TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - MARKETING
KHOA TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG
TIỂU LUẬN THI KTHP
HỌC PHẦN: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
LỚP HỌC PHẦN: 2021702006503
ĐỀ TÀI:
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN THỊ TTCK
VIỆT NAM
GVGD: TS PHAN THU HIỀN
TPHCM, ngày 12 tháng 07 năm 2021
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHĨM
STT
1
2
3
4
5
HỌ VÀ TÊN
Trần Đức Chính
Ngơ Thị Ngọc Mai
Nguyễn Thị Quỳnh Giang
Nguyễn Thị Thùy Oanh
Nguyễn Thị Diễm Hương
MSSV
1921006180
1921006286
1921006203
1921006346
1921006233
LỚP
CLC_19DNH03
CLC_19DNH03
CLC_19DNH03
CLC_19DNH03
CLC_19DNH03
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ...................... 5
I. Sơ lược về thị trường chứng khoán: .................................................................... 5
1.1. Khái niệm chứng khoán: ................................................................................... 5
1.2. Đặc điểm của chứng khoán:.............................................................................. 5
1.3. Phân loại chứng khoán:..................................................................................... 5
1.4. Khái niệm về thị trường chứng khoán: ............................................................. 6
1.5. Chức năng của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế: .............................. 6
1.6. Cơ cấu của thị trường chứng khoán: ................................................................. 7
1.6.1. Thị trường chứng khoán sơ cấp: .................................................................... 7
1.6.2. Thị trường chứng khoán thứ cấp: .................................................................. 7
1.7. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán: .................................. 7
1.8. Cách thành phần tham gia thị trường chứng khoán: ......................................... 8
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH DỊCH COVID-19 Ở VIỆT NAM .................................. 8
I. Virus CORONA là loại virus gì? .......................................................................... 8
II. COVID-19 là gì? ................................................................................................... 9
CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.................................................................................. 10
I. Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 trong năm 2020: ..................................... 10
II. Diễn biến của TTCK từ đầu năm 2021 đến nay: ............................................ 12
CHƯƠNG 4: CÁC DỰ BÁO CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM, ĐỀ XUẤT MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP TRONG TÌNH
HÌNH DỊCH COVID-19. ........................................................................................... 15
I. Dự báo về TTCK: ................................................................................................ 15
II. Một số giải pháp khắc phục: ............................................................................. 16
III. Các khuyến nghị về TTCK: ............................................................................. 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO: ..................................................................................... 19
MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là một trong những thị trường tiềm
năng và nhận được sự quan tâm rất lớn từ cơng chúng đến Chính phủ vì có vai trị quan
trọng trong việc huy động vốn, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, tạo mơi
trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mơ. Bên cạnh đó, hiện nay
đại dịch COVID-19 đã và đang trở thành mối nguy hiểm hàng đầu của toàn nhân loại.
Kể từ khi được phát hiện lần đầu vào tháng 12/2019 tại Vũ Hán (Trung Quốc), đến nay,
Covid-19 đã nhanh chóng lây lan ra trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ với tốc độ kinh
khủng, nhiều nơi khơng thể kiểm sốt. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã chính thức
tuyên bố Covid-19 là đại dịch toàn cầu. Những con số được cập nhật liên tục, hàng ngày
về số người bị nhiễm, bị chết vì dịch bệnh đã dấy lên sự lo lắng, tâm trạng bất an đối
với tồn nhân loại. Covid-19 khơng cịn là mối quan tâm của mỗi một cá nhân, tổ chức,
hay một cộng đồng, quốc gia, mà đã trở thành mối quan tâm chung của toàn thế giới.
Với TTCK Việt Nam, đại dịch covid-19 đã tác động tiêu cực, gây nên nhiều nguy cơ
bất ổn. Với tình hình đó thì một câu hỏi đặt ra: Thị trường chứng khoán Việt Nam bị
ảnh hưởng như thế nào? Để trả lời cho câu hỏi đó chúng em chọn đề tài nghiên cứu:
“Tác động của đại dịch COVID-19 đến thị trường chứng khoán Việt Nam”. Từ đó trình
bày các dự báo của thị trường chứng khoán Việt Nam, đề xuất một số kiến nghị và giải
pháp khắc phục trong tình hình dịch bệnh phức tạp hiện nay.
Do trình độ hiểu biết cịn giới hạn nên khơng tránh khỏi sự khiếm khuyết trong
việc nghiên cứu, tìm hiểu và trình bày. Chúng em kính mong nhận được sự góp ý của
q Thầy/Cơ để bài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN
I. Sơ lược về thị trường chứng khoán:
1.1. Khái niệm chứng khoán:
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành.
Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút tốn ghi số hoặc dữ liệu
điện tử.
• Chứng khốn bao gồm các loại:
- Cổ phiếu
- Trái phiếu
- Chứng chỉ quỹ đầu từ
- Chứng khoán phái sinh
1.2. Đặc điểm của chứng khốn:
• Chứng khốn ln gắn với khả năng thu lợi
• Chứng khốn ln gắn với rủi ro
• Chứng khốn có khả năng thanh khoản
1.3. Phân loại chứng khốn:
• Căn cứ vào chủ thể phát hành:
- Chứng khốn chính phủ và chính quyền địa phương
- Chứng khốn doanh nghiệp
• Căn cứ vào tính chất huy động vốn:
- Chứng khoán vốn
- Chứng khoán nợ
- Chứng khoán phái sinh
• Căn cứ vào lợi tức của chứng khốn:
- Chứng khốn có thu nhập ổn định
- Chứng khốn có thu nhập biến đổi
• Căn cứ theo hình thức chứng khốn:
- Chứng khốn ghi danh
- Chứng khốn khơng ghi danh
• Căn cứ theo thị trường nơi chứng khoán được giao dịch:
- Chứng khoán được niêm yết
-
Chứng khốn khơng được niêm yết
1.4. Khái niệm về thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng
khoán. TTCK là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế chuyển vốn
trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành qua đó thực hiện chức năng của thị trường
tài chính là cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, đó có thể là TTCK tập trung hoặc phi tập trung. Tính tập trung ở đây
được tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất.
Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở Giao Dịch chứng khoán (stock
exchange). Tại SGDCK, các giao dịch được tập trung tại một địa điểm, các lệnh được
chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao
dịch.
TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter). Trên thị trường
OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các cơng ty chứng khốn phân tán
trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này
được hình thành trên phương thức thỏa thuận.
