Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Thạc sĩ kinh tế chính trị-Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế xanh và phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.74 KB, 120 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT
BVTV

: Bảo vệ thực vật

NNHC

: Nông nghiệp hữu cơ

NLKH

: Nông lâm kết hợp

KHKT

: Khoa học kỹ thuật

KHCN

: Khoa học công nghệ


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tái cơ cấu là một q trình phức tạp, khó khăn và lâu dài cần được


thường xuyên đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm để điều chỉnh phù hợp với
thực tế trên cơ sở xây dựng một hệ thống giám sát, đánh giá và tham vấn thông
tin phản hồi từ các bên liên quan. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp là một hợp
phần của tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, phù hợp với chiến lược và
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; gắn với phát triển kinh tế, xã
hội và bảo vệ môi trường. Một trong những quan điểm của tái cơ cấu ngành
nông nghiệp là tăng cường sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, xã hội
từ trung ương đến địa phương trong quá trình tái cơ cấu ngành; đẩy mạnh phát
triển đối tác công tư (PPP) và cơ chế đồng quản lý, phát huy vai trò của các tổ
chức cộng đồng. Nông dân và doanh nghiệp trực tiếp đầu tư đổi mới quy trình
sản xuất, cơng nghệ và thiết bị để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sử
dụng tài nguyên hiệu quả hơn. Nói cách khác, tái cơ cấu ngành nông nghiệp
theo hướng phát triển kinh tế xanh đang là xu hướng chủ đạo trong quá trình
thực hiện đổi mới ngành nơng nghiệp ở nước ta hiện nay.
Sau gần 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã đóng vai trị đặc
biệt quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực, tạo việc làm và thu
nhập cho 70% dân cư, là nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo, góp phần
phát triển kinh tế đất nước và ổn định chính trị - xã hội. Nơng nghiệp Việt
Nam đã có những bước phát triển vượt bậc: giá trị sản xuất và giá trị gia tăng
đã tăng liên tục trong một thời gian dài, sản lượng hàng hóa ngày càng tăng,
xuất khẩu tăng trưởng với tốc độ cao, thu nhập và đời sống của dân cư nông
thôn ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, tăng trưởng nông nghiệp trong thời
gian qua chủ yếu theo chiều rộng thông qua tăng diện tích, tăng vụ và dựa

4


trên mức độ thâm dụng các yếu tố vật chất đầu vào cho sản xuất (lao động,
vốn, vật tư) và nguồn lực tự nhiên cao. Sản xuất nông nghiệp đã và đang có
dấu hiệu gây tác động tiêu cực đến mơi trường như mất đa dạng sinh học, suy

thối tài ngun thiên nhiên, ơ nhiễm nguồn nước, tăng chi phí sản xuất và đe
dọa tính bền vững của tăng trưởng. Vì vậy, chất lượng và sự bền vững của
tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam là vấn đề cần được quan tâm trong giai
đoạn tới. Trong tương lai, nguồn lực cho tăng trưởng nơng nghiệp sẽ khơng
cịn được dồi dào, nơng nghiệp sẽ phải cạnh tranh với các ngành công nghiệp
và dịch vụ khác. Chí phí sản xuất ngày càng cao cũng bắt đầu làm giảm khả
năng cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam với vị thế nhà sản xuất “chi phí
thấp” trên trường quốc tế. Nơng nghiệp sẽ phải nâng cao vị thế cạnh tranh
trên cơ sở nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Điều này có thể đạt được thơng qua tận dụng tiềm năng và cơ hội để nâng cao
hiệu quả sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị gia tăng hàng nông sản, đồng thời
giảm tác động tiêu cực đến môi trường. Vì vậy, cần có những thay đổi tích
cực góp phần xây dựng nông nghiệp tiên tiến, tạo nền tảng cho một nền kinh
tế cơng nghiệp hiện đại, góp phần bảo tồn văn hóa truyền thống, ổn định xã
hội, xây dựng nông thôn Việt Nam ngày càng phồn thịnh, văn minh. Xuất
phát từ yêu cầu khách quan và nội tại của ngành nơng nghiệp, khơng chỉ mơ
hình tăng trưởng địi hỏi phải tái cấu trúc, mà cả cơ cấu sản xuất, tổ chức
chuỗi cung ứng cũng phải thay đổi. Với ý nghĩa đó, tác giả đã lựa chọn đề tài:
“Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế xanh ở Việt
Nam.” để làm đề tài viết luân văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tái cấu trúc ngành nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế xanh là vấn
đề đang được nhiều nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước quan tâm thực hiện
nghiên cứu. Trong đó có thể kế đến các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như:

5


* Nhóm các cơng trình nghiên cứu nước ngồi:
- Micheal Leonard (2010), “Triển vọng chiến lược và vĩ mô toàn cầu:

