trình có thời hạn, nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ thể và xác định biện
pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó.
Xác định các kiến thức về kinh tế, xã hội và PL:
Xác định các kiến thức về kinh tế:
Để xây dựng được bản kế hoạch tốt, cán bộ cơ sở cần nắm được một số kiến
thức cơ bản về kinh tế như:
Kiến thức về các quy luật biến động của kinh tế, các chỉ tiêu – chỉ số phát triển
kinh tế, các chức năng cơ bản của một nền kinh tế trong việc giải quyết các vấn đề
kinh tế như sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Các tác nhân
trong nền kinh tế hỗn hợp, vai trò của các tác nhân trong nền kinh tế và sự ảnh hưởng
qua lại giữa chúng trong nền kinh tế hỗn hợp…
Bên cạnh đó, với tư cách 1 nhà quản lý, cán bộ cơ sở còn phải nắm vững các
kiến thức về các công cụ quản lý kinh tế, quản lý các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, quản lý nguồn vốn, nguồn lao động…
Xác định các kiến thức về XH:
Để đưa ra được định hướng phát triển tốt cho địa phương, cán bộ cơ sở phải có
kiến thức về bối cảnh XH trên địa bàn do mình phụ trách. Đó là những đặc trưng về
văn hóa, phong tục tập quán của nhân dân địa phương, cùng với các yếu tố khác về
dân cư như mật độ phân bố dân cư, tỷ lệ dân cư trong và ngoài độ tuổi lao động…
Xác định các kiến thức về PL:
Do những thay đổi thường xuyên trong ĐSXH khiến cho các nhà quản lý phải
luôn điều chỉnh các chính sách, PL cho phù hợp với tình hình mới. hàng năm, các văn
bản do QH ban hành cũng thường xuyên được sửa đổi, hoặc CP Và các Bộ, ngành sẽ
ban hành những văn bản QPPL hướng dẫn việc thực thi. Điều đó đặt ra yêu cầu đối
với các cán bộ cấp cơ sở là phải thường xuyên cập nhật các thông tin mới về các quy
định của PL nhằm đảm bảo tính thống nhất trong việc lập KH quản lý và phát triển ở
địa phương.
Xác định các kỹ năng cần thiết để xây dựng và thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội ở cơ sở:
Kỹ năng quản lý.
1 cán bộ không nhất thiết phải giữ vai trò lãnh đạo trong cơ quan, đơn vị,
nhưng nhất thiết phải có kỹ năng quản lý các cơng việc, các kế hoạch, dự định của
chính bản thân họ hoặc nhóm mà họ tham gia. Kỹ năng này sẽ hỗ trợ họ trong q
trình phân cơng cơng việc cụ thể cho những người khác, triển khai các hoạt động và
kiểm tra tiến độ của các hoạt động đó.
Kỹ năng quản lý cơ bản bao gồm việc thúc đẩy các hoạt động nhóm; phát huy,
sử dụng mọi nguồn lực của cơ quan, đơn vị; phát triển, thực hiện các kế hoạch,
chương trình của chính bản thân cũng như của nhóm và liên tục kiểm tra, điều chỉnh
các chương trình, dịch vụ để phù hợp với thực tế.
Kỹ năng viết và diễn thuyết (trình bày).
Với mơi trường thơng tin đa dang, hiện đại như ngày nay, cán bộ cần phải có kỹ
năng viết và diễn thuyết khơng chỉ trên giấy, mà cịn cần phải tận dụng các ứng dụng
của công nghệ vào các cơng việc này như trình bày trên power-point… Khi nói và
viết nên sử dụng thêm các hình ảnh, âm thanh, các video, bản đồ tư duy, kỹ thuật kể
chuyện số,… để tăng hiệu ứng cho bài trình bày của mình. Kỹ năng này giúp cho cán
bộ có thể thuyết phục được những người cộng tác hoặc thuyết phục hội đồng về
những vấn đề họ nêu ra trong bản kế hoạch.
Kỹ năng đánh giá.
Kỹ năng này liên quan đến việc phân tích, tìm hiểu và đánh giá; thiết kế và
cung cấp; đánh giá kết quả sử dụng dịch vụ và các nguồn lực cũng như việc thực hiện
các nghiên cứu để tìm ra giải pháp cho các vấn đề quản lý. Kỹ năng đánh giá tốt sẽ
giúp cho cán bộ có khả năng đưa ra những dự báo có độ chính xác cao hơn trong bản
kế hoạch.
Xác định các kỹ năng cần thiết để thực hiện KK phát triển KT-XH ở cơ sở.
Kỹ năng giao tiếp.
Kỹ năng giao tiếp luôn là 1 trong những yếu tố quan trọng, giúp làm nên thành
cơng trong q trình tiếp xúc, trao đổi giữa các cán bộ quản lý và giữa họ với những
người khác. Trên cơ sở đó tạo nên sự thuận lợi trong q trình phối hợp thực hiện các
cơng việc theo kế hoạch đã đề ra.
Kỹ năng xử lý tình huống.
Trong quá trình thực hiện KH có thể xảy ra nhiều tình huống mà trước đó bản
thân người lập kế hoạch chưa dự tính được. Do vậy, nên có sẵn 1 nhóm các giải pháp,
quyết định để có thể sử dụng trong các tình huống khác nhau. Mặt khác, việc chia sẻ,
học tập kinh nghiệm từ đồng nghiệp 1 cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các diễn
đàn, mạng… cũng là 1 cách hay và hữu ích.
Liên hệ Thực tế, các yêu cầu này được đáp ứng ra sao?
Cán bộ cơ sở đôi lúc chưa được cập nhật kịp thời các thông tin mới về các quy
định của pháp luật nhằm đảm bảo tính thống nhất trong việc lập kế hoạch quản lý và
phát triển ở địa phương.