1.5. Chức năng của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế:
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khốn do các
cơng ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh
và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thơng qua TTCK, Chính phủ và chính
quyền địa phương ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích
sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung cấp cho công chúng một
môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán
trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các NĐT có
thể lựa chọn cho loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khốn: Nhờ có TTCK mà các nhà đầu tư có
thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán
khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một
trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khốn đối với nhà đầu tư. Đây là yếu tố cho
thấy tính linh hoạt, an tồn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu
quả thì càng có khả năng nâng tính thanh khoản của các chứng khốn giao dịch trên thị
trường.
Tạo mơi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mơ: Các chỉ báo
của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các
chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế đang tăng trưởng; và
ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì
thế TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp
chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mơ. Thơng qua TTCK, chính phủ có thể
mua và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thiếu hụt ngân sách và quản
lý lạm phát. Ngồi ra, chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác
động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền
kinh tế.
Đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp: Thông qua giá chứng khoán, hoạt động
của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc
đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện,
từ đó tạo ra mơi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,
kích thích áp dụng cơng nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
1.6. Cơ cấu của thị trường chứng khoán:
Xét về sự lưu thơng của chứng khốn trên thị trường, TTCK có 2 loại:
1.6.1. Thị trường chứng khốn sơ cấp:
TTCK sơ cấp là nơi diễn ra quá trình mua bán lần đầu các chứng khoán mới phát
hành. Thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành
• Chức năng của thị trường sơ cấp:
Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của TTCK, đó là huy động
vốn cho đầu tư.
Thị trường sơ cấp vừa có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của
từng hộ dân cư, vừa có khả năng thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài; các nguồn
vốn tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, Chính phủ tạo thành một
nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà các phương thức khác không làm được.
Như vậy, thị trường sơ cấp tạo ra môi trường cho các doanh nghiệp gọi vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh, giúp nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách thơng
qua việc phát hành trái phiếu, có thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Nó cũng trực tiếp
cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua
sắm của mình tốt hơn.
1.6.2. Thị trường chứng khoán thứ cấp:
Sau khi chứng khoán mới được phát hành trên thị trường sơ cấp, chúng sẽ được
giao dịch trên thị trường thứ cấp. Khác với thị trường sơ cấp, tiền bán chứng khoán trên
thị trường thứ cấp thuộc về các nhà đầu tư và nhà kinh doanh chứ không thuộc về các
công ty phát hành chứng khoán.
Xét về phương thức tổ chức và giao dịch, TTCK bao gồm 3 loại: SGDCK, OTC và
thị trường thứ 3.
1.7. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán:
Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ
cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị
trường sơ cấp, các nhà pháp hành cạnh tranh nhau để bán chứng khốn của mình cho
các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được lựa chọn chứng khốn theo các mục tiêu của mình.
Trên thị trường thứ cấp các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một
lợi nhuận cao nhất và đánh giá theo phương thức đấu giá.
Ngun tắc cơng bằng: Có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân
thủ những quy định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thơng tin và trong việc
gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm trong các quy định đó.
Ngun tắc cơng khai: Chứng khốn là một loại hàng hóa trừu tượng nên TTCK
phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo quy định, các tổ
chức phát hành có nghĩa vụ cung cấp thơng tin một cách đầy đủ thông tin theo chế độ
thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, SDG, các
CTCK và tổ chức có liên quan.
Nguyên tắc trung gian: Các giao dịch chứng khốn được thực hiên thơng qua tổ
chức trung gian là các CTCK. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực
tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp,
thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các CTCK mua, bán các chứng khoán
giúp khách hàng hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch
mua bán chứng khốn trên tài khoản của mình.
Ngun tắc tập trung: Cách giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và
trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ
chức tự quản.
1.8. Cách thành phần tham gia thị trường chứng khoán:
Nhà phát hành: là các tổ chức thực hiện huy động vốn thơng qua TTCK dưới hình
thức phát hành các chứng khoán.
Nhà đầu tư: là những người thực sự mua và bán chứng khốn trên TTCK.
Các cơng ty chứng khốn: là những cơng ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khốn,
có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là mơi giới, quản lý quỹ
đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khốn và tự doanh.
Các tổ chức có liên quan đến TTCK: Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch
chứng khốn, cơng ty dịch vụ máy tính chứng khốn, cơng ty đánh giá hệ số tín nhiệm…
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH DỊCH COVID-19 Ở VIỆT NAM
I. Virus CORONA là loại virus gì?
Virus Corona là loại virus là chủng virus mới chưa từng xuất hiện ở người, có tên
gọi từ nguồn gốc tiếng Latin. Vi rút Corona là chủng virus được bao bọc bằng những
chiếc gai bên ngoài, tương tác với thụ thể trên tế bào, theo cơ chế tương tự chìa khóa và
ổ khóa, từ đó cho phép virus xâm nhập vào bên trong.
Bùng phát vào cuối tháng 12/2019, bắt nguồn từ một chợ hải sản ở Hồ Nam, Vũ
Hán, miền Trung Trung Quốc, virus Corona ban đầu được xác nhận là một loại bệnh
“viêm phổi lạ” hoặc “viêm phổi không rõ nguyên nhân”. Chỉ sau 100 ngày xuất hiện,
đại dịch viêm đường hô hấp cấp do virus Corona đã nhanh chóng tác động tới các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, thị trường tài chính chao đảo, nền kinh tế tồn cầu rơi vào suy thoái
với tỷ lệ thất nghiệp và nghèo đói chưa từng có trong lịch sử.
II. COVID-19 là gì?
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết tên gọi chính thức của bệnh viêm đường hô
hấp cấp do chủng mới của vi-rút corona (nCoV) là Covid 19. Tên gọi mới này gọi tắt
của coronavirus disease 2019, theo các từ khóa “corona”, “virus”, “disease” (dịch bệnh)
và 2019 là năm mà loại virus gây đại dịch này xuất hiện.
Tháng 2/2020, Ủy ban quốc tế về phân loại Virus – International Committee on
Taxonomy of Viruses (ICTV) chính thức đặt tên cho chủng mới của vi-rút corona là
Sars-CoV-2. Đây là tên gọi khác với tên Covid 19 mà WHO đã chỉ định trước đó.
Thời gian ủ bệnh của 2019-nCoV là 14 ngày tức là từ lúc nhiễm virus Corona tới
lúc phát bệnh là 14 ngày mới có biểu hiện lâm sàng. Điều này khiến cho các biện pháp
kiểm soát hiện nay rất khó phát hiện.
