DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNXH
CNH-HĐH
KCN
KCX
KT-XH
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Khu cơng nghiệp
Khu chế xuất
Kinh tế - xã hội
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1.
Các KCN đã đi vào hoạt động ở Bắc Ninh
đến năm 2014
Bảng 2.2.:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Bắc
Bảng 2.3.
Ninh từ năm 2010-2014
Một số chỉ tiêu kinh tế của tỉnh Bắc Ninh từ
Bảng 2.4.
năm 2010 – 2014
Một số chỉ tiêu về hoạt động sản xuất của
Bảng 2.5.:
các KCN tỉnh Bắc Ninh
Số người lao động tại các KCN ở tỉnh Bắc
Bảng 2.5
Ninh
Trình độ của người lao động tại các KCN ở
Bảng 2.6.
Bảng 2.7:
tỉnh Bắc Ninh
Lao động tại các KCN ở tỉnh Bắc Ninh
Độ tuổi lao động trong các doanh nghiệp
trên địa bàn các khu công nghiệp Bắc Ninh
Bảng 2.8 Tỷ lệ lao động nam, lao động nữ
trong các doanh nghiệp khu công nghiệp:
Bảng 2.8: Phân chia thu nhập trung bình
của một cơng nhân ở khu công nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức nhằm đạt mục tiêu đến năm 2020 trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những nội
dung quan trọng của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) ở nước ta
hiện nay là đẩy mạnh CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Phát
triển nhanh công nghiệp và dịch vụ, nhất là dịch vụ chất lượng cao. Do đó,
phát triển các khu cơng nghiệp (KCN) là một loại hình của khu kinh tế đặc
biệt, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: “Quy hoạch phân bố hợp lý công
nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả khu cơng nghiệp, khu chế xuất,
xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm cơng nghiệp lớn và
khu kinh tế mở”. Tính đến tháng 10 năm 2014, đã có 56 quốc gia và vùng
lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, trên địa bàn của 50 tỉnh, thành phố
trong cả nước với số vốn đăng ký đầu tư là 13,7 tỷ USD. Trên cả nước có hiện
289 KCN (không bao gồm khu chế xuất, khu kinh tế) với tổng diện tích đất tự
nhiên 81.000 ha. Các khu công nghiệp đã và đang trở thành nơi tập trung
nguồn lực để phát triển cơng nghiệp, đón nhận tiến bộ khoa học – công nghệ,
thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng
lan tỏa của tam giác phát triển kinh tế trọng điểm phía Bắc, có vị trí quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Cùng với cả nước, kể
từ khi có “Luật đầu tư nước ngoài” việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào
các khu công nghiệp ở Bắc Ninh đã không ngừng phát triển. Trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh hiện có 15 KCN tập trung, trong đó đã có 10 KCN đã đi vào hoạt
động, 5 KCN đang triển khai xây dựng hạ tầng. Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất
cơng nghiệp có thể cho thuê đạt 53,3%, cao hơn tỷ lệ lấp đầy của cả nước
(khoảng 47%), nếu tính tỷ lệ lấp đầy trên diện tích đất thu hồi cho thuê đạt
74,8%. Các KCN đã thu hút được các dự án đầu tư lớn trong và ngồi nước,
có cơng nghệ hiện đại như: Samsung, Canon, Nokia….
Sự phát triển của các khu cơng nghiệp đã và đang thể hiện rõ vai trị,
hiệu quả của một mơ hình tổ chức sản xuất cơng nghiệp mang tính đột phá
trong thu hút đầu tư, tăng trưởng công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
cả nước nói chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng theo hướng cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, góp phần giải quyết việc làm, xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng
cao giá trị xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương. Những thành
tựu ấy đã đóng góp quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội của tỉnh.
Bên cạnh những đóng góp tích cực cho nền kinh tế cả nước nói chung và
Bắc Ninh nói riêng,các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh thời gian qua đã và
đang tạo ra nhiều vấn đề gây ảnh hưởng tiêu cực đến tính bền vững của tăng
trưởng và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Trong đó nổi bật lên là hiệu
quả sử dụng vốn FDI còn thấp, thiếu tính bền vững, các dự án FDI vẫn tập
trung chủ yếu là gia công, lắp ráp nên giá trị gia tăng không cao; Quy mô phát
triển KCN chưa phù hợp với định hướng phát triển chung của tỉnh, điều kiện
để phát triển các khu công nghiệp chưa được chuẩn bị chu đáo, làm giảm hiệu
quả phát triển khu công nghiệp; Về cơ bản vẫn chưa hình thành các cụm liên
kết trong sản xuất công nghiệp (các cluster), chưa thu hút được nhiều doanh
nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp mũi nhọn; Công tác đền bù, giải phóng
mặt bằng cịn nhiều khó khăn, phức tạp; hiệu quả sử dụng đất KCN còn chưa
cao; tình trạng ơ nhiễm mơi trường, tồn tại nhiều bất cập trong việc giải quyết
các vấn đề xã hội như: việc làm và thu nhập, đào tạo tay nghề cho người lao
động nhất là vùng có đất thu hồi để phát triển KCN…
Trước những vấn đề bức xúc nêu trên, cần phải có những nghiên cứu lý
luận và thực tiễn để đánh giá tác động của các khu công nghiệp đối với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh để có những điều chỉnh, bổ sung các
giải pháp thích hợp. Để góp phần vào việc giải quyết vấn đề này, tác giả đã
chọn đề tài: “Tác động của các khu công nghiệp đến phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh
tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kể từ khi Đảng và Nhà nước có chủ trương xây dựng và phát triển các
KCN đến nay, đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ nghiên cứu về hiệu quả kinh tế xã hội của các khu công
nghiệp, các giải pháp phát triển khu công nghiệp ở một số địa phương, hoặc
nghiên cứu vấn đề việc làm và thu nhập của người dân có đất bị thu hồi để
xây dựng KCN, vấn đề nhà ở cho người lao động tại KCN…Các cơng trình
nghiên cứu đó có thể chia thành 2 nhóm sau:
- Nhóm cơng trình liên quan đến FDI nói chung
+ Năm 2002, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức nghiệm thu đề tài cấp
Bộ “Nghiên cứu mô hình quản lý nhà nước về KCN, KCX ở Việt Nam” nội
dung giới thiệu kinh nghiệm quản lý các KCN, KCX của nước ngoài, đánh
giá mặt tốt và hạn chế của mơ hình quản lý hiện đang áp dụng tại Việt Nam,
trên cơ sở đó đề xuất một số mơ hình quản lý mới nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý các KCN, KCX trong thời gian tới.