Đâu đó vẫn cịn tình trạng rập khn máy móc kế hoạch từ cấp trên mà không
vận dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện kinh tế, đặc trưng văn hóa,…… tại địa
phương.
Chưa làm tốt cơng tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội để đưa ra các phương án điều chỉnh kịp thời.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin, trình bày power-point, các hiệu ứng âm
thanh, hình ảnh cịn hạn chế. Thường trình bày bằng miệng.
Chưa khái qt, đánh giá nhận định được thực trạng tại địa phương trước khi
xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương và chưa xây dựng các
phương án, giải pháp, quyết định dự phịng trong các tình huống khác nhau.
Từ những hạn chế trên, bản thân tôi đề xuất một số giải pháp như sau:
- Cần kịp thời cập nhật các thông tin mới, quy định pháp luật cho đội ngũ cán bộ
cơ sở làm công tác nghiên cứu tham mưu trong việc xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội.
- Cần phân tích nhận định khách quan điều kiện kinh tế xã hội tại địa phương từ
đó đề ra các chỉ tiêu, giải pháp trong xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội tại
địa phương phù hợp và có tiềm năng hồn thành theo tiến độ.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện kế hoạch từ đó kịp thời
có chủ trương, giải pháp kịp thời trong thực hiện, tháo gỡ những vướng mắc phát sinh
trong quá trình triển khai thực hiện.
- Tập huấn ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ năng trình bày diễn thuyết bằng
power-point, hiệu ứng âm thanh để tăng sự thuyết phục, sinh động hơn khi trình bày
kế hoạch.
Câu 6. Quy trình lập KH phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế, vấn đề này
được thực hiện như thế nào?
Để thực hiện một kh phát triển kinh tế-xh hiệu quả nhất cần thực hiện đầy đủ
các bước xây dựng, thẩm định và phê duyệt.
Lập kh là chức năng rất quan trọng đối với mỗi nhà quản lý, bởi nó gắn liền với
việc lựa chọn mục tiêu và chương trình hành động trong tương lai, giúp nhà quản lý
xác định được các chức năng khác còn lại nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu đề ra.
Lập kh là quá trình xác định mục tiêu, nhiệm vụ và lựa chọn các phương thức,
xây dựng tiến trình để đạt được các mục tiêu đó một cách có hq nhất.
Quy trình lập kế hoạch phát triển KTXH được thể hiện dưới 8 bước như sau:
Bước 1: Nhận thức cơ hội
Nhà quản lý phải nắm bắt và đánh giá được nguồn lực hiện có của địa phương.
Xem xét khả năng, hướng phát triển nào có thể được đẩy mạnh và đưa vào KH phát
triển. Để có được 1 bản KH tốt tức là một định hướng phát triển cho tương lai, người
lập kế hoạch phải nắm chắc nhuồn lực hiện tại của đị phương và có thể dự đốn thêm
những nguồn lực sẽ được bổ sung sau đó.
Bước 2: Xác lập mực tiêu
Mục tiêu là kết quả cuối cùng thu được và thường là mong đợi ban đầu của
người lập kế hoạch. Khi xác định mục tiêu của 1 kế hoạch cần lưu ý các yếu tố như:
tính ưu tiên giữa các mục tiêu, xác định thời gian cho các mục tiêu.
Bước 3: kế thừa các tiền đề.
Đây là 1 trong các thành tố thuộc nguồn lực hiện có của địa phương. Tuy nhiên
việc đánh giá các yếu tố tiền đề có giá trị nền tảng cho việc đưa ra những định hướng
mới cho sự phát triển KTXH.
Bước 4: Xây dựng các phương án
Các phương án thực hiện kế hoạch lá 1 bộ phận quan trọng có khả năng quyết
định đến kết quả cuối cùng của việc thực hiện kế hoạch. Do đó, việc xây dựng các
phương án thực hiện yêu cầu phải có sự cân nhắc, tính tốn kỷ lưỡng. Nhiệm vụ của
nhà hoạch định không chỉ là đưa ra các phương án mà còn phải xác định phương án
nào sẽ đem lại hiệu quả cao nhất và trong trường hợp có những diễn biến bất ngờ thì
phương án thay thế sẽ được đưa vào sử dụng ra sao.
Bước 5: Đánh giá các phương án
Trên cơ sở những phương án đã được đưa ra, cùng với việc phân tích các điểm
mạnh, điểm yếu các nguồn lực hiện tại và mức độ của các mục tiêu đã đề ra, người
lập kế hoạch phải tiến hành đánh giá các phương án và chọn ra một hoặc những
phương án có tính khả thi cao nhất.
Bước 6: Lựa chọn phương án
Sau khi so sánh đánh giá các phương án, các cán bộ quản lý phải đưa ra quyết
định lựa chọn phương án tối ưu. Tuy nhiên, có khi việc phân tích và đánh giá các
phương án đưa đến tình huống: có 2 hoặc nhiều phương án thích hợp và khi đó nhà
quản lý có thể quyết định lựa chọn 1 số phương án chứ không chỉ dừng lại ở 1 phương
án tối ưu. Muốn chọn được 1 phương án tối ưu, chủ thể quản lý thường dựa vào các
phương pháp cơ bản kinh nghiệm, thực nghiệm, nghiên cứu…
Bước 7: Xây dựng các kế hoạch bổ trợ
Trên thực tế phần lớn các kế hoạch chính đều cần đến các kế hoạch phụ để bảo
đảm kế hoạch chính cần thực hiện tốt. Và 1 nhà quản lý tốt là người có thể đưa ra
những kế hoạch bổ trợ hợp lý đề phịng những rủi ro có thể xảy ra trong q trình thực
hiện kế hoạch chính. Tùy từng tổ chức, mục tiêu với chức năng, nhiệm vụ có thể mà
có những kế hoạch bổ trợ thích hợp.