Số liệu thống kê: Số ca mới mắc bệnh của Việt Nam
Từ ngày 22/03/2020 đến ngày 13/07/2021
Tác động của COVID-19 đến nền kinh tế Việt Nam:
Kinh tế Việt Nam cũng không tránh khỏi những tác động xấu, các ngành nghề, lĩnh
vực kinh doanh bị suy giảm mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe DN, và đời sống
người dân.
Đại dịch COVID-19, đã gây ra những ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả các
quốc gia trên thế giới và hiện nay vẫn còn diễn biến phức tạp. Nền kinh tế Việt Nam có
độ mở lớn, hội nhập quốc tế sâu rộng đã và đang chịu nhiều tác động, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến các lĩnh vực kinh tế- xã hội.
Phát triển doanh nghiệp chịu tác động lớn bởi dịch bệnh, hầu hết các doanh nghiệp
đều thận trọng trong việc đều tư thêm vốn vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Sự bùng phát của dịch bệnh làm cho thị trường hàng hoá, tiêu thụ thu hẹp, do sản
xuất của doanh nghiệp, thu nhập người dân giảm mạnh. Đây là tác động rõ nét và cơ
bản nhất đối với kinh tế. Hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu chịu tác động lớn
nhất. Khó khăn này càng gia tăng, khi tổng giá trị xuất khẩu của nước ta chiếm thường
xuyên tới 60% -70% GDP. Diễn biến tác động tiêu cực đến hoạt động ngân hàng. Tín
dụng tăng trưởng chậm, một mặt do các ngân hàng thương mại thận trọng cho vay vì
thị trường biến động mạnh, mặt khác chính doanh nghiệp hạn chế mở rộng sản xuất
kinh doanh do khó khăn về thị trường, tiêu thụ và ký kết hợp đồng. Chất lượng tín dụng
cũng bị ảnh hưởng bởi quá trình luân chuyển vốn chậm của nền kinh tế, của doanh
nghiệp, dẫn đến khả năng thanh toán bị hạn chế. Nhiều doanh nghiệp ứ đọng hàng hoá,
ảnh hưởng trực tiếp đến các khoản tín dụng có liên quan. Tín dụng bất động sản luân
chuyển chậm, đặc biệt là các khoản nợ cho vay kinh doanh bất động sản.
Dịch Covid-19 bùng phát trên toàn cầu tác động gián tiếp đến thị trường tài chính
và hoạt động ngân hàng, trên các phương diện sau:
• Dịng vốn đầu tư gián tiếp biến động mạnh. Thời gian qua, thị trường chứng
khoán trong nước phải liên tục điều chỉnh, giảm điểm do việc bán ròng của các
nhà đầu tư nước ngoài. Các tổ chức tài chính - chi nhánh hoặc cơng ty con đang
hoạt động ở Việt Nam rút vốn về nước. Dịch bệnh cũng tạo tâm lý bảo toàn
vốn, tâm lý nắm giữ tiền mặt hơn là cổ phiếu của các Nhà đầu tư. Những hoạt
động này tạo hiệu ứng tâm lý tiêu cực khiến thị trường chứng khốn trong nước
gặp nhiều khó khăn.
• Các hoạt động đầu tư, liên kết góp vốn mua cổ phần của các nhà đầu tư chiến
lược vào hệ thống ngân hàng trong nước giảm, ảnh hưởng đến chiến lược tăng
trưởng vốn điều lệ của một số ngân hàng thương mại cổ phần, qua đó ảnh hưởng
đến q trình đổi mới công nghệ, phát triển dịch vụ, quản trị, quản lý ngân hàng
hiện đại của các nhà đầu tư chiến lược nước ngồi. Tác động này mang tính tạm
thời, ngắn hạn.
• Những biến động của lãi suất, giá vàng, đồng Dolla Mỹ... trên các thị trường
tiền tệ thế giới nhanh, liên tục và khó dự báo. Điều này tạo môi trường cho các
hoạt động đầu cơ, gây tác động tiêu cực nhất định đến thị trường tiền tệ, thị
trường ngoại hối.
CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I. Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 trong năm 2020:
Cùng với sự đi lên của thị trường chung, hàng loại nhóm ngành cổ phiếu có một
năm tăng trưởng rất tích cực.
Bên cạnh đó, vẫn cịn những nhóm cổ phiếu có mức giảm mạnh do những ảnh
hưởng trực diện từ dịch COVID-19.
Hàng loạt nhóm ngành tăng mạnh
Dịch COVID-19 bắt đầu ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán Việt Nam từ cuối
tháng 1/2020, dẫn đến một đợt sụt giảm nhanh và mạnh.
Chỉ hai tháng sau đó, VN- Index đã sụt giảm 33,51% xuống mức thấp nhất trong
vịng 3 năm. Ít ai có thể ngờ sau cú sập mạnh của thị trường thì sự hồi phục lại “dẻo
dai” và mạnh mẽ đến vậy. Kết phiên giao dịch cuối cùng của năm (phiên 31/12), VNIndex đứng ở mức 1.103,87 điểm, tăng gần 15% so với đầu năm 2020; HNX- Index
đứng ở mức 203,12 điểm, tăng hơn 98% so với hồi đầu năm. UPCOM-Index cũng chốt
ở mức 74,45 điểm, tăng hơn 31.6%. Cùng với sự đi lên của thị trường thị hàng loạt
nhóm cổ phiếu cũng có một năm thăng hoa, có thể kể đến cổ phiếu ngành chứng khốn,
khu cơng nghiệp, thép, ngân hàng,...Tại nhóm ngành chứng khốn, nhiều cổ phiếu trong
nhóm này tăng trưởng gấp 2, thậm chí gấp hơn 3 lần trong năm 2020. Cụ thể, mã VND
của Công ty cổ phần Chứng khốn VNDIRECT chốt phiên 31/12, có giá 30.000 đồng/cổ
phiếu, tăng 108,3%, CHC của Cơng ty cổ phần Chứng khốn Sài Gịn Hà Nội tăng
224,6%, mã VCI của Cơng ty cổ phần Chứng khoán Bản Việt tăng 97,2%, SSI của Cơng
ty cổ phần Chứng khốn SSI tăng 103,2%...