Tái cấu trúc, không phục hồi”. Tác giả cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính
và sự suy thối kinh tế toàn cầu đã đặt ra yêu cầu cấp bách đối với nền kinh tế
thế giới là tái cấu trúc và thay đổi mơ hình tăng trưởng để phát triển bền vững.
- GS. Dương Thu Bảo (2011),” Chuyển đổi phương thức phát triển
kinh tế và điều chỉnh kết cấu kinh tế”; “Lý thút tài chính cơng và cải cách
thể chế tài chính cơng”; “GS. Hàn Bảo Giang (2011), “Thời kỳ hậu khủng
hoảng tài chính-tiền tệ và sự chuyển đổi mang tính Chiến lược về phương
thức phát triển kinh tế”.Bộ môn nghiên cứu Kinh tế học. Trường Đảng Trung
ương Trung Quốc. Các nghiên cứu của tác giả đã đánh giá sự phát triển của
thế giới trong những năm cuối thế kỷ XX và dự đoán sự phát triển của nền
kinh tế trong những năm đầu thế kỷ XXI.
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu trong nước:
- Nguyễn Đức Thành (2011), “Nền kinh tế trước ngã ba đường”. Tác
giả đã chỉ rõ kinh tế đang chứng kiến những bất ổn vĩ mô tiềm năng, như lạm
phát nâng cao, thâm hụt ngân sách lớn, nợ cơng tiếp tục tích lũy, thâm hụt
thương mại chưa được cải thiện…Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp cho
nền kinh tế như, tiếp tục cải cách kinh tế - xã hội, thay đổi mơ hình tăng
trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế.
- PGS.TS.Nguyễn Thế Chinh (chủ biên) (2003), Kinh tế và Quản lý
Môi trường, Nhà Xuất bản Thống kê.
- Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường (tài liệu dịch
của UNEP) (2011). “Hướng tới nền kinh tế xanh, lộ trình cho phát triển bền
vững và xóa đói giảm nghèo”. Báo cáo tổng hợp phục vụ các nhà hoạch định
chính sách. Nhà xuất bản nơng nghiệp.
Ngồi ra cịn có nhiều bài viết và cơng trình nghiên cứu khác ít nhiều
có bàn đến nền kinh tế xanh trên nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, chưa

6



có bài viết và cơng trình nào tập trung nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ
thống cả về mặt lý luận vá thực tiễn về việc tái cấu trúc ngành nông nghiệp
theo hướng phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, việc nghiên
cứu vấn đề này là quan trọng và cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu liên quan đến đề tài
3.1.Mục đích của đề tài
Đề tài hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái cơ cấu
ngành nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế xanh, trên cơ sở đó đánh giá
thực trạng thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển kinh
tế xanh ở Việt Nam, đồng thời đề xuất phương hướng và giải pháp thực hiện
tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam
giai đoạn 2015-2020.
3.2.Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn của nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa những vấn đề tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng
phát triển kinh tế xanh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo
hướng phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam. Chỉ ra những thành tựu đã đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp thực hiện tái cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam giai đoạn 2015-2020.
4.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tái cơ cấu ngành nông nghiệp
theo hướng phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam hiện nay.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu tái cơ cấu ngành nông nghiệp
theo hướng phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam.

7



- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu quá trình thực hiện tái cơ cấu
ngành nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam trong thời
gian từ năm 2010-2015 và đề xuất các giải pháp đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ
sở và định hướng tư tưởng. Luận văn được trình bày trên những nguyên lý
của khoa học kinh tế chính trị Mác - Lênin, có tham khảo một số các lý thuyết
của kinh tế học, kinh tế phát triển dựa trên những quan điểm và đường lối đổi
mới trong các văn kiện của Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngồi
ra luận văn cịn sử dụng các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài đã được
cơng bố trên các sách, báo, tạp chí.
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau
nhưng chủ yếu là phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp lơgíc
kết hợp với lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống
kê đối chiếu, so sánh để nghiên cứu và trình bày bản chất của vấn đề.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về tái cơ cấu ngành nông
nghiệp theo hướng phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam, đồng thời đề xuất
phương hướng, giải pháp tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc tái cơ cấu ngành
nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Luận văn có thể làm tài liệu cho các nhà hoach định cơ chế, chính
sách về phát triển ngành nơng nghiệp, là tài liệu phục vụ cho việc hoạch định,
nghiên cứu, giảng dạy ở các trường đại học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