+ Năm 2004, nhà xuất bản Khoa học xã hội đã xuất bản cuốn “ Các giải
pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường
ở các KCN, KCX” của tiến sĩ Trương Thị Minh Sâm, đánh giá khá chi tiết và
tồn diện về tình trạng ô nhiễm môi trường ở các KCN, KCX vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, những thách thức đặt ra đối với công tác quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước đối với vấn đề này ở các KCN, KCX thuộc cùng kinh tế
trọng điểm phía Nam.
+ “FDI vào ngành cơng nghiệp trên địa bàn Hà Nội”(2006), luận văn
thạc sĩ của học viên Trần Văn Lưu, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu này chủ yếu đi sâu phân tích đánh giá thực trạng thu hút và sử
dụng FDI vào ngành công nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
+ Trong năm 2010, cả nước đã có 8 hội thảo về phát triển KCN, KCX
trong đó Hội thảo với chủ đề “Phát triển KCN, KCX ở các tỉnh phía Bắc –
những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với
Tạp chí Cộng sản và Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa tổ chức tại Thanh Hóa
đã có 40 bài tham luận gửi đến và nhiều tham luận của các đại biểu. Các bải
viết đã tập trung vào một số vấn đề cơ bản, như vị trí, vai trò của các KCN,
KCX; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển các KCN, KCX;
công tác quy hoạch phát triển các KCN, KCX; các chính sách liên quan đến
phát triển KCN, KCX; những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển
của các KCN phía Bắc so với các KCN phía Nam; tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước đối với các KCN, KCX và vấn đề tạo động lực cho các KCN, KCX.
- Nhóm cơng trình nghiên cứu về sự phát triền các KCN gắn với vấn đề
phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội
+ “Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển kinh tế - xã hội ở
Thành phố Đà Năng” (2006), luận văn Thạc sĩ của học viên Nguyễn Văn
Chiến, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này đã đi sâu
phân tích những tác động tích cực và hạn chế của FDI đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng, từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao
tác động tích cực của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà
Nẵng.
+ “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng phát
triển bền vững” (2008), luận văn thạc sĩ của học viên Trần Thị Tuyết Lan,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này tập trung đánh giá
thực trạng thu hút FDI ở tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng bền vững nhằm chỉ ra
những mặt mạnh, mặt yếu và đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút FDI ở
tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng bền vững.
+ GS.TS Chu Văn Cấp: Một số vấn đề xã hội nảy sinh từ tác động của
chính sách thu hồi đất đai đối với nơng dân trong q trình CNH-HĐH. (Kỷ
yếu hội thảo khoa học; Những vấn đề KT-XH ở nông thôn trong quá trình
CNH-HĐH do Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên Lý luận chính trị, Đại
học Quốc gia Hà Nội tổ chức, NXB ĐHQG, năm 2010,, trang 15-24).
+ “Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến vấn đề xã hội ở tỉnh
Bắc Giang” (2011), Luận văn thạc sĩ của học viên Nguyễn Thị Thu Hoài, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền. Luận văn đã làm rõ những tác động tích cực
và tiêu cực của phát triển các khu công nghiệp đến các vấn đề xã hội ở tỉnh
Bắc Giang. Đánh giá một cách khách quan, đề xuất những giải pháp có tính
khả thi nhằm phát triển các KCN gắn với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội
ở tỉnh Bắc Giang tới năm 2015.
Như vậy, các nghiên cứu trên đã chỉ ra được những thành tựu và hạn chế
trong thu hút FDI vào Việt Nam nói chung và một số tỉnh trong nước, cũng
như đã đưa ra những đề xuất nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam, hoặc trên một địa bàn – một vùng, một tỉnh. Tuy nhiên
chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện về lý luận và thực
tiễn về vấn đề tác động của việc phát triển các khu công nghiệp đến vấn đề
kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh, đặc biệt dưới góc độ kinh tế chính trị. Trong
khi Bắc Ninh là một trong những tỉnh đi đầu về thu hút và sử dụng FDI vào
các khu công nghiệp của Việt Nam. Vì vậy, đề tài này là cần thiết, mới mẻ, có
ý nghĩa thực tiễn và không trùng lặp với các cơng trình khoa học, luận văn,
luận án Tiến sĩ kinh tế đã được cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận về các KCN và tác động của chúng đến việc phát triển
kinh tế - xã hội; Đánh giá tác động của các KCN ở tỉnh Bắc Ninh đối với phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đề xuất giải pháp phát triển KCN gắn với việc giải
quyết vấn đề kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới năm 2020.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về các KCN và tác động của các
KCN đến phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tác động của các KCN đến phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và những vấn đề cấp bách đang đặt ra.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm sử dụng phát huy những mặt tích cực và
hạn chế những mặt tiêu cực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc
Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về các KCN gắn liền với việc giải quyết một số vấn đề kinh tế -xã hội ở tỉnh
Bắc Ninh, dưới góc độ khoa học Kinh tế chính trị.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: luận văn nghiên cứu tác động của các KCN đến phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Cụ thể là các KCN, các địa
phương có KCN và các cơ quan, tổ chức có liên quan đến phát triển các KCN.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề tác động của các khu công
nghiệp đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn từ
năm 2009- 2014 và đề xuất những giải pháp đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1.Cơ sở
- Cơ sở lý luận của đề tài: Những lý luận kinh tế chính trị Mác –Lênin.
Quan điểm chủ trương của Đảng về CNH-HĐH, phát triển công nghiệp, các
KCN, văn hóa, giáo dục, xã hội…Và một số lý luận kinh tế khác liên quan.