Với mức độ phục hồi mạnh mẽ của thị trường chứng khoán và lãi suất duy trì thấp
kỷ lục, dịng tiền đã chảy mạnh vào kênh đầu tư chứng khoán. Thị trường ghi nhận quy
mô tham gia của nhà đầu tư mới cao chưa từng thấy trong lịch sử. Theo số liệu từ Trung
tâm Lưu ký Chứng khốn Việt Nam, tính đến hết tháng 11/2020, tổng số tài khoản mở
mới trong năm đạt 332.886 tài khoản; trong đó, nhà đầu tư cá nhân trong nước mở mới
329.452 tài khoản. Sự tham gia mạnh mẽ của các nhà đầu tư mới cũng đẩy thanh khoản
thị trường tăng lên ngưỡng kỷ lục với phiên giao dịch đạt gần 23.562 tỷ đồng trên hai
sàn vào ngày 15/06/2020. Giá trị khớp lệnh nhiều phiên trong tháng 12/2020 đạt trên
15.000 tỷ đồng. Thị trường chứng khốn sơi động giúp nhiều cơng ty chứng khốn thu
được nhiều lợi nhuận. Đơn cử, lũy kế 9 tháng tổng doanh thu của Cơng ty cổ phần
Chứng khốn SSI (SSI) đạt 3.320,3 tỷ đồng, tăng 44,9% so với cùng kỳ năm 2019. Đây
cũng là mức doanh thu 9 tháng cao nhất trong lịch sử hoạt động của SSI.
Một nhóm ngành có mức tăng trưởng mạnh trong năm 2020 nữa cần kể tới là cổ
phiếu ngành bất động sản khu công nghiệp. Các mã tăng mạnh trong nhóm này như cổ
phiếu SZC của Cơng ty cổ phần Sonadezi Châu Đức tăng gần 81% trong năm 2020,
BCM của Tổng Công ty Đầu tư và phát triển Công nghiệp tăng gần 37%, NTC của
Công ty cổ phần Khu Công nghiệp Nam Tân Uyên tăng gần 73%, SIP của Cơng ty cổ
phần Đầu tư Sài Gịn VRG tăng 83%...Theo Cơng ty TNHH Chứng khốn Mirae Asset
Việt Nam, cơ hội lớn cho các doanh nghiệp bất động sản khu công nghiệp đã sẵn sàng.
Việt Nam đang được đánh giá là một trong những nền kinh tế mở nhất trên thế giới.
Mirae Asset cho rằng Việt Nam được biết đến nhiều hơn nhờ việc đã ngăn chặn đại dịch
COVID-19 một cách quyết đốn và nhanh chóng, nhờ đó thốt khỏi tình trạng suy thối
kinh tế. Việt Nam trở thành quốc gia duy nhất trong ASEAN và thuộc số ít quốc gia
trên thế giới đạt mức tăng trưởng dương.
Năm 2020, cổ phiếu ngành ngân hàng cũng gây chú ý với nhiều mã tăng mạnh như
cổ phiếu VIB của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam tăng 87,2%, SHB của Ngân
hàng TMCP cổ phần Sài Gòn-Hà Nội tăng hơn 161,5%, LPB của Ngân hàng TMCP
Bưu điện Liên Việt tăng 61% và cổ phiếu ACB Ngân hàng TMCP Á Châu tăng
23%,...Theo đó, năm 2020, hàng loạt ngân hàng chuyển sang sàn HOSE đã tạo hiệu ứng
tăng tích cực cho nhóm ngân hàng. Bên cạnh đó, dù nền kinh tế chịu ảnh hưởng tiêu
cực từ dịch COVID-19, nhưng kết quả kinh doanh của nhóm ngành ngân hàng vẫn rất
khả quan.
Cổ phiếu hàng không, du lịch giảm mạnh
Chịu ảnh hưởng trực diện từ dịch COVID-19, nhóm cổ phiếu hàng khơng và du lịch
có mức giảm mạnh trong năm 2020. Năm 2020, cổ phiếu HVN của Tổng công ty Hàng
không Việt Nam giảm hơn 16,5%, VJC của Công ty cổ phần Hàng không VietJet giảm
hơn 15%, NCS của Công ty cổ phần Dịch vụ Hàng không Sân bay Tân Sơn Nhất giảm
hơn 12%...Chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch COVID-19, các hãng hàng khoogn ghi nhân
mức lỗ nặng. Bên cạnh đó, hàng loạt mã cổ phiếu ngành du lịch cũng giảm khá mạnh.
Cụ thể, mã TCT của Công ty cổ phần Cáp treo Núi Bà Tây Ninh giảm hơn 30%, HOT
của Công ty cổ phần Du lịch Dịch vụ Hội An giảm hơn 31%, VTR của Công ty cổ phần
Du lịch và Tiếp thị Giao thông Vận tải Việt Nam-Vietravel giảm 28%...
II. Diễn biến của TTCK từ đầu năm 2021 đến nay:
“Bùng nổ và liên tục phá ngưỡng lịch sử” là trạng thái của nhiều thị trường chứng
khốn tồn cầu và Việt Nam bất chấp những diễn biến phức tạp, khó lường của đại dịch
COVID-19; bất chấp những cảnh báo rủi ro và chính sách kiểm sốt của cơ quan quản
lý. Hiện tượng “bất ngờ và bất thường” này đã dấy lên quan ngại nguy cơ tăng nóng,
bong bóng tài sản tài chính.
Đồng nhịp với đà tăng của TTCK thế giới, TTCK Việt Nam tăng vượt mọi dự báo
với những kỷ lục về điểm số, số tài khoản mở mới trong nửa năm đầu 2021. Tính đến
hết ngày 8/7/2021, chỉ số chứng khốn sàn TP.HCM (VN-Index) tăng 24% và sàn Hà
Nội (VH-Index) tăng gần 56% so với đầu năm 2021. Theo đó, VN-Index trở thành chỉ
số chứng khoán tăng mạnh thứ 2 thế giới trong nửa năm đầu, chỉ đứng sau Abu Dhabi
Index. So với cùng kỳ năm 2020, VN-Index là một trong những chỉ số chứng khoán
tăng mạnh nhất thế giớ với mức tăng 62%. Vốn hóa thị trường cổ phiếu tính đến hết
tháng 5/2021 đạt 102,7% GDP (nếu tính cả thị trường trái phiếu lên tới 126,2% GDP)
tăng 17,4% so với năm đầu. Thanh khoản thị trường liên tục lập đỉnh, trong 6 tháng đầu
năm, giá trị giao dịch bình quân/ngày lên tới 22.430 tỷ đồng gấp 3 lần bình quân năm
2020 (riêng tháng 6/2021, đạt 29.350 tỷ đồng/phiên, gấp gần 4 lần bình quân năm 2020);
giá trị khớp lệnh đạt 2,6 triệu tỷ đồng, tăng 152% so với cùng kỳ năm 2020.