8



NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁI CƠ CẤU NGÀNH
NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XANH
1.1. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát
triển kinh tế xanh
1.1.1. Khái niệm tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển
kinh tế xanh
1.1.1.1.Tái cơ cấu ngành nông nghiệp
Tái cơ cấu là thuật ngữ được sử phổ biến trong những năm trở lại đây,
xuất phát từ quan điểm tái cơ cấu kinh tế; đến nay quá trình tái cơ cấu đang
diễn ra mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực, các thành phần kinh tế và đối với cả các
ngành kinh tế, trong đó có ngành nơng nghiệp. Về quan điểm tái cơ cấu ngành
nơng nghiệp có thể hiểu một cách tổng quan thông qua các khái niệm như sau.
Cơ cấu nền kinh tế
Cơ cấu nền kinh tế là sự phân chia nền kinh tế thành những bộ phận kinh
tế thành phần khác nhau. Trong đó tổng thể các bộ phận kinh tế thành phần là
một thể hoàn chỉnh của cả nền kinh tế. Bằng cách xác định tỷ trọng của các bộ
phận kinh tế thành phần theo một đơn vị tính nhất định (tuỳ theo yêu cầu quản
lý và mục đích nghiên cứu) sẽ xác định được cơ cấu của nền kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế
Từ khái niệm về cơ cấu nền kinh tế cho thấy, cơ cấu ngành kinh tế là một
nhóm loại biểu hiện của cơ cấu nền kinh tế. Theo cách hiểu đơn giản nhất, cơ
cấu ngành kinh tế chính là cơ cấu nền kinh tế xác định theo các nhóm ngành
chủ đạo. Những ngành sản xuất này tương đối độc lập với nhau, dựa trên
những đối tượng và sản phẩm sản xuất khác nhau để phân loại được rõ ràng

9



(Dương Ngọc Quang, 2014). Trong đó, theo các nhóm ngành chính hiện nay,
cơ cấu ngành kinh tế bao gồm: Cơ cấu ngành nông, lâm, ngư nghiệp; ngành
công nghiệp và xây dựng; ngành thương mại, dịch vụ.
Cơ cấu ngành nông nghiệp
Cơ cấu ngành nông nghiệp là một trong ba bộ phận lớn nằm trong cơ cấu
ngành kinh tế, bằng cách phân chia ngành nông nghiệp thành các tiểu ngành
nhỏ như: Trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp. Cơ cấu
ngành nơng nghiệp được cấu thành bởi chính cơ cấu của các tiểu ngành thành
phần tương ứng như trên và nằm trong nội bộ của ngành nông nghiệp. Cơ cấu
hợp lý
Cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu hình thành trên cơ sở khai thác, tận dụng
tốt các ngành có lợi thế của nền kinh tế (Bùi Quang Vinh, 2013).
Tái cơ cấu Theo từ điển Wikipedia (2014): "Tái cơ cấu là việc xem xét và
cấu trúc lại một phần, một số phần hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị nào
đó". Khái niệm này gần hơn đối với doanh nghiệp. Đăng trên Tạp chí Tài
chính, Dương Ngọc Quang (2014) cho rằng: “Tái cơ cấu là sự thay đổi chiến
lược, mục tiêu, tầm nhìn của một hệ thống hoặc là sự cơ cấu lại hệ thống bao
gồm các hoạt động như sắp xếp lại, chuyển đổi hình thức hoạt động, xác định
lại mục tiêu, chiến lược, tầm nhìn, các giá trị cốt lõi và chuẩn mực của tổ chức
hay doanh nghiệp.”
Tái cơ cấu nền kinh tế
Hiện nay có khá nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ này. Theo
Quyết định 339/ QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Đề án
tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế” quan điểm về tái cơ cấu kinh tế gồm các nội
dung: (1) Đổi mới tư duy, phân định rõ vai trò, chức năng của Nhà nước và
của thị trường; (2) Kết hợp hài hòa giữa giải quyết các vấn đề quan trọng, cấp
bách với các vấn đề dài hạn, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững; (3)