- Cơ sở thực tiễn: Thực trạng các KCN với vấn đề phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Bắc Ninh và kinh nghiệm của các địa phương về vấn đề đó.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm,
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến vấn đề nghiên cứu,
đồng thời luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân
tích – tổng hợp, thống kê kinh tế và so sánh, mô hình hóa, phương pháp thu
thập và xử lý thơng tin, khảo sát tình hình thực tế địa phương.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về các KCN, nêu ra kinh nghiệm
phát triển các khu công nghiệp gắn với giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội của
một số tỉnh, thành phố trong nước để tham khảo.
- Đánh giá thực trạng các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và làm rõ
những tác động tích cực và tiêu cực của các KCN đến phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất các giải pháp khả thi nhằm phát triển các KCN gắn với việc
giải quyết tốt vấn đề kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh tới năm 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu như sau: ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu
tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết:
Chương1. Cơ sở lý luận về khu công nghiệp và tác động của các khu
công nghiệp đến phát triển kinh tế - xã hội
Chương 2.Thực trạng tác động của các khu công nghiệp đến phát triển
kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2009-2014
Chương 3. Những giải pháp phát triển khu công nghiệp gắn với giải
quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI
1.1. Lý luận chung về khu công nghiệp và tác động của các KCN đến
phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1.Khu công nghiệp
Vào những năm cuối thế kỉ XIX, KCN đó được hình thành ở một số
nước tư bản phát triển. Năm 1896, xuất hiện KCN đầu tiên ở Traffort Park
thành phố Manchester nước Anh. Sau đó, KCN lần lượt được thành lập ở các
nước khác như Mỹ năm 1899, Italia năm 1904; và kể từ những năm 50 thế kỷ
XX thì KCN thực sự được bùng nổ, trở thành phổ biến ở các nước. Trong q
trình phát triển đó, KCN đó đem lại nhiều lợi ích thiết thực, nó được coi là
một công cụ để phát triển kinh tế.
Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặc dù
thuật ngữ KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó lại bao hàm
nhiều hình thức tổ chức và tính chất hoạt động khác nhau.
Theo nghĩa thơng thường, KCN là khu vực có tính chất độc lập tập trung
nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Các KCN ra đời là kết quả của việc
xây dựng các doanh nghiệp công nghiệp riêng rẽ. Xen lẫn với các doanh nghiệp
công nghiệp là khu dân cư hoặc các cơ quan hành chính sự nghiệp các doanh
nghiệp thuộc ngành khác… nghĩa là KCN chuyên sản xuất hàng dành cho xuất
khẩu. Ở đó, chính quyền đó áp dụng nhiều chính sỏch ưu đãi như miễn thuế
(thuế xuất - nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản…) và tự do mua bán.
Tuy nhiên, đến nay ở các nước khác nhau có những quan niệm khác nhau
về KCN. Có quan niệm cho rằng, KCN là một vùng đất được phân chia và
phát triển có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung cấp địa điểm
cho các ngành công nghiệp tương hợp với hạ tầng cơ sở, các tiện ích công
cộng, các dịch vụ phục vụ và hỗ trợ [17, tr.15].
Ở Thái Lan và Philippin, KCN được quan niệm như một thành phố cơng
nghiệp và thực tế nó là một cộng đồng tự túc và độc lập. Ngoài việc cung cấp kết
cấu hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích cơng cộng hồn chỉnh và xử lý chất thải, KCN
cũng bao gồm khu thương mại, dịch vụ ngân hàng, trường học, bệnh viện, các
khu vui chơi giải trí, khu nhà ở cho công nhân… Các KCN ở Thái Lan và
Inđônêxia thường có 3 bộ phận chủ yếu: khu sản xuất hàng tiêu thụ nội địa, khu
sản xuất hàng xuất khẩu và khu thương mại dịch vụ.
Có quan niệm lại cho rằng, KCN là một khu vực phụ, không nhất thiết
phải có sự ngăn cách, biệt lập bởi trên thực tế có nhiều tập đồn và tổ hợp
cơng nghiệp với một chuỗi đồ sộ các xí nghiệp, nhà máy liên kết với nhau
trên một khu vực rộng lớn. Việc bố trí mặt bằng các khu sản xuất trên quy mô
lớn như vậy hình thành một loại hình tổ chức mới của KCN mà khơng nhất
thiết phải có quy mơ đặc thù [27, tr.30-31, 33].
Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc
(UNIDO) trong tài liệu KCX ở các nước đang phát triển cơng bố năm 1990,
thì KCN là khu vực tương đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc
gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất
khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về
đầu tư mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ
nhà. Trong đó đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản
xuất để xuất khẩu miễn thuế [43, tr.18].
Theo quan điểm của Hiệp hội thế giới về KCX (World Expot Processing
Zone Association – WEPZA) thì KCX là tất cả các khu vực được chính phủ
các nước cho phép thành lập và hoạt động như Cảng tự do, Khu mậu dịch tự
do, KCN tự do hay bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vục khác được tổ
chức này công nhận. Từ quan điểm này, do nhu cầu phát triển của mối quan
hệ thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng xuất phát từ yêu
cầu bức thiết của q trình cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu của các nước
đang phát triển, khái niệm này đó được bổ sung thành những quan niệm mới như
Khu kinh tế mở, Đặc khu kinh tế, Thành phố mở…[43, tr.8].
Quan niệm của Hiệp hội thế giới về KCX rất rộng địi hỏi chính sách
quản lý có độ linh hoạt cao và mức độ tự do hoá khá lớn.
Tuy những quan niệm trên có một số khác nhau về nội hàm KCN, KCX,
song về cơ bản đều thống nhất ở những đặc trưng sau:
Một là, KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và mục
tiêu xác định giũa chủ đầu tư và nước chủ nhà. KCN là nơi có mơi trường
kinh doanh đặc biệt phù hợp được hưởng những quy chế tự do, các chính sách
ưu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội địa. Chúng là
nơi có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, thương mại, dịch vụ đầu tư
trên cơ sở chính sách ưu đói về kết cấu hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục hải
quan, thủ tục hành chính, chính sách tài chính tiền tệ, mơi trường đầu tư.