Bước 8: Lượng hóa kế hoạch dưới dạng ngân quỹ.
Đây là bước cuối cùng trong quá trình xây dựng 1 kế hoạch và thường gắn với
nguồn ngân quỹ được sử dụng cho kế hoạch.
* Thực tế:
Thực tế lâu nay, công tác lập kế hoạch chưa có quy trình chuẩn ở cấp xã, thậm
chí cả cấp huyện, tỉnh, thành phố; các đơn vị đang vận dụng tuỳ theo hồn cảnh của
mình. Nhiều địa phương có kế hoạch nhưng chung chung, chủ yếu để báo cáo các
cấp, chưa rõ mục tiêu, giải pháp tổ chức thực hiện, thời hạn hoàn thành, các đối tượng
tham gia, công tác giám sát… tất cả chưa theo đúng nghĩa của một bản kế hoạch. Nội
dung kế hoạch ở nhiều đơn vị chưa bám sát quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành và quy hoạch khơng gian, chưa nêu rõ được
các chương trình hoạt động về đối ngoại, hội nhập; phối hợp phát triển vùng; còn
xung đột về mục tiêu về một số lĩnh vực và trong một lĩnh vực. Nguồn nhân lực có
chun mơn, được đào tạo chính quy từ nhóm chun ngành liên quan đến cơng tác
kế hoạch cịn ít, có huyện khơng có cán bộ được đào tạo về chuyên ngành này. Hơn
nữa, cán bộ được theo dõi về kế hoạch thường xuyên phải kiêm nhiệm thêm nhiều
lĩnh vực khác…Cụ thể:
Thứ nhất, phương pháp xây dựng nội dung thuyết minh của bản kế hoạch vẫn
còn nhiều hạn chế.
Việc xác định mục tiêu kế hoạch chưa mang tính đột phá mà vẫn cịn dàn trải
trên tất cả các ngành và có sự lặp đi lặp lại qua nhiều giai đoạn, chưa có điểm nhấn,
chưa hình thành những mối liên kết rõ ràng với sự sẵn có về nguồn lực.
Các giải pháp kế hoạch mang tính chất mơ hồ, chưa rõ nét, khó hiện thực hóa.
Các giải pháp chưa gắn với nguồn kinh phí thực hiện nên chưa tạo ra sự gắn kết giữa
kế hoạch phát triển với nguồn lực tài chính.
Thứ hai, phương pháp tính tốn các chỉ tiêu cịn chưa khoa học.
Các chỉ tiêu kế hoạch là các chỉ tiêu định lượng, cần áp dụng các phương pháp
dự báo khoa học để tính tốn. Tuy nhiên, thực tế ở hầu hết các địa phương cho thấy
các chỉ tiêu trong bản kế hoạch đều được đưa ra dựa trên kinh nghiệm, so sánh năm
trước - năm sau. Do vậy các chỉ tiêu đề ra chưa khoa học, đơi khi cịn thiếu chính xác,
thậm chí xảy ra tình trạng mâu thuẫn giữa các chỉ tiêu kế hoạch.
Thứ ba, về phương pháp dự báo nhu cầu nguồn lực và dự toán ngân sách trong
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
Do còn nhiều hạn chế trong phương pháp xác định các chỉ tiêu kế hoạch nên việc
dự báo nhu cầu nguồn lực tài chính cịn chưa chính xác. Chưa có các hàm thể hiện
mối tương quan giữa các mục tiêu phát triển với nguồn lực tài chính. Do vậy, đơi khi
xảy ra tình trạng cân đối thiếu nguồn lực, chưa huy động và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực xã hội để thực hiện các mục tiêu kế hoạch.
Những tồn tại nêu trên đã dẫn tới một thực tế là danh mục các dự án kèm theo
các bản kế hoạch phát triển kinh tế xã hội mới chỉ dựa trên nguồn lực sẵn có, một vài
nhu cầu cấp thiết của địa phương mà chưa trả lời được câu hỏi: các dự án có thực sự
giải quyết được các vấn đề này không, dự án đã được thẩm định về lợi ích – chi phí,
lợi ích kinh tế - xã hội chưa, có phương án nào giải quyết vấn đề mà không cần sử
dụng tới ngân sách địa phương hoặc sử dụng ít hơn khơng… Danh mục dự án cũng
rơi vào tình trạng phải bổ sung, thay đổi nhiều lần do chưa dự báo hết các nguồn lực
cũng như chưa bao phủ được hết các nhu cầu cấp thiết của địa phương trong kỳ kế
hoạch.
Những hạn chế trên đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương pháp lập kế hoạch với
mục tiêu gắn kế hoạch với nguồn lực tài chính.
Trước hết, cần thay đổi quan điểm, tư duy của người làm kế hoạch. Xóa bỏ tư
duy làm kế hoạch để báo cáo, mà lập kế hoạch là để tạo ra một cơng cụ giúp chính
phủ cùn với các cơ quan quản lý nhà nước điều tiết thị trường, điều hành nền kinh tế
hiệu quả hơn.
Thứ hai, cần áp dụng các phương pháp phân tích và dự báo khoa học. Tùy theo
từng chỉ tiêu mà sử dụng các phương pháp hợp lý. Đảm bảo các chỉ tiêu kế hoạch
được đề ra không chỉ dựa trên kinh nghiệm của các nhà quản lý, các nhà làm kế hoạch
mà còn dựa trên cơ sở khoa học, có tính logic cao. Có những phương pháp dự báo
đơn giản, dễ áp dụng tại địa phương, nhưng cũng có những phương pháp phức tạp,
địi hỏi chun mơn cao. Do vậy, đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm dự
báo là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Thứ ba, tăng cường sự tham gia của nhiều bên trong lập kế hoạch là một sự đổi
mới cần thiết
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là một bản kế hoạch tổng hợp trên nhiều mặt,
bao quát nhiều vấn đề của toàn xã hội. Do vậy, tăng cường sự tham gia của nhiều cơ
quan, đoàn thể và các tổ chức trong xã hội vào quá trình lập kế hoạch là một yêu cầu
tất yếu.