10


Thúc đẩy phát huy lợi thế cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế và
của các địa phương; (4) Gắn với cải cách nâng cao chất lượng dịch vụ hành
chính các cấp theo hướng tập trung, thống nhất; (5) Tích cực và chủ động hội
nhập quốc tế, thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế để huy động tối
đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực.
Theo ông Bùi Quang Vinh (2013): “Đến nay, mặc dù đã có rất nhiều
cuộc hội thảo lớn, nhỏ được tổ chức, nhưng vẫn chưa thể đưa ra một khái
niệm chung về tái cơ cấu kinh tế. Song có thể hiểu việc điều chỉnh cơ cấu
kinh tế có quy mơ lớn và toàn diện trong thời gian tương đối ngắn, để chuyển
từ bất hợp lý, kém hiệu quả thành cơ cấu hợp lý, hiệu quả hơn được coi là tái
cơ cấu kinh tế.”
Trên góc độ về việc sử dụng các nguồn lực: “Tái cơ cấu kinh tế được
hiểu là quá trình phân bổ lại nguồn lực xã hội theo cơ chế thị trường, qua đó,
nguồn lực xã hội sẽ được phân bổ lại hợp lý hơn, được sử dụng có hiệu quả
hơn.” (Nguyễn Đình Cung, 2013).
Tái cơ cấu ngành nơng nghiệp
Ngay sau khi đưa ra chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế đối với tất các các
ngành, các lĩnh vực. Đối với ngành nông nghiệp, ngày 10 tháng 6 năm 2013,
Theo Quyết định 899/ QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Đề
án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát
triển bền vững”. Đề án đưa ra quan điểm rõ ràng: “Tái cơ cấu nông nghiệp là
một hợp phần của tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân”. Do đó tái cơ cấu
ngành nơng nghiệp có quan điểm nhất quán với tái cơ cấu nền kinh tế.
Theo Đỗ Kim Chung và Nguyễn Phượng Lê (2014) chỉ ra rằng: “Nhiều
quan điểm cho rằng tái cơ cấu nông nghiệp là thay đổi cơ cấu sản phẩm nông
nghiệp. Điều đó chưa hồn tồn đúng. Vì thế, thực chất của tái cơ cấu nông
nghiệp là thay đổi cơ cấu đầu tư cơng cho nơng nghiệp và nơng thơn có cơ hội


11


phát triển phù hợp với tín hiệu thị trường, ổn định và hiệu quả trước các chao
đảo của thị trường và các rủi ro khác. Do đó, tái cơ cấu nơng nghiệp địi hỏi
phải đổi mới chính sách đầu tư công trong phát triển nông nghiệp.”
Từ các quan điểm, nhận định và một số cơng trình nghiên cứu cho thấy,
có thể hiểu: Tái cơ cấu ngành nông nghiệp là một hợp phần của tái cơ cấu
nền kinh tế, trong đó có sự đổi mới căn bản và toàn diện về chiến lược, mục
tiêu, tầm nhìn của ngành. Thơng qua các tác động của chính sách, mà thực
chất là sự thay đổi về chính sách đầu tư cơng (đối với cơ sở hạ tầng, khoa
học công nghệ, lao động, khuyến nông, thú y, bảo vệ thực vật, xúc tiến thương
mại,...) và đổi mới các can thiệp đối với ngành nông nghiệp, nhằm sử dụng
các nguồn lực hợp lý và hiệu quả hơn nữa, từ đó giúp điều chỉnh cơ cấu của
ngành từ chưa hợp lý, kém hiệu quả thành cơ cấu có hợp lý và hiệu quả hơn,
phù hợp với tín hiệu thị trường.
1.1.1.2. Khái niệm kinh tế xanh
Chuyển đổi phương thức phát triển, hướng tới phát triển “Nền kinh tế
xanh” là hướng tiếp cận mới, tuy nhiên xét về dài hạn đây là hướng tiếp cận
phù hợp với xu thế phát triển chung của hệ thống kinh tế toàn cầu
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua các phương thức phát
triển kinh tế khác nhau, từ chế độ cộng sản nguyên thủy, sang chiếm hữu nô
lệ, chế độ phong kiến, tư bản chủ nghĩa (kinh tế thị trường), quá độ xã hội chủ
nghĩa (kinh tế kế hoạch hóa tập trung) và hiện nay đang tìm một hướng đi mới
là sự tích hợp của những ưu điểm các phương thức phát triển đã có điển hình
là Trung Quốc và Việt Nam theo mơ hình “Kinh tế thị trường định hướng
XHCN”, trên cơ sở đó có sự đổi mới phát triển kinh tế phù hợp với từng quốc
gia và từng giai đoạn nhằm mang lại phúc lợi tốt nhất cho con người.
UNEP đã đưa ra khái niệm ban đầu cho rằng: “Nền kinh tế xanh là kết