Hai là, KCN là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời trong sự
phát triển kinh tế của một quốc gia. Nó thường là những khu vực có vị trí địa
lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào xung quanh, giới hạn với các vựng lãnh
thổ còn lại của nước sở tại và được chính phủ nước đó cho phép hoặc rút phép
xây dựng và phát triển.
Ba là, KCN là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về ưu tiên chính sách
hướng ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngồi vào phát triển các loại
hình sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu. Đây là mơ hình thu nhỏ về chính
sách KT - XH mở cửa của một nước.
Ở Việt Nam, khái niệm về KCN được ghi trong Nghị định 192/CP ngày
15/12/1994 của Chính phủ về quy chế KCN. Các KCN được định nghĩa là
khu vực công nghiệp tập trung, được thành lập do quyết định của Chính phủ
với các ranh giới được xác định, cung ứng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và
khơng có dân cư. [41, tr 2]
Theo Điều 2 - Nghị định 36/CP của Chính phủ ban hành về: “Quy chế
hoạt động của các KCN, KCX, KCNC” thì khái niệm về KCN được giải thích
như sau: KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất cơng nghiệp, có
ranh giới địa lý xác định, khơng có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập.[41,2]
KCX là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu. Những doanh nghiệp này được hưởng
những ưu đói đặc biệt về thuế quan, miễn thuế đối với tất cả các hàng hoá
xuất nhập khẩu. Sản phẩm của các doanh nghiệp này chỉ được phép xuất khẩu
chứ không được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Trong trường hợp bán trên thị
trường nội địa thì sẽ phải chịu thuế nhập khẩu như đối với những hàng hố
nhập khẩu thơng thường.
KCN cao là KCN tập trung những doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật
cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, bao gồm
nghiên cứu triển khai khoa học và công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên
quan, có ranh giới xác định, do chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập. Trong KCN cao có thể có doanh nghiệp chế xuất.
Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp chuyên sản xuất và chế biến
hàng xuất khẩu, được thành lập và hoạt động theo quy chế này.
Doanh nghiệp KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong
KCN, gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ.
Doanh nghiệp sản xuất KCN là doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp
được thành lập và hoạt động trong KCN.
Doanh nghiệp dịch vụ KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt
động trong KCN, thực hiện dịch vụ và các cơng trình kết cấu hạ tầng KCN,
dịch vụ sản xuất cơng nghiệp.
Có thể thấy rằng KCN là những địa bàn sản xuất công nghiệp gồm nhiều
doanh nghiệp vừa và nhỏ, khơng có dân cư sinh sống, có ranh giới pháp lý
riêng, có ban quản lý riêng do Chính phủ thành lập. Về kết cấu hạ tầng, KCN
được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đạt các tiêu chuẩn
quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động các doanh nghiệp công nghiệp. Về
cơ cấu ngành, trong KCN có cả các ngành truyền thống mà trong nước có lợi
thế so sánh và cả các ngành công nghiệp mới như điện tử, công nghệ thông
tin, công nghệ lắp ráp v.v..
So với KCX, KCN thường có phạm vi hoạt động rộng hơn. Nó khơng chỉ
bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ cho xuất khẩu mà
còn mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp bao gồm cả sản xuất hàng xuất
khẩu và tiêu thụ trong nước.
Các doanh nghiệp 100% vốn trong nước có thể được vào hoạt động tại
KCN, khác với KCX chỉ liên kết với các cơng ty có vốn nước ngồi. Các ưu
đói từ phía Chính phủ cũng được thực hiện đối với doanh nghiệp trong KCN
chú trọng tới việc sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những doanh nghiệp này sẽ
được hưởng chế độ ưu đãi như trong KCX và cũng sẽ được hưởng ưu đãi như
trong KCN. KCX là khu vực thu hút các dự án đầu tư nước ngoài để xuất
khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa là quan
hệ ngoại thương cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị
trường nước ngoài. KCX là khu thương mại tự do, bởi vì hàng hố từ KCX ra
nước ngồi và từ nước ngồi vào KCX khơng phải chịu thuế xuất nhập khẩu
và ít bị ràng buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các doanh
nghiệp KCN với thị trường nội địa là quan hệ nội thương (trừ doanh nghiệp
chế xuất trong KCN được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp trong KCX). KCN
không phải là khu thương mại tự do mà là khu sản xuất tập trung.
Về điều kiện ưu đãi, doanh nghiệp KCX được hưởng thuế thu nhập 10%,
miễn thuế trong 4 năm đầu đối với doanh nghiệp sản xuất, nộp 15% và miễn 2
năm đối với doanh nghiệp dịch vụ; còn doanh nghiệp KCN nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp 15% đối với doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50% sản phẩm trong 2
năm, 10% đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 80% sản phẩm và trong 2 năm.
Đối với nước sở tại, thì KCX có nhiều mặt lợi hơn so với KCN. Điều này
có thể được lý giải bởi các lý do sau đây:
- Doanh nghiệp chế xuất không được trực tiếp sử dụng thị trường nội địa
nên nhìn chung là khơng cạnh tranh với sản xuất trong nước.
- Nhà nước không lo cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp mà ngược lại, nguồn
ngoại tệ của xã hội lại được tăng lên nhanh chóng nhờ hoạt động của KCX.
- Thúc đẩy việc mở cửa thị trường nội địa nhanh hơn, phù hợp với chủ
trương xây dựng nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu.
Tuy nhiên, những gỡ được coi là có lợi cho nước sở tại thì ngược lại là
bất lợi đối với nhà đầu tư. Để có thể xuất khẩu được 100% sản phẩm, việc tổ
chức sản xuất phải đạt chất lượng cao, đồng đều, giá hợp lý, phự hợp với điều
kiện cạnh tranh của thị trường quốc tế. Do các bất lợi trên mà các nhà đầu tư
nước ngoài thường quan tâm đến hình thức KCN, nhằm tận dụng lợi thế về thị
trường nội địa. Điều này nghĩa là việc xây dựng thành cơng các KCX thường
gặp khó khăn hơn là KCN. Việc các nhà đầu tư nước ngồi coi trọng mơ hình
KCN là cú căn ngun riêng của nó, nhưng cần phải thấy được một vấn đề là
nếu một quốc gia có q nhiều KCN hoạt động sẽ có hàng nghìn doanh
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chủ yếu do nước ngoài đầu tư. Điều này sẽ tạo
ra hiện tượng cạnh tranh gay gắt không cần thiết trên thị trường nội địa.