Mở rộng sự tham gia của nhiều đơn vị trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
của một địa phương cũng là một cách nâng cao trách nhiệm của các đơn vị đó trong
q trình thực hiện kế hoạch, để kế hoạch hóa phát triển khơng chỉ là mệnh lệnh của
chính quyền mà cịn phản ánh đúng nhu cầu của cả xã hội.
Bên cạnh sự tham gia của các cấp, các ngành ở địa phương có thể huy động sự
tham gia của các tổ chức tư vấn, các cơ quan nghiên cứu như các trường đại học…
Đây là những đơn vị có chun mơn nghiệp vụ cao, có thể giúp địa phương trong việc
sử dụng các cơng cụ phân tích, đánh giá, giúp đào tạo cán bộ kế hoạch địa phương đơi
khi có thể giúp các địa phương đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan trong
bản kế hoạch.
Tóm lại, cho dù bản chất của kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường có thay
đổi so với trong nền kinh tế kế hoạch tập trung thì kế hoạch hóa vẫn là một cơng cụ
khơng thể thiếu giúp chính phủ điều hành nền kinh tế. Để kế hoạch hóa trong nền kinh
tế thị trường thực sự trở thành công cụ điều hành nền kinh tế hiệu quả, cần có những
thay đổi nhất định về quan niệm, tư duy làm kế hoạch mà trước tiên là thay đổi về
phương pháp lập kế hoạch. Phương pháp lập kế hoạch truyền thống cần dần thay thế
bằng những phương pháp lập kế hoạch tiên tiến hơn, hiệu quả hơn./.
Câu 7: Các hình thức kiểm tra hành chính. Hoạt động kiểm tra được các cơ
quan hành chính nhà nược thực hiện trong thời gian qua như thế nào?
Kiểm tra hành chính là một hoạt động quan trọng của quy trình quản lý hành
chính nhà nước. Để phát huy hiệu quả ciua3 cơng tác kiểm tra, người sử dụng nhiều
hình thức kiểm tra khác nhau như: kiểm tra thường xuyên theo kế hoạch, kiểm tra đột
xuất.
Theo căn cứ tiến hành kiểm tra có:
-Kiểm tra hành chính theo kế hoạch:
+Kiểm tra hành chính theo kế hoạch là một hình thức kiểm tra theo đó chủ thể
kiểm tra hành chính tiến hành hoạt động kiểm kiểm tra một cách thường xuyên, theo
kế hoạch định trước với nội dung kiểm tra bao hàm toàn bộ hoạt động hoặc một số
lĩnh vực hoạt động của các đối tượng thuộc thẩm quyền quản lý.
+Hoạt động kiểm tra theo kế hoạch có thể được tiền hành bới các cơ quan hành
chính nhà nước thẩm quyền gồm Chí phủ, UBND các cấp hoặc bất ký cơ quan quản
lý nào.
+Đối với UBND các cấp, việc kiểm tra được thực hiện trong phạm vi lĩnh vực
quản lý của UBND mang tính quyền lực nhà nước, có quyền ra các quyết định quản
lý hành chính nhà nước buộc cá nhân, tổ chức phải thi hành.
+hoạt động kiểm tra hành chính theo kế hoạch cũng có thể được tiến hành bởi
các cơ quan quản lý ngành hay lĩnh vực (bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính
phủ có chức năng quản lý ngành hay lĩnh vực, các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND). Hoạt động này nhằm kiểm tra việc chấp hành pháp luật và các quy tắc quản
lý về ngành hây lĩnh vực do mình quản lý thống nhất trong cả nước.
-Kiểm tra hành chính đột xuất:
+Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước để hồn thành nhiệm vụ chức
năng của mình, xử lý kịp thời những tình huống mới phát sinh, đáp ứng những yêu
cầu, kiến nghị chính đáng của cơng dân, tổ chức hoạtđộng kiểm tra hành chính có thể
được tiến hành đột xuất.
+Kiểm tra hành chính đột xuất là hoạt dộng kiểm tra hành chính được hoạt
động khơng theo định ký, khơng thơng báo trước có trọng điểm nhằm vào mốt khâu,
một số vấn đề nhất định để xử lý những tình huống mới phát sinh, lảm rõ một số vấn
đề trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước hoặc đáp ứng những u cầu, kiến
nghị chính đáng của cơng dân, tổ chức.
+ Kiểm tra hành chính độtxuất được tiến hành xuất phát từi yêu cầu của chủ thể
quản lý hành chính nhà nước và của cả co6ngda6n tổ chức là đối tượng của quản lý
hành chính nhà nước.
+ Kiểm tra hành chính đột xuất có thể được tiến hành bởi các cơ quan hành
chính nhà nước thẩm quyền chung hoặc cơ quan hành chính nhà nước thẩm quyền
riêng. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động kiểm tra hành chính đột xuất thường được các
cơ quan kiểm tra chức năng tiến hành.
* Theo phạm vi nội dubng kiểm tra có:
- Kiểm tra chức năng:
+ Đây là hoạt động kiểm Tra do các cơ quan quản lý ngành hay lĩnh vực ( bộ,
cơ quan ngang bộ…) thực hiện đối với các cơ qaun tổ chức đơn vị khơng trực thuộc
mình về tổ chức trong việc chấp hành pháp luật, đường lối chính sách và các quy tắc
quản lý về ngành hay lĩnh vực do mình quản lý thống nhất trong cả nước.