Dù có sự ảnh hưởng khơng ít của dịch COVID-19 nhưng thị trường chứng khốn
khơng ngừng tăng mạnh. Ngun nhân chính cho sự tăng ngoạn mục này là:
Một là, mức định giá hấp dẫn phản ánh triển vọng phục hồi, phát triển kinh tế; lợi
nhuận doanh nghiệp và thanh khoản thị trường: kinh tế Việt Nam cả năm 2021 dự báo
tăng trưởng 6,1-6,3%, cao hơn mức bình quân của thế giới và các nước đang phát triển
toàn cầu (lần lượt dự báo tăng 5,6% và 6%, theo World Bank - tháng 6/2021), lạm phát
được kiểm soát dưới 4% (khoảng 3,4-3,6%), các cân đối lớn của nền kinh tế được kiểm
soát (theo Báo cáo KTVM 6 tháng đầu năm của Viện ĐT&NC BIDV) và dự báo lợi
nhuận doanh nghiệp tăng khá (ở mức khoảng 20-22% so với năm 2020 theo FiinGroup
và tổng hợp đánh giá của các cơng ty chứng khốn). Tính đến hết ngày 8/7/2021, chỉ số
giá/thu nhập cổ phiếu (P/E) của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán
TP.HCM ở mức 19 lần, bằng 50% so với thời điểm bùng nổ năm 2006-2007 (khi đó
VN-Index đạt 1.071 điểm và hệ số P/E ở mức 37,2 lần) trong khi số lượng tài khoản
gấp 16 lần, vốn hóa gấp 18 lần và thanh khoản gấp 30 lần. Hai là, dòng tiền chứng khốn
khơng q phụ thuộc vào kênh tín dụng khi cho vay chứng khoán và cho vay giao dịch
ký quỹ (margin) vẫn trong tầm kiểm soát. Cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khốn của
các tổ chức tín dụng hiện không quá cao (chỉ chiếm khoảng 0,5% tổng dư nợ toàn nền
kinh tế), thấp hơn mức 1,5-2% của giai đoạn 2007-2009. Hơn nữa, dư nợ chứng khoán
chỉ tăng 3% trong 6 tháng đầu năm 2021, thấp hơn mức tăng trưởng tín dụng tồn nền
kinh tế (khoảng 6,4%). Ngồi ra, xu hướng thanh khoản tăng mạnh được "hậu thuẫn"
bởi kỷ lục về số lượng tài khoản đầu tư cá nhân trong nước mới (F0), lên tới gần 620.000
tài khoản trong 6 tháng đầu năm, gấp 1,6 lần cả năm 2020 (riêng tháng 6 lên tới 140.000
tài khoản), theo VSD.
Ba là, động thái bán ròng của khối ngoại ảnh hưởng không lớn và khả năng sớm
tăng trở lại: trong 6 tháng đầu năm, khối ngoại đã bán rịng 32,2 nghìn tỷ đồng (1,4 tỷ
USD) trên TTCK Việt Nam, gấp 2 lần cả năm 2020. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng đến
thanh khoản và tâm lý thị trường không lớn như trước đây bởi giá trị bán ròng lớn về
số tuyệt đối song tỷ trọng lại đang giảm.
Bốn là, vai trò kênh dẫn vốn của TTCK ngày càng tăng, củng cố niềm tin thị
trường. Chỉ số cảm nhận rủi ro của các nhà đầu tư tại Việt Nam (thể hiện qua chỉ số
hốn đổi rủi ro tín dụng – CDS trong 5 năm đang ở mức thấp và khá ổn định (khoảng
105-110 điểm), chỉ bằng 1/5 so với mức đỉnh năm 2008-2009. Niềm tin đầu tư là có cơ
sở khi quy mơ vốn hóa thị trường cổ phiếu có sự tăng trưởng vượt bậc sau hơn 20 năm
phát triển (từ mức 0,28%GDP năm 2000 lên tới 102,7% GDP cuối tháng 5/2021, tăng
6.530 lần); tổng vốn huy động trên TTCK chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 17,3% tổng
vốn đầu tư tồn xã hội trong giai đoạn 2016-6T/2021, tăng mạnh và ổn định hơn so với
tỷ trọng 11-12% giai đoạn 2005-2015.
Năm là, bong bóng chứng khốn sẽ khó xảy ra nếu cung - cầu đồng pha: theo
khuyến cáo của IMF, để đánh giá khả năng bong bóng hay khơng cần khẳng định rõ hai
yếu tố, đó là giá tăng một cách phi lý (khơng có cơ sở) và quan hệ cung - cầu thị trường
lệch pha. Với Việt Nam, cả hai yếu tố này dường như chưa rõ ràng bởi:
Giá chứng khoán tăng là có cơ sở từ yếu tố cốt lõi là kỳ vọng tăng trưởng kinh tế,
lợi nhuận doanh nghiệp và thanh khoản thị trường tốt
Sức cung của thị trường vẫn đang tăng cùng nhịp với lực cầu. Nếu thanh khoản tăng
gấp 3 lần năm 2020 thì tổng giá trị phát hành tăng vốn của các CTCK dự kiến năm 2021
cũng ở mức kỷ lục 102 nghìn tỷ đồng, gấp 5,2 lần năm 2020; cùng với đó là nguồn cung
khoảng 40 nghìn tỷ đồng từ cổ phần hóa, thối vốn doanh nghiệp nước ngoài. Nếu lượng
cung lớn này xảy ra đồng nghĩa lực cầu đủ mạnh để hấp thụ lượng hàng lớn thì nguy cơ
bong bóng sẽ khó xảy ra.
Đợt bùng phát dịch COVID-19 lần thứ 4 (27/04/2021- 6h 27/06/2021) trong cộng
đồng đang diễn ra phức tạp và lan rộng ở hàng chục tỉnh thành. Tuy vậy diễn biến của
chỉ số chứng khốn VN-Index tuần qua dường như ít bị tác động. Trên thực tế diễn biến
của VN-Index trong tuần giao dịch vừa qua (04-07/05) cũng chưa thể xác định được
một cách rõ ràng rằng các thông tin về dịch COVID-19 đã tác động tiêu cực khiến thị
trường giảm điểm. Dịch bùng phát trong cộng đồng trước dịp nghỉ lễ 30/04 và 01/05.