Để khuyến khích đầu tư vào KCX, cần rà sốt lại tồn bộ hệ thống chính
sách kinh tế vĩ mơ của nhà nước theo tinh thần khuyến khích mạnh hơn, ưu
đãi nhiều hơn cho KCX, làm cho nó có đủ sức hấp dẫn mạnh hơn đối với các
nhà đầu tư so với KCN. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng của các KCN và KCX
là khơng ít khó khăn, nhưng việc kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn
này là khó khăn hơn nhiều. Chất lượng của một KCX hay KCN phụ thuộc
nhiều vào chất lượng của các dự án đó thu hút được.
Như vậy KCN và KCX có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự
khác nhau về mục đích, đối tượng tham gia hay mối liên kết của chúng đối
với nền kinh tế. KCN thường được nhận một sự ưu tiên nhất định từ phía
chính quyền địa phương và Chính phủ với vai trị thúc đẩy phát triển kinh tế
vùng (địa phương), KCN bao gồm những doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp nước ngoài. KCX cũng được xác định là KCN nhưng tập trung những
doanh nghiệp chuyên sản xuất chế biến các hàng xuất khẩu, được sự ưu tiên
đặc biệt của Chính phủ, có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế
khép kín sang nền kinh tế mở.
Từ Nghị định 36/CP cho thấy KCN là một khái niệm động gắn liền với điều
kiện cụ thể nơi nó hình thành. Các tiêu chí để hình thành một KCN bao gồm:
Thứ nhất, KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp có đủ cơ sở pháp lý, chuyên
sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Thứ hai, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, khơng có dân cư
sinh sống, xây dựng theo quy hoạch tổng thể đó được chính phủ phê duyệt.
Thứ ba, KCN phải do chính phủ hoặc do Thủ tướng chính phủ quyết định
thành lập. Khi muốn hình thành KCN đó có trong quy hoạch tổng thể do
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo việc lập báo cáo nghiên
cứu khả thi thành lập KCN và trình Thủ tướng chính phủ xem xét quyết định
thành lập.
Thứ tư, trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. Đó là các doanh
nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản
xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.
Tuy vậy, có thể coi khái niệm mà chúng ta sử dụng là khái niệm hẹp và
chỉ quan tâm chủ yếu đến phần diện tích dành cho việc xây dựng kết cấu hạ
tầng để cho thuê, còn việc xây dựng các cơng trình phúc lợi xã hội khơng nằm
trong phạm vi quy định. Quan niệm này dẫn đến một thực tế là khi xây dựng
KCN, người ta khơng quan tâm đến tính đồng bộ của nó theo nghĩa rộng nên
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả KT - XH của KCN. Cho nên việc quy hoạch phát
triển sản xuất nhất thiết phải đi kèm quy hoạch phát triển hạ tầng xã hội.
Hiện nay ở nước ta đó xuất hiện hàng trăm các KCN vừa và nhỏ do
Trung ương thành lập và các cụm CN ở các địa phương của chính quyền địa
phương (cấp tỉnh, thành phố). Mặc dù có một số đặc điểm đặc thù như quy
mô thường nhỏ hơn, ảnh hưởng thường hẹp hơn nhưng về bản chất khơng có
sự khác biệt so với các KCN của Trung ương. Trong đề tài, khái niệm KCN
được hiểu bao gồm cả KCN do Trung ương thành lập, quản lý và cả các cụm
CN do chính quyền địa phương thành lập.
Nói tóm lại, sự ra đời của các KCN nhằm mục đích cung cấp các điều
kiện về kết cấu hạ tầng tốt nhất cho việc xây dựng và vận hành của các cơ sở
sản xuất công nghiệp đặc biệt là hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngồi khi đầu tư
vào nước sở tại sẽ có được đầy đủ điều kiện mặt bằng, đường sá, hệ thống
cung cấp điện, nước, hệ thống xử lý nước thải… để sản xuất kinh doanh mang
lại lợi ích cho cả hai phía.
1.1.2.Tác động của các khu cơng nghiệp đến phát triển kinh tế - xã hội
KCN ở Việt Nam ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do Đại hội
Đảng lần thứ VI khởi xướng. Hoạt động của các KCN trong thời gian qua đó
đóng một vai trị hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế của
đất nước. Đối với những nước thuần nông như Việt Nam thì việc phát triển
KCN trước hết tạo tiền đề cho đơ thị hố nơng thơn, tạo bước chuyển dịch cơ
cấu kinh tế mới theo hướng phát triển công nghiệp, giải quyết việc làm cho
lao động khu vực nông thơn. KCN cũng chính là cầu nối giữa nước ta với thế
giới bên ngồi, đóng vai trị tiên phong trong việc chuyển từ nền kinh tế khép
kín sang nền kinh tế mở cửa.
Tuy nhiên, sự phát triển của KCN trong thời gian qua cũng đang phá
vỡ kết cấu xã hội nông thôn truyền thống, bộc lộ những bất cập trong giải
quyết vấn đề môi trường sinh thái, việc làm và thu nhập của người dân mất
đất, sự quá tải của hệ thống kết cấu hạ tầng…
1.1.2.1. Những tác động tích cực của các khu công nghiệp đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc CNH,
HĐH nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH.
CNH, HĐH được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ
lên CNXH. Quá trình CNH, HĐH được thực hiện trên cơ sở giải phóng sức
sản xuất trong nước phát huy cao độ các nguồn lực trong nước đồng thời tìm
cách thu hút nguồn lực từ bên ngồi. Nguồn lực trong nước và nguồn lực từ bên
ngồi có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nguồn lực trong nước được khai thác
có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thu hút, sử dụng tốt hơn nguồn lực từ bên ngồi.