+ Khi tiến hành kiểm tra theo chức năng các cơ quan kiểm tra có quyền yêu cấu
cơ quan bị kiểm tra cùng cấp đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyền quyết định trái pháp
luật của cơ quan đó; khơng có quyền tự mình đình chỉ sửa đổi hoặc bãi bỏ quyền
quyết định đó, khơng có quyền áp dụng các chế tài kỷ luật, phạt hành chính trừ trường
hợp cơ qaun kiểm tra chức năng đó chức năng là cơ quan thanh tra nhà nước chuyên
ngành.
+ Đốivới cơ quan cấp dưới có thể đình chỉ những văn bản trái pháp luật do cơ
quan đó ban hành và đề nghị thủ trưởng cấp trên trực tiếp của mình bãi bỏ.
- Kiểm, tra nội bộ:
+ là nhiệm vụ chức năng của mọi cơ quan quản lý hành chính nhà nước chỉ hoạt
động kiểm tra trong nội bộ ngành, một cơ quan tổ chức do thủ trưởng cơ quan quản
lý ngành và lĩnh vực, thủ trưởng các cơ quan tổ chức xí nghiệp, đơn vị cơ sở của nhà
nước tiến hành. Hoạt động này có tính trực thuộc chặt chẽ giữa chủ thể và đối tượng
bị kiểm tra, phạm vi kiểm tra bao quát mọi hoạt động, mọi vấn đề thuộc nhiệm vụ,
chức năng của cơ quan cấp dưới, nhân viên dưới quyền.
+ Thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền kiểm tra hoặc lập ra tổ chức giúp thủ
trưởng kiểm tra. Khi tiến hành kiểm tra thủ trưởng cơ quan hoặc tổ chức kiểm tra có
quyền áp dụng mọi hình thức và biện pháp thuộc quyền hạn của thủ trưởng như: khen
thưởng cá nhân, cơ quan có thành tích; kỷ luật cơ quan tổ chức và cá nhân vi phạm, ra
quyết định đình chỉ hoặc bãi bỏ các quyết định sai trái của cấp dưới, đình chỉ hành vi
vi phạm pháp luật kỷ luật kể cả các biện pháp kiểm tra, kiểm, soát kê biên, niêm
phong tài sản, tài liệu..
* Liên hệ thực tế
Tuân thủ và thực hiện tốt quy trình kiểm tra hành chính là một u cầu bắt buộc
trong quá trình kiểm tra của bất kỳ chủ thể nào có thẩm quyền kiểm tra. Nó đảm bảo
cho việc kiểm tra được tiến hành chặt chẽ, rõ ràng, chủ động, đúng quy định trong
phạm vi thẩm quyền để đạt được hiệu quả cao nhất của cuộc kiểm tra.
Tuy vậy, trong thực tế kiểm tra hành chính của nội bộ hệ thống cơ quan hành
chính khơng phải ở đâu và lúc nào cũng đã thực hiện tốt quy trình kiểm tra được cấp
có thẩm quyền quy định.
Thứ nhất, việc xác định các vấn đề cần kiểm tra phần lớn vẫn dựa trên cơ sở các
nội dung kiểm tra đã được xác định trước trong kế hoạch kiểm tra thường xuyên hàng
năm đã được phê duyệt, chưa bám sát vào thực tế tình hình diễn biến của đối tượng
quản lý. Do vậy, hoạt động kiểm tra hành chính đơi khi được tiến hành mang tính hình
thức (đặc biệt là kiểm tra trong nội bộ của một cơ quan), chưa căn cứ đúng vào tình
hình diễn biến thực tế quản lý, thực thi nhiệm vụ của đối tượng để kịp thời có sự kiểm
tra hướng dẫn hoặc phát hiện, ngăn ngừa những sai phạm nảy sinh.
Thứ hai, việc lập kế hoạch kiểm tra sau khi xác định được vấn đề kiểm tra đã
được tiến hành, tuy nhiên chất lượng kế hoạch được lập ở một số cơ quan còn chưa
cao.
Cụ thể, trong kế hoạch được lập chưa đề cập chi tiết đến quy trình và phương
pháp tiến hành kiểm tra, chưa đề cập đến phương án dự phòng để lường trước được
các tình huống có thể xảy ra trong q trình kiểm tra. Đối với kế hoạch kiểm tra của
người có thẩm quyền kiểm tra trong nội bộ cơ quan, kế hoạch kiểm tra đôi khi được
lập sơ sài, chưa rõ về yêu cầu kiểm tra và phương pháp tiến hành.
Thứ ba, hiện nay trừ các hoạt động kiểm tra chức năng thì phần lớn hoạt động
kiểm tra hành chính vẫn được tiến hành trên cơ sở xem xét báo cáo của đối tượng
kiểm tra. Chủ thể bị kiểm tra lại mang nặng tâm lý là kiểm tra xử lý vi phạm nên
trong báo cáo của đối tượng kiểm tra đôi khi không thể hiện được hết thực tế của vấn
đề. Do đó, dẫn đến việc đánh giá, nhận xét của chủ thể kiểm tra cũng chưa sát thực,
đồng thời thông qua việc kiểm tra để hướng dẫn công việc hầu như không được chú ý.
Thứ tư, trong nhiều cuộc kiểm tra khi tiến hành, chủ thể công bố quyết định kiểm
tra chưa giải thích rõ quyền, nghĩa vụ của người kiểm tra và của người bị kiểm tra.
Điều này dễ dẫn đến sự đối phó từ phía đối tượng kiểm tra, sự quan liêu, hạch sách và
thậm chí “địi hỏi”, “vịi vĩnh” từ phía người có thẩm quyền kiểm tra, làm sai lệnh kết
quả kiểm tra.
Thứ năm, việc quy định khi xử lý kết quả kiểm tra nếu đối tượng thực hiện tốt và
cá nhân trong q trình thực hiện cơng tác kiểm tra có thành tích thì được khen
thưởng kịp thời rất ít khi được thực hiện trên thực tế, thông thường được lồng ghép
vào đánh giá khen thưởng cuối năm.