Sau dịp nghỉ lễ thị trường giao dịch trở lại, nhưng VN-Index có tới 2 phiên tăng liên
tiếp (4-5/5) và có thêm 17,04 điểm.
Trong đó, phiên giao dịch ngày 5.5 chỉ số tăng mạnh tới 14,23 điểm (1,15%), với
thanh khoản đạt trên 21.200 tỉ đồng. 2 phiên về cuối tuần (6-7/5) cho dù VN-Index giảm
trở lại tổng cộng 14,62 điểm, tuy nhiên kết tuần chỉ số vẫn “lãi” 2,42 điểm. Số điểm
dương này của VN-Index trong bối cảnh dịch COVID-19 bùng phát trong cộng đồng
ngày càng phức tạp, cho thấy thị trường vẫn khỏe và không bị chao đảo trước các thông
tin về đợt dịch mới.
Về phân tích kĩ thuật, với phiên giao dịch cuối tuần qua ngày 7/5, VN-Index giảm
điểm mạnh vào phiên sáng nhưng về cuối phiên với lực canh mua giá thấp mạnh mẽ đã
kéo chỉ số thu hẹp đà giảm, kết phiên chỉ còn giảm 8,76 điểm (0,7%). Tạm lùi về mức
1.241,81 điểm song VN-Index vẫn còn ở trên vùng hỗ trợ quanh đường trung bình 10
phiên (MA10) là 1.235-1.240 điểm, và vẫn đang nằm trong vùng hỗ trợ quanh đường
trung bình 20 phiên (MA20) là 1.240-1.245 điểm. Trong 4 phiên của tuần giao dịch đầu
tiên sau lễ dù phải đối mặt trực tiếp với các thông tin dịch COVID-19 đang diễn biến
phức tạp, nhưng thị trường khơng xảy ra tình trạng bán tháo.
Sự rung lắc xảy ra trong các phiên là khó tránh khỏi. Thậm chí, thị trường đã rung
lắc rất mạnh khiến VN-Index mất đến hơn 20 điểm trong các phiên sáng ngày 4/5 và
ngày 7/5, nhưng về cuối phiên chỉ số đảo chiều tăng điểm trở lại vào phiên ngày 4/5, và
thu hẹp đà giảm đến 70% vào phiên ngày 7/5. Đặc biệt, trong bối cảnh như đề cập ở
trên, dòng tiền vẫn mạnh mẽ; 4 phiên của tuần giao dịch đầu tiên sau lễ, thanh khoản
tăng đến 23% (bình quân hơn 21.356 tỉ đồng/phiên so với mức bình quân hơn 15.960 tỉ
đồng/phiên của tuần giao dịch trước lễ), cho thấy nhà đầu tư đã nhanh chóng quay trở
lại thị trường chứ không bán xả hàng và tạm rút khỏi thị trường theo hiệu ứng “sell in
May and go away”.
CHƯƠNG 4: CÁC DỰ BÁO CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM, ĐỀ XUẤT MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VÀ
GIẢI PHÁP TRONG TÌNH HÌNH DỊCH COVID-19.
I. Dự báo về TTCK:
Theo dự báo, VN-Index đang tăng trưởng tích cực hướng về vùng đỉnh 1.200 điểm
năm 2018. Động lực tăng điểm năm 2021 dựa vào mức P/E thấp hơn khu vực trong khi
tăng trưởng lợi nhuận rịng tồn thị trường tăng trưởng tốt. VN-Index dự báo có vùng
giá trọng tâm tại 1,261 điểm. Đà tăng điểm sẽ phụ thuộc vào độ bền dòng tiền nhà đầu
tư trong nước và kỳ vọng dòng tiền ngoại quay lại khu vực mới nổi và cận biên.
Triển vọng thị trường năm 2021 sẽ tiếp tục là năm tăng trưởng của thị trường chứng
khoán cả về thanh khoản và điểm số. Tuy nhiên, tốc độ có phần kém hơn với năm 2020
do triển vọng về kinh tế đã được phản ánh vào P/E (Hệ số giá trên lợi nhuận một cổ
phiếu).
Hai kịch bản cho thị trường chứng khốn năm 2021. Theo đó, kịch bản thứ nhất
dựa trên lộ trình vaccine, EPS (lợi nhuận trên 1 cổ phiếu) toàn thị trường tăng trưởng
tốt, khoảng lớn hơn 18%, chỉ số VN - Index có thể đạt tới 1.250 điểm. Kịch bản thứ hai,
với những rủi ro mới tác động, EPS tăng từ 15 - 16%, VN-Index có thể điều chỉnh xuống
950 điểm và dao động trong vùng 950 - 1.000 điểm.
Bất chấp dịch Covid-19 bùng phát, chỉ số VN-Index liên tiếp thiết lập các mốc đỉnh
mới, trở thành một trong những chỉ số chứng khoán tăng mạnh nhất ở khu vực châu Á.
Dù áp lực chốt lời luôn hiện hữu ở vùng đỉnh, song theo nhận định của các chun gia,
thị trường chứng khốn Việt Nam vẫn cịn nhiều dư địa tăng trưởng trong 6 tháng cuối
năm.
Dư địa tăng giá của thị trường vẫn còn tương đối dồi dào trong 6 tháng cuối năm.
Động lực thị trường tiếp tục đến từ sự khởi sắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
nhóm doanh nghiệp niêm yết, đặc biệt nhóm vốn hố lớn thuộc các ngành ngân hàng,
thép, chứng khốn, tiện ích, cơng nghệ thơng tin… trong bối cảnh điều kiện thị trường
được đánh giá sẽ tiếp tục duy trì trạng thái thuận lợi. Trong bối cảnh mơi trường lãi suất
dự báo vẫn được duy trì thấp trong năm 2021, hệ thống giao dịch nâng cấp của HOSE
được vận hành từ 5/7, cộng thêm nút thắt về tình trạng dư nợ cho vay ký quỹ cao sẽ
được giải quyết nhờ việc các cơng ty chứng khốn đang đẩy nhanh quá trình tăng vốn
chủ sở hữu… sẽ là những yếu tố hỗ trợ chính cho thị trường tiếp tục tăng trưởng trong
những tháng cuối năm.