Ngược lại, việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngồi sẽ
kích thích việc huy động nguồn lực trong nước, đồng thời tạo điều kiện để các
nguồn lực này được sử dụng với hiệu suất cao hơn.
Việc phát triển các KCN, KCX, KCN cao có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo
ra những điều kiện, thể chế, mơi trường thuận lợi cho q trình thu hút, sử dụng
nguồn lực từ bên ngoài như vốn đầu tư, công nghệ tiên tiến, phương thức quản lý
hiện đại, trên cơ sở đó đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH.
Việc phát triển KCN cú những tác động tích cực sau:
Một là, KCN là một địa điểm quan trọng để thu hút vốn đầu tư, đặc biệt
là đầu tư nước ngoài, tập trung các doanh nghiệp công nghiệp vào một khu
vực địa lý.
Do có kết cấu hạ tầng hiện đại hơn và cơ chế quản lý thơng thống hơn
so với bên ngoài nên KCN là trở thành một địa điểm để tập trung các doanh
nghiệp sản xuất, chế biến công nghiệp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
trong nước. Qua đó, tạo cơ hội đưa nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy
tiến bộ khoa học và công nghệ; xây dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn,
nâng cao vị trí chủ đạo của cơng nghiệp trong nền kinh tế, bảo đảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong điều kiện kết cấu hạ tầng của
nền kinh tế còn thấp kém đầu tư chưa hồn thiện thì việc xây dựng, phát triển
KCN là phương thức phù hợp nhằm tập trung đầu tư cho một số khu vực có ưu
thế hơn, giảm một cách đáng kể chi phí về vốn và khó khăn cho nhà đầu tư.
KCN với những ưu đãi đặc biệt về thủ tục hành chính, cơ chế quản lý, tài
chính, thuế quan... so với sản xuất ở bên ngồi, nên nó trở thành mơi trường
hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút được nguồn vốn đầu tư cả trong
và ngoài nước. Kết cấu hạ tầng trong KCN sẵn có và những chính sách ưu đãi
cùng với cơ chế quản lý đặc biệt, thủ tục đầu tư ngày càng đơn giản, thuận
tiện hơn so với bên ngoài KCN sẽ giúp nhà đầu tư nhanh chóng triển khai dự
án, tránh bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp tìm mọi cách tối thiểu hố chi phí để đạt được giá thành rẻ nhất.
KCN là địa bàn mà doanh nghiệp có thể thực hiện được điều đó. KCN được
xây dựng tập trung theo chiều dọc, là nơi có nhiều đất trống, gần cảng, giao
thông thuận lợi cho xe trọng tải lớn ra vào, mạng lưới điện để cho nhà đầu tư
có thể xây dựng và vận hành các nhà máy. KCN cũn được trang bị kết cấu hạ
tầng đầy đủ nên khi đầu tư vào thì các nhà đầu tư sản xuất sẽ giảm được rất
nhiều chi phí như chi phí mua đất xây dựng nhà máy với giá cao, chi phí xây
dựng hệ thống đường dây tải điện, đường giao thông vận tải vào nhà máy,
thiết lập hệ thống thông tin liên lạc... Việc bố trí các nhà máy theo chiều dọc
(sản phẩm của nhà máy này là nguyên liệu của nhà máy khác) và tập trung
vào một khu vực nên các doanh nghiệp dễ dàng giải quyết đầu vào và đầu ra
với chi phí thấp nhất. Do đó, các doanh nghiệp KCN có điều kiện thuận lợi để
đạt mục tiêu lợi nhuận bên ngoài KCN nên KCN hấp dẫn nhà đầu tư hơn.
Thực tế ở nước ta cho thấy, KCN cú vai trị tích cực vào việc thu hút vốn
đầu tư đặc biệt là vốn FDI. Số dự án đầu tư cả trong và ngoài nước vào các
KCN chiếm một tỷ trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tư vào các KCN góp
phần quan trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tư của tồn xã hội, đóng góp trực
tiếp vào việc tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế. Mặt khác
cịn tác động, kích thích tăng đầu tư mới ở các doanh nghiệp ngoài KCN.
Bên cạnh đó, việc tập trung các doanh nghiệp vào một khu vực địa lý
hình thành KCN tập trung là một vấn đề không kém phần quan trọng bởi
trong KCN tập trung các doanh nghiệp dùng chung cơng trình hạ tầng nên
được giảm chi phí trên một đơn vị diện tích và đơn vị sản phẩm, thực hiện
phát triển công nghiệp theo một quy hoạch thống nhất, kết hợp giữa quy
hoạch ngành với quy hoạch lãnh thổ. Hơn nữa, việc tập trung các doanh
nghiệp trong KCN tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc xử lý chất thải công
nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các
doanh nghiệp cơng nghiệp có điều kiện thuận lợi hợp tác với nhau đổi mới
công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh hơn.
Hai là, tạo việc làm và thu nhập.
Sự hình thành và phát triển KCN không chỉ thu hút lao động vào các
doanh nghiệp bên trong mà cịn kích thích các hoạt động dịch vụ phát triển và
thu hút vào các hoạt động này một số lớn lao động khác.Việc xây dựng KCN
sản xuất cũng như các dịch vụ hỗ trợ bên ngoài KCN đó giải quyết được một
số lượng lao động khá lớn... Số lao động này được tiếp xúc với công nghệ sản
xuất hiện đại, phương thức quản lý tiên tiến. Đây là điều kiện quan trọng để
xây dựng đội ngũ lao động có kỷ luật, có kỹ năng và có năng suất lao động
cao đáp ứng nhu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Hơn nữa, để đáp
ứng nhu cầu tuyển dụng của nhiều doanh nghiệp, nhiều KCN, KCX đó mở
các cơ sở đào tạo nghề. Việc thành lập các trung tâm dạy nghề và đào tạo
trong các KCN, KCX đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho
các doanh nghiệp trong KCN nói riêng, cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
nói chung. Ở các địa phương có KCN, tỷ lệ thất nghiệp giảm rừ rệt. Điều đó
tác động tích cực đến việc xố đói, giảm nghèo, đồng thời góp phần giảm các
tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra.