* Giải pháp để thực hiện tốt quy trình kiểm tra hành chính
Từ thực trạng nêu trên, để thực hiện tốt quy trình kiểm tra hành chính trong nội
bộ hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, mỗi cấp, ngành, cơ quan, trên cơ sở quy định chung về hoạt động kiểm
tra hành chính cần thiết phải quy chế hóa thành quy trình kiểm tra cụ thể phù hợp với
điều kiện đặc thù của cấp, ngành, cơ quan mình. Quy định pháp luật mang tính chất
điều chỉnh chung, để vận dụng vào điều kiện cụ thể của từng ngành, từng cơ quan cần
thiết phải quy chế hóa nhằm tạo ra quy trình đảm bảo tính sát thực, cụ thể, tạo điều
kiện dễ dàng và thuận lợi cho quá trình kiểm tra cũng như giám sát, đánh giá được
quá trình kiểm tra.
Hai là, nâng cao tính chủ động nhận thức và thực hiện quy trình kiểm tra của cả
chủ thể và đối tượng kiểm tra, coi kiểm tra là hoạt động tất yếu, cần thiết của hoạt
động quản lý. Từ đó, nâng cao tính trách nhiệm và tạo ra sự phối hợp hiệu quả giữa
chủ thể và đối tượng trong suốt quá trình kiểm tra hành chính. Chủ thể kiểm tra hay bị
kiểm tra cần nắm chắc quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của mình được quy định
để thực thi đúng chức trách, giúp quy trình kiểm tra diễn ra nghiêm túc và hiệu quả.
Ba là, chủ thể kiểm tra cần xây dựng một cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin
quản lý nhanh và hiệu quả để xác định đúng và kịp thời vấn đề cần kiểm tra. Cơ quan
chức năng, người có thẩm quyền trong q trình lãnh đạo, điều hành, quản lý cần kịp
thời nắm bắt thông tin và dự kiến được diễn biến tiếp theo của sự việc nhằm quyết
định vấn đề cần kiểm tra, chuẩn bị các điều kiện và thời điểm kiểm tra cho phù hợp.
Bốn là, trong xử lý kết quả kiểm tra, bên cạnh việc xử lý các vi phạm cũng cần
quan tâm nhiều hơn đến việc khen thưởng kịp thời. Trong các quy định về hoạt động
kiểm tra nên có phần quy định về vấn đề này. Khen thưởng đúng người, đúng việc và
kịp thời về vật chất và tinh thần là động lực quan trọng giúp cho các cá nhân và tập
thể phấn đấu thực thi và hồn thành tốt cơng vụ của mình.
Năm là, biện pháp quan trọng mang tính quyết định là phải nâng cao năng
lựcchuyên môn, đạo đức công vụ và kỹ năng kiểm tra của các chủ thể kiểm tra. Đây là
biện pháp mang tính tổng thể đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước nói chung và
cơng tác kiểm tra hành chính nhà nước nói riêng thể hiện được đúng bản chất và ý
nghĩa của nó.
Kiểm tra trong nội bộ của hệ thống cơ quan hành chính là hình thức tự kiểm tra
của chính hệ thống hành chính nhà nước, là một trong những biện pháp chủ yếu góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước. Đây là một giai đoạn,
một mắt xích của chu trình quản lý hành chính nhà nước, do vậy, chất lượng, hiệu quả
của hoạt động này là tiền đề quan trọng cho thành công của các giai đoạn khác, để có
thể đưa ra được các quyết định quản lý đúng đắn, phù hợp.
Việc đề ra và thực hiện quy trình kiểm tra hành chính là nhiệm vụ quan trọng của
hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Thực hiện tốt quy trình kiểm tra hành chính là
yêu cầu và cũng là điều kiện để có được kết quả kiểm tra sát thực. Do đó, trong hoạt
động quản lý hành chính nhà nước, mỗi cá nhân, cơ quan cần nhận thức rõ ràng và
đầy đủ quy trình, thủ tục kiểm tra hành chính trước hết trong phạm vi chuyên môn
ngành, lĩnh vực của mình để thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra khi được giao thực hiện
hay phối hợp thực hiện. Đề ra một quy trình kiểm tra khoa học, phù hợp và được thực
hiện tốt chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cho hoạt động kiểm tra.
Câu 8. Các hình thức xử phạt trong vi phạm HC
* Hình thức xử phạt chính:
- Cảnh cáo: cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
khơng nghiêm trọng có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì áp dụng hình thức xử
phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm HC do người chưa thành niên từ đủ
14 tuổi đê`n dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bẳng.
- Phạt tiền: mứa phạt tiền trong xử phạt vi phạm HC từ 50.000đ đến 1.000.000đ
đối với cá nhân, từ 100.000đ đến 2.000.000đ đối với tổ chức.
Đối với khu vực nội thành của thành phố trực thuộc TW thì mức phạt tiền có thể
cao hơn nhưng tối đa không quá 2 mức phạt chung áp dụng đối với cùng hành vi vi
phạm trong các lĩnh vực giao thông đường bộ, bảo vệ môi trường, an ninh trật tự an
tồn xã hơi
Mức phạt tiền tối đa đối với lĩnh vực mới chưa quy định tại khoản 1 điều 24 Luật
xử lý vi phạm HC do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy vban
thường vụ Quốc hội.
- Tước quyền sử dụng giấy phép chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn.
+ Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn là hình thức
xử phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng các hoạt động
được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt
động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hánh nghề.
+ Đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt được áp dụng đối với cá
nhân tổ chức vi phạm HC trong các trường hợp sau:
Đình chỉ một phần hoạt động gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực
tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe con người, môi trường của cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ mà theo quy định của PL phải có giấy phép
Đình chì một phần hoặc tồn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc
hoạt động khác mà theo quy định của PL khơng phải có giấy phép và hoạt động đó
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với
tính mạng, sức khỏe con người, mơi trường và trật tự, an toàn xã hội.
