Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Chứng minh sự thay thế hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa đối với hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa là quy luật tất yếu của lịch sử tiến hoá của xã hội loài người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.1 KB, 10 trang )

Đề bài : Chứng minh sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa đối với hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa là quy luật tất yếu của
lịch sử tiến hoá của xã hội loài người


Đề bài : Chứng minh sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa đối với hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa là quy luật tất yếu của
lịch sử tiến hoá của xã hội lồi người
Khái niệm
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan
hệ sản xuất đó. Hình thái kinh tế xã hội chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất
định. Ứng với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa là chế độ xã hội phát triển cao
nhất, có quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng
với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao
hơn so với cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản; có kiến trúc thượng tầng tương ứng
thực sự là của nhân dân với trình độ xã hội hoá ngày càng cao.
1. Hạn chế của hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa trong lịch sự tiến hóa lồi
người.
Chủ nghĩa tư bản ra đời gắn liền với tích lũy ngun thủy: bóc lột sức lao
động và xâm lược cướp bóc.
Các cuộc chiến tranh thế giời thứ 2 do các nước tư bản tạo ra làm cho hàng
triệu người vô tội bị giết hại, sự phát triển sản xuất và con người bị phá hủy, kinh tế
kéo lùi, mà chúng chỉ nhằm tới mục đích tranh giành thị trường, thuộc địa và sự


ảnh hưởng đến các khu vực. Các nước phải có trách nhiệm giải quyết hậu quả gây
ra đối với nhân loại.


Cơ sở tồn tại và phát triển của CNTB là quan hệ bóc lột của các nhà tư bản
đối với cơng nhân. Theo sự phân tích của Mác và Lê nin chừng nào CNTB cịn tồn
tại thì chừng đó quan hệ bóc lột cịn tồn tại và sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội
vẫn là điều khơng tránh khỏi. Trong nhiều tác phẩm của mình, đặc biệt là trong tác
phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và tác phẩm Chống Đuyrinh, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát
triển mới của nhân loại, các ông viết: "Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai
cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ
hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại". Nhưng mặt khác,
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng: trong xã hội đối kháng giai cấp đó, con
người càng chinh phục thiên nhiên, cải tạo tự nhiên thì tình trạng người áp bức,
bóc lột người càng được mở rộng.
Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản càng phát triển đến trình độ xã hội
hóa cao thì càng làm cho mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất
với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa thêm sâu
sắc. Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa tư bản biểu hiện
trên lĩnh vực chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao
động với giai cấp tư sản ngày càng trở nên quyết liệt. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp
công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện ngay từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành
ngày càng trở nên sâu sắc.
Con người và xã hội càng phát triển tiến bộ thì xã hội tư bản chủ nghĩa
khơng cịn có thể thống trị và bóc lột được nữa, chính vì thế mà sự thay thế khác là
hình thái kinh thế xã hội cộng sản chủ nghĩa là một quy luật tất yếu khách quan của
lịch sử tiến hóa lồi người.


2. Xu hướng tất yếu của sự xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa trong lịch sử tiến hóa của xã hội lồi người.
2.1. Là một quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng một cách triệt để quan điểm duy vật về

lịch sử để nghiên cứu xã hội loài người trải qua các chế độ khác nhau, từ đó xây
dựng nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, phân tích một cách khoa học sự
chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn
và coi đó là một q trình lịch sử - tự nhiên (mang tính khách quan khơng phụ
thuộc vào ý thức con người).
2.2. Mâu thuẫn trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giữa nhu
cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất.
Trong nhiều tác phẩm của mình, đặc biệt là trong tác phẩm Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản và tác phẩm Chống Đuyrinh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định
sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển mới của nhân loại, các
ông viết: "Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã
tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất
cả các thế hệ trước kia gộp lại". Nhưng mặt khác, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ
ra rằng: trong xã hội đối kháng giai cấp đó, con người càng chinh phục thiên nhiên,
cải tạo tự nhiên thì tình trạng người áp bức, bóc lột người càng được mở rộng.
Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản càng phát triển đến trình độ xã hội
hóa cao thì càng làm cho mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất
với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa thêm sâu
sắc. Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa tư bản biểu hiện