quả mang lại phúc lợi cho con người và công bằng xã hội, nó có ý nghĩa giảm

12


những rủi ro môi trường và khan hiếm sinh thái”. Từ khái niệm đó cho thấy,
phát triển một nền kinh tế xanh thực chất là vì con người, đảm bảo phúc lợi
cao nhất, đạt mục tiêu công bằng về mặt xã hội và hạn chế tối đa những rủi ro
cho môi trường và hệ sinh thái, tôn tạo và phát triển hệ sinh thái tự nhiên. Một
nền kinh tế xanh đơn giản là một nền kinh tế có mức phát thải thấp, sử dụng
hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo tính cơng bằng về mặt
xã hội. Trong nền kinh tế xanh, sự tăng trưởng về thu nhập và việc làm thông
qua việc đầu tư của Nhà nước và tư nhân cho nền kinh tế làm giảm thiểu phát
thải cacbon, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, sử dụng hiệu quả năng lượng và
tài nguyên, ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học và dịch vụ của hệ sinh
thái. Như vậy khác với trước đây, trong “nền kinh tế nâu”, đầu tư cơng cần
phải có sự điều chỉnh cơ bản thơng qua những chính sách mới được cải thiện
của các quốc gia, ưu tiên cho duy trì và phát triển nguồn vốn tự nhiên, nhất là
những nguồn tài sản thuộc sở hữu chung mang lại lợi ích cho mọi người. Sự
đầu tư đó cũng cần chú ý tới nhóm người nghèo, bởi sinh kế và an sinh của họ
phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và họ là những đối tượng dễ bị tổn thương do
tác động của thiên tai cũng như sự biến đổi khí hậu.
Xét về mặt học thuật, “Nền kinh tế xanh” là sự nâng cấp của “Kinh tế
môi trường”, trong kinh tế môi trường về bản chất đó là “Nghiên cứu mối
quan hệ tương tác, phụ thuộc và quy định lẫn nhau giữa kinh tế và môi trường
(hệ thống hỗ trợ cuộc sống của trái đất) nhằm bảo đảm một sự phát triển ổn
định, hiệu quả, liên tục và bền vững trên cơ sở bảo vệ môi trường và lấy con
người làm trung tâm”, kinh tế xanh nhấn mạnh hơn đầu tư cho phát triển chú
trọng tới giảm thiểu ô nhiễm, nhất là giảm phát thải cacbon và duy trì, phát
triển nguồn vốn của tự nhiên, mang lại quyền hưởng lợi của mọi người do đầu

tư đó mang lại. Theo kết qủa nghiên cứu của các tác giả trong tài liệu “Hướng
tới nền kinh tế xanh” do chương trình mơi trường Liên Hợp Quốc (UNEP)

13


cơng bố năm 2011, mơ hình kịch bản đầu tư xanh với số vốn khoảng 2% GDP
toàn cầu (Khoảng 1300 tỷ USD), trong đó khoảng một phần tư của tổng số
(0,5% GDP) tương đương với số tiền 350 tỷ USD được đầu tư cho các lĩnh
vực sử dụng nhiều vốn tự nhiên như các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp,
nước sạch và thủy sản. Trong mơ hình kinh tế vĩ mơ, các tác giả cũng đã tính
tốn và chỉ ra rằng, xét trong dài hạn, đầu tư vào nền kinh tế xanh sẽ cải thiện
hiệu quả kinh tế và tăng tổng lượng của cải trên toàn cầu. Mặt khác sự đầu tư
đó sẽ đem lại hiệu quả trong việc phục hồi các nguồn tài nguyên có khả năng
tái tạo, giảm thiểu những rủi ro môi trường và tái thiết sự thịnh vượng cho
tương lai. Như vậy xây dựng một nền kinh tế xanh cũng không thay thế và
mâu thuẫn với “Phát triển bền vững”, vì phát triển bền vững thực chất là "sự
phát triển đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến
khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai", phát triển bền vững
nhằm đạt tới mục tiêu dài hạn (mục tiêu thiên niên kỷ), cịn xanh hóa nền kinh
tế là phương tiện đưa chúng ta tới đích của phát triển bền vững.
1.1.1.3. Khái niệm kinh tế xanh trong nông nghiệp
Kinh tế xanh trong nơng nghiệp hay cịn gọi là nông nghiệp xanh (Green
Agriculture) là nền nông nghiệp áp dụng những kiến thức, phương pháp, khoa
học và kỹ thuật canh tác đổi mới nhằm duy trì và nâng cao năng suất nông
nghiệp và lợi nhuận trong khi vẫn đảm bảo việc cung cấp thực phẩm và các
hàng hóa, dịch vụ nông nghiệp một cách bền vững với mục tiêu giảm dần các
yếu tố tiêu cực và khuyến khích các tác động tích cực để phục hồi các nguồn
tài nguyên sinh thái như đất, nước, khơng khí và đa dạng sinh học (vốn tài sản
tự nhiên) bằng cách giảm ô nhiễm và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách

hiệu quả hơn.
Theo tiến sĩ Hans R.Herren trong cuốn “Báo cáo kinh tế xanh” năm
2011 của UNEP (Chương trình Mơi trường Liên hợp quốc), phần “Nông