+ Thời gian tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, thời hạn đình
chỉ hoạt động từ 1 tháng đến 24 tháng, kề từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực thi
hành. Người có thẩm quyến xử phạt giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong thời
hạn tước quyền sử dụng giấy phép chứng chỉ hành nghề
- Tịch thu tang vật vi phạm HC, phương tiện được sử dụng để vi phạm HC
Tịch thu tang vật phương tiện vi phgam5 HC là việc sung vào ngân sách NN vật,
tiền, hàng hóa, phương tiện có liên quan trực tiệp đến vi pạm HC, được áp dụng đối
với vi phạm HC nghiêm trọng do lội cố ý của cá nhân, tổ chức.
Việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm HC bị tịch thu được thực hiện theo quy
định tại điều 82 Luật xử lý vi phạm HC
- Trục xuất:
Trục xuất là hình thức xử phạt buộc người nước ngồi có hành vi vi phạm HC tại
Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hịa xã hội CN Việt Nam
Chính phủ quy định chi tiết việc áp dụng hình thức xử phạt trục xuất
* Hình thức xử phạt bổ sung:
Đối với mỗi vi phạm HC, cá nhân, tổ chức vi phạm HC chỉ bị áp dụng một hình
thức xử phạt chính, có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung. Hình
thức xử phạt bổ sung chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính bao gồm:
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn
- Tịch thu tang vật vi phạm HC, phương tiện được sử dụng để vi phạm HC
- Trục xuất
* Liên hệ câu 8 : Thực trạng áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành
chính
Trên thực tế, vi phạm hành chính sẽ khơng bị xử phạt nếu q thời hạn 3 tháng, 1
năm, 2 năm đối với vi phạm tương ứng, kể từ ngày vi phạm được thực hiện. Như vậy,
quá thời hạn trên, các chế tài khôi phục sẽ không được áp dụng nếu vi phạm không bị
phạt. Đây là điểm đáng lưu ý; lý giải có quy định chế tài phạt. Vì vậy nếu quá thời hạn
nhất định (được pháp luật quy định) mà vẫn tiến hành xử phạt thì việc xử phạt ấy
khơng cịn ý nghĩa phịng ngừa vi phạm nữa. Nhưng thực tế vẫn có trường hợp phải ra
quyết định xử phạt để nâng cao tính nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm hành chính,
nếu chỉ buộc khơi phục hậu quả thì là q nhẹ. Cho nên pháp luật cần quy định các
chế tài khôi phục hành chính có thể được áp dụng độc lập trong các trường hợp quá
hạn xử phạt, mà việc không áp dụng chúng sẽ làm cho quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ vẫn đang ở trạng thái bị vi phạm. Đây cũng là điểm khác của chế tài khôi phục
so với chế tài phạt. Một số nội dung khác cũng cần được tiếp tục xem xét như: lĩnh
vực quản lí nhà nước chưa có quy định cụ thể về xử phạt; Quy định xử phạt đối với tổ
chức, cá nhân, người nước ngoài chưa cụ thể; Thẩm quyền xử phạt, tạm giữ, khám
phương tiện của một số cơ quan quy định chưa phù hợp. Hiện nay vẫn còn tồn tại xu
hướng muốn phạt nặng người vi phạm, ngay cả khi vi phạm chỉ đáng phạt cảnh cáo.
Hình thức phạt cảnh cáo vẫn được áp dụng khá phổ biến đối với các vi phạm trong
lĩnh vực trật tự công cộng, trật tự an tồn giao thơng. Khi ý thức pháp luật của người
dân được nâng cao, vai trò của hình thức xử phạt cảnh cáo càng lớn và mang tính phổ
biến và đạt được mục đích áp dụng của hình thức xử phạt chính là mục đích phịng
ngừa vi phạm pháp luật. Pháp luật hiện hành quy định việc xử phạt vi phạm hành
chính chỉ áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên. Song thực tế, số lượng vi phạm
hành chính do người chưa thành niên thực hiện rất phổ biến là ở độ tuổi từ 11 tuổi đến
12 tuổi trở lên. Vậy dù pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính có quy định việc áp dụng
các biện pháp giáo dục đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật nhưng đối
với các đối tượng từ 12 đến 14 tuổi thì biện pháp giáo dục đó khơng có hiệu quả cao.
Đồng thời làm hạn chế phần nào trách nhiệm giám sát người chưa thành niên của cha
mẹ, người giám hộ. Thực tế quy định áp dụng tiền phạt đối tượng bị phạt phải nộp trự
tiếp vào ngân sách nhà nước qua kho bạc bộc lộ nhiều điểm bất hợp lí, gây khó khăn
phiền hà cho người bị xử phạt. Vi phạm hành chính xảy ra thường xun, khơng kể
ban ngày hay ban đêm còn kho bạc nhà nước chỉ làm việc theo thời gian nhất định và
không phải địa bàn nào cũng có kho bạc nhà nước. Đồng thời, có khả năng làm tiêu
cực nảy sinh; Nhiều trường hợp người bị xử phạt tiền phạt và người có thẩm quyền xử
phạt thỏa thuận với nhau; người vi phạm đưa tiền cho người xử phạt mà không cần
biên lai để khỏi phải đi nộp tiền phạt. Hiện tượng tiêu cực này vừa làm thất thu ngân
sách nhà nước vừa làm tha hóa, biến chất cán bộ nhà nước; pháp luật không được thi
hành nghiêm chỉnh đã hạn chế quyền dân chủ của cơng dân.
Nhiều hành vi vi phạm hành chính chưa được xử lý trên thực tế, còn bị “bỏ lọt”.