trên lĩnh vực chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao
động với giai cấp tư sản ngày càng trở nên quyết liệt.
Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện ngay từ
khi chủ nghĩa tư bản hình thành ngày càng trở nên sâu sắc. Qua thực tiễn cuộc đấu
tranh, giai cấp công nhân đã nhận thức được rằng, muốn giành thắng lợi phải tiếp
thu chủ nghĩa xã hội khoa học, hình thành chính đảng của giai cấp mình. Khi đảng
cộng sản ra đời, tồn bộ hoạt động của nghĩa đều hướng vào lật đổ nhà nước của
giai cấp tư sản, xác lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Việc thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là sự mở đầu

của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, sự xuất hiện của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phải
có những điều kiện nhất định, đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới chủ
nghĩa tư bản đạt đến một mức độ nhất định, lực lượng giai cấp công nhân trở nên
đông đảo, mâu thuẫn gay gắt với giai cấp tư sản. Mặt khác, từ thực tiễn cách mạng,
giai cấp công nhân phải giác ngộ cách mạng, phải xây dựng được chính đảng cách
mạng, phải kiên quyết đấu tranh giành lấy chính quyền từ tay giai cấp tư sản khi có
thời cơ cách mạng. Cách mạng không tự diễn ra, chủ nghĩa tư bản không tự sụp đổ
C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế -xã hội cộng
sản chủ nghĩa từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển, sống trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa, khi mà giai cấp tư sản đã trở thành lực lượng phản động, đã tiến
hành những cuộc chiến tranh xâm lược các nước lạc hậu, biến các nước đó thành
thuộc địa, khi mà lực lượng công nhân đã phát triển mạnh mẽ, V.I.Lênin đã dự báo
sự xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước tư bản chủ
nghĩa có trình độ phát triển trung bình và những nước thuộc địa sau khi được giải
phóng do giai cấp công nhân lãnh đạo.


Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản có tính xã hội hóa cao đã mang tính
chất tồn cầu ngày càng mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Ý thức được mâu thuẫn đó giai cấp tư sản dùng rất nhiều biện pháp như tăng
cường sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, thành lập các tập đoàn tư bản,... với
mong muốn làm giảm những mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản. Sở hữu nhà nước
trong chủ nghĩa tư bản, thực chất chỉ là giai cấp tư sản lợi dụng nhà nước, nhân
danh nhà nước để nắm tư liệu sản xuất. Do vậy, mâu thuẫn đối kháng trong kinh tế
và trong lĩnh vực chính trị - xã hội khơng hề suy giảm. Mâu thuẫn đó chỉ có thể
giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhằm mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là kết quả hoạt động tự

giác của giai cấp công nhân, bằng hành động đấu tranh cách mạng của giai cấp này,
bởi vì chế độ tư bản chủ nghĩa khơng tự nó sụp đổ. Ngày nay chủ nghĩa tư bản đã
lỗi thời, nhưng giai cấp tư sản vẫn tìm mọi biện pháp bảo vệ chế độ tư hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa.
Trong khi nhấn mạnh vai trị tích cực của nhân tố chủ quan trong tiến trình
cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa xác lập chế độ mới xã hội chủ nghĩa,
các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng cương quyết đấu tranh chống lại
khuynh hướng cách mạng phiêu lưu, khơng tính đến trình độ phát triển của hiện
thực cách mạng, khơng xem xét tới trình độ giác ngộ của nhân dân, thiếu sự chuẩn
bị chu đáo.
3. Liên hệ với Việt Nam


Thấm nhuần những tư tưởng căn bản của các nhà kinh điển về thời kỳ quá
độ Đảng ta khẳng định, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã ở nước ta ". . .là một quá
trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhận thức
về chủ nghĩa xã hội với tư cách là nhận thức về một thực thể đang hình thành, đang
vận động và phát triển càng là một quá trình phức tạp với nhiều bất ngờ, mới mẻ.
Do đó, nhận thức về mơ hình chủ nghĩa xã hội càng phải tn thủ các phương pháp
nhận thức biện chứng duy vật. Quan điểm của Đảng ta về mơ hình chủ nghĩa xã
hội xã hội Việt Nam chính là thành tựu to lớn về tư duy lý luận của Đảng ta mấy
chục năm lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là hai mươi lăm
năm đổi mới vừa qua. Nhưng có thể khẳng định rằng, đó là mơ hình tổng quát,
trong thời kỳ quá độ, nhiều đặc trưng mới, cụ thể và phù hợp hơn với thực tiễn, với
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chắc chắn sẽ được Đảng ta tiếp tục bổ sung
và hoàn thiện./.







×