14


nghiệp - Sự đầu tư cho các hợp phần tự nhiên” thì nơng nghiệp xanh là nền
nơng nghiệp, trong đó việc tăng cường áp dụng những phương thức và kỹ
thuật canh tác nhằm: Duy trì và tăng năng suất, lợi nhuận của các sản phẩm
nông nghiệp trong khi vẫn đảm bảo việc cung cấp lương thực một cách bền
vững; Giảm thiểu những tác động tiêu cực và tạo ra những tác động có lợi
cho mơi trường; Khơi phục các nguồn tài ngun sinh thái (như đất, nước,
khơng khí và các hợp phần của đa dạng sinh học) bằng cách giảm thiểu sự ô
nhiễm và sử dụng các nguồn tài nguyên hợp lý và hiệu quả hơn. Bên cạnh
đó, người dân địa phương phải thích nghi với những kỹ thuật, phương thức
canh tác nơng nghiệp và có kiến thức cũng như hiểu biết của mình về những
chứng chỉ, nhãn hiệu của thị trường như GAP (Good Agriculture Practices phương thức canh tác nông nghiệp tốt), sản phẩm sinh học hay sản phẩm
hữu cơ (organic/biodynamic agriculture), nông nghiệp sinh thái (Ecological
Agriculture)…và những kỹ thuật liên quan.
Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam: Tăng trưởng
xanh trong nông nghiệp là tăng trưởng ngành nông nghiệp về kinh tế, xã hội
và môi trường, hướng tới phục hồi và bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên, giảm thiểu
tác động của biến đổi khí hậu.
Theo đó, các kỹ thuật và phương thức canh tác nông nghiệp được sử
dụng như một công cụ trong q trình xanh hóa nền nơng nghiệp bao gồm:
- Duy trì và nâng cao độ phì nhiêu của đất đai thông qua việc tăng mức
sử dụng những yếu tố dinh dưỡng đầu vào một cách bền vững và tự nhiên, đa
dạng hóa cây trồng và tích hợp giữa chăn ni và trồng trọt.
- Giảm thiểu sự xói mịn đất và cải thiện hiệu quả sử dụng nước bằng

cách sử dụng tối thiểu đất để canh tác và những kỹ thuật canh tác cây trồng
giúp che phủ bề mặt của đất.

15


- Giảm thiểu việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật bằng cách tiến hành
những phương thức quản lý cơn trùng và cỏ dại gây hại có nguồn gốc sinh học.
- Giảm thiểu sự mất mát và lãng phí lương thực bằng cách mở rộng việc
sử dụng những phương tiện và cơ sở vật chất cho việc thu hoạch và bảo quản.
Mặc dù sử dụng các nguồn phân bón hữu cơ và các phương pháp tự
nhiên trong kiểm soát dịch bệnh và diệt trừ cỏ dại là những yếu tố quan trong
nhất trong nền nông nghiệp xanh. Nhưng để đảm bảo an ninh lương thực toàn
cầu cũng cần sử dụng có hiệu quả và hợp lý các loại phân bón vơ cơ và kiểm
sốt dịch bệnh. Nói cách khác, trong giai đoạn đầu của quá trình lâu dài
chuyển đổi sang mơ hình nơng nghiệp xanh cần đặc biệt quan tâm đến việc sử
dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào trong nông nghiệp vô cơ.
1.1.2. Đặc điểm của tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát
triển kinh tế xanh
Tái cơ cấu là một quá trình phức tạp, khó khăn và lâu dài cần được
thường xuyên đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm để điều chỉnh phù hợp với
thực tế trên cơ sở xây dựng một hệ thống giám sát, đánh giá và tham vấn
thông tin phản hồi từ các bên liên quan. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp là một
hợp phần của tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, phù hợp với chiến lược
và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; gắn với phát triển kinh tế,
xã hội và bảo vệ mơi trường.
Trong đó, những đặc điểm của tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng
phát triển kinh tế xanh đó là:
Thứ nhất, tái cơ cấu ngành nơng nghiệp là một hợp phần của tái cơ cấu
nền kinh tế, mang những nét đặc trưng của tái cơ cấu nền kinh tế.

Ngành nơng nghiệp là một trong ba nhóm ngành lớn thuộc tổng thể nền
kinh tế quốc dân. Bởi lẽ đó, tái cơ cấu ngành nơng nghiệp là một hợp phần
của tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế. Tại “Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp

16


theo hướng nâng cao GTGT và phát triển bền vững” quan điểm này cũng đã
được nhấn mạnh. Như vậy, tái cơ cấu ngành nơng nghiệp về nội bộ ngành có
những đặc trưng riêng biệt, song về tổng thể vẫn mang đặc trưng, thống nhất
với quan điểm chung về tái cơ cấu nền kinh tế.
Thứ hai, tái cơ cấu ngành nông nghiệp có sự đổi mới căn bản và tồn
diện về chiến lược, mục tiêu, tầm nhìn của ngành.
Về cơ bản, tái cơ cấu ngành nơng nghiệp là một q trình đổi mới, nhằm
tạo ra “cú huých” lớn thúc đẩy ngành đạt được một diện mạo mới - nền nông
nghiệp hiện đại, tiên tiến, nâng cao GTGT và bền vững. Để làm được điều
này, đổi mới trong quản lý phải thực hiện đầu tiên, trong đó đổi mới căn bản
và tồn diện về chiến lược, mục tiêu, tầm nhìn của ngành là vấn đề then chốt.
Thứ ba, tái cơ cấu ngành nơng nghiệp có sự đổi mới theo hướng hiện đại,
phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và thời kỳ hội nhập.
Tái cơ cấu ngành là hướng tới đổi mới, trong đó đẩy mạnh việc ứng dụng
khoa học công nghệ, kỹ thuật cao vào quản lý và sản xuất, tiếp tục hiện đại
hóa ngành nơng nghiệp mà trong chuyển dịch cơ cấu còn chưa thực hiện triệt
để là tất yếu. Bên cạnh đó, tiếp tục khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh
mún, đẩy mạnh sản xuất theo quy mô lớn, tập trung theo hướng sản xuất hàng
hóa nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và có thể nâng cao chất lượng sản
phẩm nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập.
Thứ tư, tái cơ cấu ngành nơng nghiệp có quan hệ mật thiết với công cuộc
xây dựng nông thôn mới.
Nông nghiệp, nơng thơn và nơng dân là ba vấn đề có quan hệ mật thiết

với nhau, cùng xuất phát từ mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp tiên tiến, cải
thiện thu nhập, đời sống cho lao động nông thôn, xây dựng nơng thơn mới và
tái cơ cấu ngành nơng nghiệp có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đây là hai

17


vấn đề gắn kết chặt chẽ trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, là một
nhiệm vụ chính trị trọng tâm (Nguyễn Hoàng, 2013).
Thứ năm, tái cơ cấu ngành nơng nghiệp là q trình thực thi chính sách
Tái cơ cấu ngành nơng nghiệp là một trong những chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước, do đó thực hiện tái cơ cấu ngành nơng nghiệp chính là một q
trình thực thi chính sách. Trên thực tế, tái cơ cấu ngành nơng nghiệp tại mỗi
địa bàn khác nhau thì q trình thực hiện có thể có những thay đổi nhất định,
song triển khai vẫn nằm trong quá trình thực hiện của chính sách.
1.1.3. Vai trị của tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển
kinh tế xanh
Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế xanh dự kiến
sẽ giúp đạt được một số lợi ích như: tăng lợi nhuận và thu nhập cho nông dân
cùng với đó là góp phần tăng lợi nhuận kinh tế vĩ mơ, tạo điều kiện để ngành
nơng nghiệp có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và lợi ích cho các
dịch vụ hệ sinh thái.
Thứ nhất, năng suất, hiệu quả và lợi nhuận của nông nghiệp xanh.
Nhiều nghiên cứu đã ghi nhận về năng suất và lợi nhuận của các trang
trại bền vững ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Một nghiên
cứu của FAO (Nermes năm 2009) đã phân tích 50 trang trại, phần nhiều là ở
Mỹ và đưa ra kết luận: “ Đại đa số trường hợp cho thấy rằng các trang trại
hữu cơ có lợi nhuận về kinh tế lớn hơn”.
Có những ví dụ khác nhau về năng suất và lợi nhuận lớn hơn tại các
nước đang phát triển. Một nghiên cứu của Pretty và các cộng sự năm 2010

được tiến hành tại 12,6 triệu trang trại với hơn 37 triệu ha (3% diện tích canh
tác ở các nước đang phát triển) cho thấy năng suất bình quân tăng khoảng
80% là kết quả của nông dân tại 57 quốc gia nghèo thông qua 286 sáng kiến
“canh tác tiên tiến”. Các cải tiến bao gồm quản lý dinh dưỡng và sâu bệnh
tổng hợp, bảo tồn đất canh tác, nông lâm kết hợp, nuôi trông thủy sản…Tất cả