Theo các chuyên gia, bất cứ nhịp điều chỉnh đáng kể nào của thị trường trong kịch
bản các yếu tố rủi ro không làm thay đổi điều kiện cơ bản của thị trường trong dài hạn
đều là cơ hội để nhà đầu tư gia tăng tỷ trọng, tích luỹ cổ phiếu. Mặc dù dịch bệnh cịn
phức tạp, kéo dài nhưng với tốc độ triển khai tiêm chủng quyết tâm của Việt Nam đang
tăng lên nhanh chóng sẽ giúp đẩy nhanh quá trình mở cửa trở lại của nền kinh tế thế
giới trong nửa cuối năm 2021. Được đánh giá là nền kinh tế có độ mở lớn, Việt Nam có
nhiều thuận lợi để tận dụng cơ hội khi sức mua tồn cầu phục hồi. Khơng chỉ vậy, triển
vọng tăng trưởng lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết và động lực "sợ bỏ lỡ" cùng
với dòng tiền mạnh mẽ của nhà đầu tư cá nhân sẽ hỗ trợ xu hướng tăng của thị trường
chứng khoán về cuối năm.
II. Một số giải pháp khắc phục:
Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các bộ, ngành địa phương tập
trung thực hiện tốt các nhiệm vụ giải pháp sau:
Một là, cần có tư duy đột phá và hành động quyết liệt trong việc sớm hoàn thiện
thể chế, cơ chế chính sách cho việc phát triển đồng bộ thị trường tài chính-tiền tệ nói
chung và thị trường chứng khốn nói riêng. Trong đó, ngay trong năm nay, phải ban
hành đồng bộ hệ thống nghị định và các văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán, Luật
doanh nghiệp và Luật Đầu tư; nghiên cứu sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan khác
trong thời gian tới…, qua đó tạo dựng được môi trường kinh doanh thuận lợi và cơ hội
công bằng, bình đẳng cho doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Hai là, Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khốn Nhà nước, các bộ, ngành liên quan cần
phối hợp chặt chẽ để bảo đảm sự phát triển nhịp nhàng, đồng bộ các thị trường, trong
đó có thị trường chứng khốn, thị trường tiền tệ và thị trường bảo hiểm; hướng tới cơ
cấu các thị trường hoàn chỉnh để phát huy sức mạnh tổng hợp trong huy động các nguồn
lực, thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mơ, kiểm soát lạm phát, bảo
đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Ba là, thực hiện hiệu quả các giải pháp phát triển nhanh quy mô chất lượng của thị
trường, trong đó đẩy nhanh cổ phẩn hố doanh nghiệp nước ngoài gắn với niêm yết,
giao dịch trên thị trường chứng khoán, thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân niêm yết trên
thị trường, tăng cường công khai, minh bạch, bảo vệ nhà đầu tư áp dụng các chuẩn mực
quốc tế về thị trường, dịch vụ tài chính, kế tốn kiểm tốn và các thông lệ tốt nhất về
quản trị doanh nghiệp.
Bốn là, sớm hoàn thiện cơ cấu tổ chức thị trường chứng khoán bảo đảm hạ tầng kỹ
thuật cho phát triển thị trường ổn định, an toàn, bền vững, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ
thuật, tổ chức hệ thống giao dịch phù hợp, hiệu quả đối với cổ phiếu, trái phiếu và các
sản phẩm khác, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp và các nhà đầu
tư.
Năm là, tăng cường năng lực và tập trung nâng cao hiệu quả công tác quản lý, kiểm
tra, giám sát và thực thi pháp luật, bảo đảm công khai, minh bạch, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường. Củng cố, hoàn thiện cơ chế phối hợp
giữa Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khốn Nhà nước với các bộ, ngành, cơ quan chức
năng; nâng cao năng lực phân tích, dự báo, kịp thời có đối sách, giải pháp phù hợp với
những biến động bất thường trên thị trường quốc tế, trong nước; bảo đảm an ninh, an
toàn cho doanh nghiệp, nhà đầu tư, thị trường chứng khốn nói riêng và thị trường tài
chính, tiền tệ nói chung.
Sáu là, tập trung đổi mới một cách căn bản hệ thống công nghệ thông tin và ứng
dụng các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phục vụ hiệu quả hệ thống
giao dịch, thanh toán, giám sát và nâng cao hiệu quả hoạt động của các dịch vụ tài chính,
chứng khốn; sớm nghiên cứu, triển khai thực hiện số hóa tài sản giao dịch trên thị
trường chứng khoán.
Bảy là, chủ động hội nhập với thị trường tài chính, tiền tệ, chứng khốn khu vực
quốc tế; bảo đảm tiệm cận với các thông lệ và chuẩn mực tốt nhất. Phấn đấu sớm nâng
hạng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi; đưa thị trường chứng khốn Việt
Nam trở thành điểm đến an tồn, tin cậy, hiệu quả của các tổ chức tài chính quốc tế, các
nhà đầu tư lớn trong khu vực, toàn cầu; góp phần từng bước phát triển các trung tâm tài
chính tầm cỡ khu vực, quốc tế ở nước ta.
Trong bối cảnh, xu hướng mới, yêu cầu mới cơ hội, thách thức mới, nhà đầu tư cần
lưu ý các vấn đề gồm: lợi nhuận luôn đi kèm với rủi ro, phải xác định rõ mục đích đầu
tư; đa dạng hóa sản phẩm đầu tư; khơng dùng địn bẩy q nhiều; tránh tâm lý bầy đàn,
theo phong trào; hãy là nhà đầu tư thơng thái ...
Về phía cơ quan quản lý, tiếp bước những thành quả đã đạt được trong năm 2020,
năm 2021 Ủy ban Chứng khoán Nhà nước sẽ tiếp tục triển khai hiệu quả các mục tiêu
trọng tâm: tập trung nỗ lực đưa các quy định, chính sách mới của Luật Chứng khoán và
các văn bản hướng dẫn vào thực tiễn, để hỗ trợ cho doanh nghiệp, bảo vệ quyền và lợi
ịch hợp pháp của nhà đầu tư tạo động lực thúc đẩy TTCK Việt Nam phát triển bền vững;
tổng kết, xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chiến lược phát triển thị trường
chứng khoán giai đoạn 2021-2030 để định hình mục tiêu, giải pháp về lộ trình phát triển
TTCK – thị trường vốn về dài hạn; hồn thành dự án hiện đại hóa cơng nghệ thơng tin
phục vụ cho hoạt động giao dịch, thanh tốn nhằm triển khai các sản phẩm tài chính
mới; nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát thị trường chứng khoán và xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm; đẩy nhanh việc cơ cấu lại thị trường chứng khốn, hồn thiện bộ
máy Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam.