Cùng với đó, mục đích phịng ngừa và đấu tranh nhằm hạn chế vi phạm hành chính
nói chung chưa đạt được như mong muốn.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên như: Pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính còn thiếu chế tài hoặc chế tài chưa đủ mạnh; cơ chế xử lý vi phạm
hành chính chưa chặt chẽ và chưa đáp ứng được yêu cầu trong thực tiễn; hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính chưa hồn thiện, đồng bộ; tâm lí
cịn e dè, “ngại” trong việc xử lý vi phạm hành chính của cơ quan và cá nhân có thẩm
quyền; tình trạng người dân “khơng sợ”, thậm chí “coi thường” việc xử lý vi phạm
hành chính trong một số lĩnh vực; vấn đề xử lý vi phạm hành chính chưa nhận được
sự quan tâm, chú ý cần thiết của các cơ quan, ban, ngành hữu quan; vấn đề tuyên
truyền, giáo dục ý thức pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cho người dân chưa
được thực hiện có hiệu quả…
3. Một số biện pháp khắc phục
Thực tế đó đã và đang đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục nâng cao hiệu quả đối với
công tác xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh hiện nay. Theo đó, trong thời gian
tới, cần tập trung thực hiện hiệu quả một số biện pháp sau:
Một là, cần nâng cao hiệu quả và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động
xử lý vi phạm hành chính.
Hai là, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính cho người dân.
Ba là, cần xây dựng cơ chế chặt chẽ và đầy đủ đảm bảo cho việc xử lý vi phạm
hành chính có hiệu quả và chất lượng, đảm bảo tính nghiêm minh, cơng bằng của
pháp luật (các hình thức xử phạt cần xuất phát từ thực tế xã hội, không quá năng hay
quá nhẹ giáo dục đi đôi với răn đe, kết hợp thuyết phục và cưỡng chế. Có thể bổ sung
biện pháp phạt lao động cơng ích và phạt giam hành chính. Cần có quy định rõ về
thẩm quyền xử phạt, trình tự, thủ tục xử phạt, mức phạt, nộp phạt bằng ngoại tệ quy
đổi ra tiền Việt Nam đối với các cá nhân, tổ chức nước ngồi vi phạm hành chính.
Bốn là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh. Các quy
định của pháp luật không được mâu thuẫn nhau, tránh sự chồng chéo giữa các văn bản
pháp luật với nhau. Những quy định về các hình thức xử phạt và các biện pháp khắc
phục hậu quả phải có khả năng áp dụng, xử lý linh hoạt đối với các vi phạm hành
chính đa dạng xảy ra trong đời sống xã hội. Cần phải bổ sung các quy định pháp luật
về xử lý vi phạm trong từng loại lĩnh vực, do mỗi lĩnh vực khác nhau thì việc xử phạt
cũng phải khác nhau.
Năm là, cần tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với việc xử lý vi
phạm hành chính.
Sáu là, chú trọng công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành trong việc xử lý vi
phạm hành chính.
Tóm lại, nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh hiện nay
là góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và công bằng xã hội. Chính vì lẽ
đó, việc tiến hành đồng thời các biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả xử lý vi
phạm hành chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và đáp ứng được yêu cầu của thực
tiễn đang đặt ra trên địa bàn tỉnh đối với công tác trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn
hiện nay./.
Câu 9: Trách nhiệm tiếp công dân của người đúng đầu cơ quan và người tiếp
công dân. Việc thực hiện trách nhiệm này trong thời gian qua như thế nào?
Tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo là trách nhiệm của cơ quan công
quyền, của cán bộ công chức đảm nhiệm công việc có liên quan. Thơng qua việc tiếp
cơng dân mà các cơ quan của Đảng, chính quyền các cấp tiếp nhận được các khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân liên quan đến việc thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật để có các biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
*Trách nhiệm cùa người đúng đầu cơ quan trong việc tiếp công dân:
Theo Điều 19 Luật tiếp công dân (2013) trách nhiệm của người đúng đầu cơ
quan trong việc tiếp công dân được quy định như sau:
-Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức tiếp công dân của cơ quan mình.
-Ban hành nội quy, quy chế tiếp cơng dân.
-Bố trí địa điểm thuận lợi cho việc tiếp công dân; bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ
việc tiiếp công dân.
-Phân công cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân thường xuyên..
-Phối hợp chặt chẽ với cơ quan tổ chức, đơn vị có liên quan tiếp công dân và xử
lý vụ việc nhiều người cùng khiếu nại, tố cáo kiến nghị phản ánh về một nội dung.
-Kiểm tra đôn đốc cơ quan, tổ chức, đơn vị người có trách nhiệm thuộc quyền
quản lý của mình thực hiện các quy định của pháp luật trong việc tiếp cơng dân.
-Có trách nhiệm đảm bảo an tồn trật tự cho hoạt động tiếp cơng dân.
-Báo cáo tình hình kết quả tiếp công dân với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Bên cạnh các trách nhiệm nói trên người đúng đầu cơ quan cịn có trách nhiệm
trực tiếp thực hiện các việc tiếp cơng dân ít nhất 1 ngày trong 1 tháng thại địa điểm
tiếp công dân của cơ quan mình. Đồng thới có trách nhiệm thực hiện tiếp công dân
đột xuất. Việc thực hiện tiếp công dân đột xuất trong các trường hợp sau đây:
-Vụ việc gây gắt, phức tạp, có nhiều người tham gia, liên quan đến trách nhiệm
của nhiều cơ quan tổ chức đơn vị hoặc ý kiến của các cơ quan, tổ chức đơn vị cịn
khác nhau.
-Vụ việc nếu khơng chỉ đạo, xem xét kịp thời có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng
hoặc có thể dẫn đến hủy hoại tài sản của Nhà nước, tập thể, xâm hại tính mạng, tài sản
của nhân dân ảnh hường đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.