Ba là, KCN là địa bàn để tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại và
phương pháp quản lý tiên tiến của các nước phát triển.
Cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngồi, việc tiếp thu cơng nghệ
hiện đại và các phương pháp quản lý tiên tiến của các nhà đầu tư được thực
hiện tốt thông qua các KCN. Mặc dù trong những giai đoạn đầu hoạt động của
các KCN, đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào các ngành như dệt may,
giày da, lắp ráp điện tử, nhưng càng về sau thì việc đầu tư vào các lĩnh vực
cơng nghệ hiện đại như đúc chính xác, sản xuất cơ khí, sản xuất cáp điện, linh
kiện điện tử... ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn cả về sản phẩm và kim
ngạch xuất khẩu. Quá trình chuyển giao cơng nghệ diễn ra dướí nhiều hình
thức: đào tạo cơng nhân nước chủ nhà để sử dụng máy móc, thiết bị, cơng
nghệ sản xuất, đưa máy móc hiện đại sang để tiến hành sản xuất nhằm mục
đích tạo năng sất lao động cao... Các công ty ở các KCN có thể chuyển giao
một số cơng nghệ mới vào giúp đỡ kỹ thuật cho các nhà cung cấp địa phương
hoặc các công ty sản xuất chi tiết sản phẩm của KCN. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp KCN cũn thu hút một lượng lớn người lao động Việt Nam vào các vị
trí quản lý doanh nghiệp quan trọng, đội ngũ lao động này được tiếp xúc với
phương thức quản lý tiên tiến, kỹ năng maketting, quản lý tài chính, tổ chức
nhân sự... Đội ngũ này khi chuyển đi làm việc tại các doanh nghiệp Việt Nam
hoặc tự mình thành lập doanh nghiệp sẽ áp dụng phương pháp quản lý tiên
tiến đó tiếp thu được vào hoạt động của doanh nghiệp mình, vừa nõng cao
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, vừa truyền đạt những kiến thức quản lý
cho người lao động Việt Nam khác.
Bốn là, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý
và hiệu quả.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một nội dung cơ bản trong quá trình
CNH, HĐH ở nước ta bởi nó tạo điều kiện cho nền kinh tế vận động phù hợp
với các quy luật khách quan, thúc đẩy phân công lao động xã hội, gắn sản
xuất với nhu cầu thị trường trong nước và xu hướng toàn cầu hoá và khu vực
hoá mở cửa và hội nhập kinh tế giúp khai thác tối đa mọi nguồn lực, tiềm
năng của đất nước, của ngành, của doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Đảng ta xác định xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý theo ngành,
lĩnh vực và lãnh thổ, trong đó giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao
động của tất cả các ngành, lĩnh vực nhất là các ngành và lĩnh vực có sức cạnh
tranh cao.
KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ cơng
nghiệp. Một mặt, KCN góp phần nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp trong
tổng số GDP của các ngành kinh tế tạo ra trên cả nước. Mặt khác, KCN thu hút
được những dự án có hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao. Mặc dù số lượng các
dự án này trong KCN cũn ớt nhưng cũng góp phần phát triển ngành nghề mới,
đa dạng hố ngành nghề cơng nghiệp. Các dự án đầu tư vào KCN tập trung chủ
yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, giầy da, công nghiệp chế biến
thực phẩm. Đây là các dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao.
Các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm là những ngành truyến thống
có từ lâu ở nước ta nhưng các dự án trong KCN đó góp phần nâng cấp cỏc
ngành này về dây chuyền công nghệ và chất lượng sản phẩm.
Năm là, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý ô nhiễm môi trường, bảo
vệ môi trường sinh thái cho phát triển bền vững.
Bảo vệ môi trường sinh thái là một nhiệm vụ cơ bản của phát triển bền
vững. Các nước đang phát triển thực hiện CNH, HĐH thường phải chú ý đến
sự phỏt triển cân bằng cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Vấn đế môi trường
là một yếu tố quan trọng mà bất cứ một doanh nghiệp sản xuất nào cũng phải
giải quyết. Với mục tiêu chỉnh trang các đô thị theo hướng hiện đại, văn minh
và bảo vệ môi trường, việc di dời nhà máy, các xí nghiệp sản xuất công
nghiệp trong các đô thị ra vùng ngoại thành là cần thiết. Nhưng nếu để các
doanh nghiệp phân tán hoặc việc xử lý chất thải do từng doanh nghiệp thực
hiện riêng rẽ thì sẽ rất tốn kém và khơng kiểm soát được. Việc tập trung nhiều
doanh nghiệp trên cùng một địa bàn như KCN sẽ cho phép xây dựng các
trung tâm xử lý chất thải với chi phí ít tốn kém hơn, đồng bộ hơn, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc quản lý môi trường của cơ quan chức năng. KCN
tập trung giảm sự tiếp xúc trực tiếp của các khu đô thị với tác động bất lợi của
sản xuất công nghiệp (như tiếng ồn, khói bụi, bức xạ...). Với sự tập trung của
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác định, Ban quản
lý các KCN có thể kiểm sốt tốt hơn mức độ ô nhiễm của các doanh nghiệp.
Đồng thời, về phía mình các doanh nghiệp cơng nghiệp cũng có điều kiện
phịng chống ơ nhiễm mơi trường với chi phí ít nhất do sử dụng lại phế thải
của nhau, do có sự liên kết xử lý ơ nhiễm và sự hỗ trợ tập trung của nhà nước.