Ngày 28/5/2021, Ủy ban Chứng khốn Nhà nước cũng đã có văn bản gửi các cơng
ty chứng khốn để rà rốt, củng cố hoạt động trong bối cảnh dịch COVID-19. Theo đó,
cơ quan quản lý u cầu các cơng ty chứng khốn tn thủ các quy định về phịng,
chống dịch, tăng cường cơng nghệ thông tin, làm trực tuyến, chủ động phương án kinh
doanh để đảm bảo cung cấp dịch vụ thông suốt trong mọi tình huống. Đặc biệt, tại văn
bản này, Ủy ban Chứng khốn Nhà nước đã u cầu các cơng ty chứng khốn tuyệt đối
“thượng tơn pháp luật”, tn thủ đầy đủ các quy định của pháp luật chứng khoán và các
quy định pháp luật liên quan.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg
về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo
đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19. Trong đó có hai gói hỗ trợ về tín dụng
và giảm thuế trị giá khoảng 280 nghìn tỷ đồng. Cơ quan chức năng phải tiếp tục hỗ trợ
thị trường chứng khoán, củng cố niềm tin cho các bên tham gia thị trường. Theo đó, cần
có hướng dẫn, quy định để cụ thể hố gói hỗ trợ kép của Chính phủ bao gồm cả tài khóa
và tín dụng trị giá 280 nghìn tỷ đồng, theo cơ chế tác động san sẻ rủi ro giữa các thành
phần kinh tế. Ðiều đó sẽ tạo cơ sở cho các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung
gian và nhà đầu tư tin vào nội lực của nền kinh tế, vào các giải pháp của Chính phủ
cũng như sức bền của thị trường.
III. Các khuyến nghị về TTCK:
Trong giai đoạn điều chỉnh của thị trường, đa phần các nhóm mã sẽ có áp lực bán
giảm điểm phần nhiều về tâm lý và cũng phần nhiều quá trình lên sàn của thị trường
cần các phiên điều chỉnh để cân bằng hơn. Hiện tại dòng tiền vào thị trường cũng vơ
cùng lớn cho nên xét về qn tính và chu kỳ thì rất nhiều diễn biến bất ngờ có thể xảy
ra.
Sau q trình điều chỉnh mà thị trường hồn tồn có thể bứt phá tăng điểm cũng
khơng phải là khơng thể. Tuy nhiên như các khuyến nghị nhà đầu tư tham gia thị trường
khơng nên chủ quan, và ln phịng bị khi xu hướng có hiện tượng đảo chiều đi vào
chuỗi giai đoạn giảm điểm. Với giai đoạn giảm điểm thì xuất hiện rất nhiều các mã cổ
phiếu có nội tại tốt xuất hiện điểm mua để đầu tư, và giai đoạn tới vẫn là giai đoạn chọn
mặt gửi vàng. Các cổ phiếu có sức bật và kinh doanh tốt vẫn cho các báo cáo đột biến
trong kỳ kinh doanh quý II năm nay.
Vấn đề nâng hạng thị trường từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi vẫn gặp
nhiều trở ngại về pháp lý và chính sách, cần nhiều thời gian để tháo gỡ. Rủi ro lan truyền
từ các khu vực thị trường liên thông (bất động sản; ngoại hối; tiền kỹ thuật số...) gây
nên những cơn sốt ảo về bất động sản cũng như về chứng khoán và hệ thống cơng nghệ
thơng tin cho tồn TTCK cịn có những trở ngại nhất định cho sự tăng trưởng của thị
trường
Để có thể vừa chủ động nắm bắt cơ hội, tiềm năng tăng trưởng của TTCK vừa
phòng ngừa rủi ro, hướng tới phát triển bền vững, cần phát triển TTCK theo chiều sâu,
tăng năng lực chống chịu với các cú sốc bên ngoài; chú trọng nâng cao năng lực quản
lý, giám sát, an tồn và ổn định hệ thống tài chính và TTCK; hiện đại hóa các cơng cụ,
hình thức thanh tra, giám sát; thực thi chế tài nghiêm minh đối với các vi phạm trên
TTCK. Chú trọng phổ cập kiến thức tài chính, nâng cao tính chuyên nghiệp nhà đầu tư
trên TTCK (đặc biệt đầu tư cá nhân); tăng cường vai trò của đại lý đầu tư, tư vấn chuyên
nghiệp, các quỹ mở, ETFs cổ phiếu và trái phiếu được vận hành bởi các quỹ đầu tư uy
tín để đảm bảo an tồn, giảm thiểu rủi ro trong q trình đầu tư ban đầu, đầu tư của nhà
đầu tư cá nhân…Trong bối cảnh kinh tế số, tài chính số phát triển ngày càng mạnh mẽ,
Việt Nam cần có những bước tiến mạnh mẽ hơn về thể chế, công nghệ, nguồn nhân lực,
mức độ chuyên nghiệp, minh bạch, khả năng chống chịu, ứng phó với các cú sốc bên
ngồi. Có như vậy, TTCK Việt Nam mới có thể phát triển nhanh, bền vững hơn về cả
qui mô, thanh khoản, chất lượng và trở thành kênh huy động vốn, đầu tư quan trọng của
nền kinh tế, bắt nhịp xu hướng tài chính số, tài chính xanh và chứng khốn xanh của
khu vực và thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Giáo trình Thị trường chứng khốn (chương trình chất lượng cao), Bộ Tài
Chính, Trường Đại học Tài chính – Marketing, Khoa Tài chính Ngân hàng,
TP. Hồ Chí Minh
2. />3. />4. />5. />6. />7. />8. />9. />
Lời cảm ơn:
Chúng em xin chân thành cảm ơn Cô đã nhiệt tình giảng dạy, truyền tải kiến thức để
chúng em có cơ hội vận dụng và hồn thành bài tiểu luận này. Vì đây là lần đầu tiên
làm tiểu luận nên khơng tránh được nhiều thiếu xót và hạn chế về kiến thức chuyên
môn nên chúng em mong ước được sự góp ý từ q Thầy/Cơ. Sau cùng, cảm ơn q
Thầy/Cơ đã đọc bài tiểu luận này và kính chúc quý Thầy/Cô thật nhiều sức khỏe đặc
biệt là trong mùa dịch này, gặt hái được nhiều thành công và tràn đầy hạnh phúc !