Hơn nữa, KCN được sử dụng các biện pháp triệt để trong việc xử lý môi
trường ngay từ khâu quy hoạch. Trong KCN, các doanh nghiệp buộc phải có
hệ thống xử lý chất thải cục bộ đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra hệ thống
chung. Từng KCN phải có nhà máy xử lý nước thải tập trung và được đầu tư
xây dựng song song với việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN. Như vậy,
việc bảo vệ mơi trường trong tồn khu vực KCN được thực hiện tốt hơn so
với tại các cơ sở công nghiệp nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau. Đồng
thời, KCN là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi
trường từ nội thành, từ các vùng dân cư, phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển
bền vững. Với tác động này, việc xây dựng các KCN tập trung được coi là
một giải pháp quan trọng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong vài năm tới ở nước ta sẽ có khoảng 65% KCN đang hoạt động có
hệ thống nước thải đạt tiêu chuẩn mơi trường. Tuy nhiên, nó địi hỏi các cơ
quan quản lý Nhà nước phải có quyết tâm cao kết hợp với các biện pháp cụ
thể. Thời gian qua đó có nhiều dự án xử lý nước thải tập trung trong KCN đi
vào vận hành, tổng số cơ sở xử lý nước thải tập trung lên 60 nhà máy, đạt gần
1/2 mục tiêu kế hoạch đến năm 2015; 100% các KCN đó vận hành có hệ
thống xử lý nước thải tập trung. Ngồi ra, tại KCN đang xây dựng, có 20 nhà
máy xử lý nước thải tập trung được xây dựng và dự kiến hoàn thành trong
năm nay. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đó dự thảo Quy chế Bảo vệ môi trường KCN. Hy vọng sau khi ban
hành Quy chế này, chúng ta sẽ có cơ sở pháp lý trong triển khai công tác bảo
vệ môi trường KCN. [47,tr68].
Sáu là, góp phần tăng cung ứng hàng hố dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong
nước và xuất khẩu.
Một trong những mục tiêu quan trọng đặt ra khi xây dựng các KCN là
góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Thực tế cho
thấy, nhiều KCN ở các nước đặc biệt là ở khu vực châu Á đó thành cụng trong
mục tiêu này. Theo thống kờ của Hiệp hội KCX thế giới, một diện tích
khoảng 100 ha cần đầu tư 50 triệu USD cho kết cấu hạ tầng, trong vũng 10
năm sẽ tạo việc làm cho 10.000 lao động, từ đó tạo ra hàng xuất khẩu trị giá
100 triệu USD/năm [47, 56]].
Thực tế phát triển KCN đó thành công ở nhiều nước, như Đài Loan, Thái
Lan phát triển KCN từ những năm đầu của thập kỷ 60 và đó thu được những
thành tựu to lớn. Các KCN của Đài Loan đó có 238 doanh nghiệp xuất khẩu
hoạt động với tổng vốn đầu tư hơn 860 triệu USD, trong đó hơn 70% là đầu
tư nước ngồi. Tổng giá trị xuất khẩu tích lũy đó hơn 35 tỷ USD, đạt kỷ lục
tạo việc làm cho 90.000 lao động. Còn Thái Lan năm 1960 thu nhập GDP
bình quân là 94 USD/người. Qua 3 thập kỷ cơng nghiệp hóa, cơng nghiệp đã
lên ngơi chiếm 34% GDP và nơng nghiệp chỉ cịn 10%, 70% giá trị xuất khẩu
do các ngành công nghiệp đảm nhận, thu nhập GDP bình qn đầu người cao.
Cơng nghiệp chế tạo từ thập kỷ 60 đến nay là khu vực đóng góp phần quan
trọng nhất đối với tiến bộ của cả nước [47, tr.35].
Theo Ngân hàng thế giới (WB), 1 ha đất canh tác nơng nghiệp, bình qn
một năm chỉ thu được 2000 USD. Nhưng nếu dùng để sản xuất cơng nghiệp
có thể đạt 200.000 đến 400.000 USD, tăng gấp 100 đến 200 lần
(nguồnWebsite KCN Việt Nam)
Bảy là, tạo điều kiện xây dựng khu đô thị, nâng cao chất lượng đời
sống dân cư.
KCN sẽ là hạt nhân để xây dựng và phát triển các khu đô thị mới, văn
minh, góp phần cải thiện đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội cho khu vực rộng lớn
được đơ thị hố. Ở các đơ thị gắn liền với KCN thì bộ phận chủ yếu của dân cư
đơ thị là những người lao động và quản lý trong các KCN. Họ có nhu cầu đi lại,
ăn ở, nghỉ ngơi, giải trí sao cho phự hợp với yêu cầu làm việc trong KCN.
Ở các nước đang phát triển, với mục tiêu xây dựng các đô thị theo hướng
hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trường, phải thực hiện di dời nhà máy xí
nghiệp sản xuất trong các đơ thị ra các vùng ngoại thành. KCN là nơi tiếp
nhận các nhà máy xí nghiệp đó tạo nên một địa bàn sản xuất đồng bộ tập
trung. Chính vì vậy, vấn đề quy hoạch phát triển KCN không thể tách rời quy
hoạch phát triển đô thị, phát triển kinh tế. Kinh nghiệm phát triển KCN trong
thời gian qua cho thấy, việc hình thành các khu đô thị mới chỉ trở thành hiện
thực khi có sự phát triển đồng bộ giữa cơng nghiệp, khu dân cư, các cơng
trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội trong và ngoài hàng rào.
1.1.2.2. Những tác động tiêu cực khi thành lập và hoạt động của các khu
công nghiệp
Việc xây dựng và phát triển các KCN, KCX của nước ta trong thời gian
qua bên cạnh những thành tựu đạt được cũng đá bộc lộ những hạn chế, đặt ra
những vấn đề bức xúc cần phải nghiên cứu giải quyết.
Do theo đuổi phong trào xây dựng KCN mà các nhà quản lý và đầu tư
thiếu tính tốn việc thu hút các doanh nghiệp sản xuất nhằm “lấp đầy” KCN
nên dẫn đến tình trạng lãng phí các nguồn lực.
Sự phát triển ồ ạt của các KCN, quy hoạch thiếu đồng bộ, thiếu tầm nhìn
chiến lược đó gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng tăng trưởng kinh tế làm cho
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế khơng theo kịp. Mặt khác, việc phân bố
các KCN giữa các vùng còn bất hợp lý, thành lập quá nhiều KCN, KCX trong
cùng một vùng trong khi khả năng thu hút đầu tư cịn hạn chế khơng phát huy