18


các nghiên cứu đều đánh giá cao vai trò của hiệu quả sử dụng nước, trong đó
hiệu quả cao nhất đạt được vào mùa mưa.
Tiềm năng hấp thụ các bon trung bình là 0,35 tấn C/ha/năm. Với các
thơng tin về thuốc bảo vệ thực vật của các dự án, kết quả chỉ ra rằng việc sử
dụng thuốc trừ sâu giảm từ 77% xuống 71% trong khi sản lượng tăng 42%.
Một ví dụ khác, các trang trại sinh thái tiêu biểu được ghi nhận với sự gia tăng
100% năng suất trên mỗi ha do việc sử dụng kỹ thuật chống chịu của đất,
chẳng hạn như ứng dụng phân trộn và các loại cây họ đậu trong quá trình
canh tác cây trồng (Dobbs và Smolik 1996; Drinkwater và các cộng sự năm
1998; Echvards năm 2007). Đối với trang trại nhỏ ở Châu Phi, nơi mà sử
dụng các yếu tố đầu vào tổng hợp cịn thấp, quy trình chuyển đổi phương
pháp canh tác bền vững đã giúp tăng sản lượng và thu nhập. Tại một dự án do
1000 nông dân ở Nam Nyanza, Kenya canh tác. Tại một dự án, trung bình
mỗi 2ha, năng suất cây trồng tăng 2-4 tấn/ha sau một thời gian chuyển đổi
quy trình canh tác. Trong trường hợp khác, thu nhập của 30.000 nông hộ nhỏ
ở Thika, Kenya tăng 50% trong vòng 3 năm sau khi họ chuyển sang sản xuất
hữu cơ (Hine và Pretty năm 2008).
Một phần quan trọng trong chi phí sản xuất của trang trại có liên quan
đến năng lượng đầu vào và phương thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ với
hiệu suất sử dụng năng lượng cao. Ví dụ, hiệu quả sử dụng năng lượng từ
trồng lúa hữu có có thể gấp bốn lần so với phương pháp truyền thống

(Mendoza năm 2002). Nghiên cứu cũng cho thấy rằng, nông dân canh tác
theo phương pháp hữu cơ tận dụng được 36% năng lượng đầu vào trên mỗi ha
cao hơn so với nông dân trồng lúa thông thường.
Niggli và các cộng sự năm 2009 nhận thấy rằng, nông nghiệp hữu cơ làm
giảm nhu cầu năng lượng của các hệ thống sản xuất từ 25%-50% so với nông
nghiệp dựa vào hóa chất thơng thường. Tiêu thụ năng lượng trong các hệ

19


thống cách tác hữu cơ giảm từ 10%-70% tại các nước Chấu Âu và từ 28%32% ở Mỹ. Trường hợp một số cây trồng ngoại lệ như khoai tây và táo sử
dụng năng lượng bằng hoặc cao hơn (Pimentel và các cộng sự năm 1983 và
Hill năm 2009).
Hiện nay đã có phí bảo hiểm mức giá thị trường thường xun đối với
các sản phẩm bền vững (ví dụ như sản phẩm hữu cơ). Tuy nhiên, mức phí này
có thể khơng được ưu đãi thích hợp lâu dài, trừ khi có một sự gia tăng tương
xứng trong nhu cầu tiêu dùng tồn cầu đối với các sản phẩm nơng nghiệp bền
vững (ví dụ như ở các nước EU và Hoa Kỳ). Ưu đãi về giá có thể giảm tương
đối trong quá trình cân bằng cung - cầu (Oberholtzer và các cộng sự 2005).
Hơn nữa, nếu những lợi ích dịch vụ hệ sinh thái của hoạt động canh tác
bền vững được tính vào giá trị và thu nhập cho nông dân, sản phẩm nông
nghệp xanh sẽ trở nên cạnh tranh hơn so với các sản phẩm thơng thường.
Thứ hai, lợi ích kinh tế vĩ mô từ nông nghiệp xanh
Nông nghiệp xanh được mong chờ sẽ mang lại lợi ích có ý nghĩa về kinh
tế vĩ mơ và xóa đói giảm nghèo. Các khoản đầu tư nhằm tăng năng suất của
ngành nông nghiệp đã được chứng minh là hiệu quả gấp đôi trong xóa đói
giảm nghèo ở nơng thơn hơn là đầu tư trong bất cứ lĩnh vực nào khác (ADB
năm 2010). Những câu chuyện thành cơng lớn nhất trong việc giảm đói nghèo
là từ Trung Quốc, Ghana, Ấn Độ, Việt Nam và một số quốc gia châu Mỹ La
Tinh, tất cả đều có tỷ lệ đầu tư rịng trong nơng nghiệp cho một nhân công cao

hơn so với hầu hết các nước đang phát triển khác (FAO, năm 2011).
Ngồi ra, nơng nghiệp xanh nhắm đến một thị phần lớn hơn trong tổng
chi phí đầu vào nơng nghiệp nhờ việc mua đầu vào có nguồn gốc địa phương
(ví dụ như lao động và phân bón hữu cơ), góp phần tạo ra nhiều tác động tích
cực cho địa phương. Nhìn chung, kỹ thuật canh tác xanh có xu hướng địi hỏi
nhiều lao động đầu vào hơn so với canh tác thông thường (khoảng 30%)

20


(FAO năm 2007 và Uỷ ban Châu Âu năm 2010), do đó tạo cơng ăn việc làm
nhiều hơn cho khu vực nông thôn. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các
quốc gia có thu nhập thấp, nơi có số lượng lớn người nghèo liên tục rời khỏi
các khu vực nơng thơn tìm kiếm việc làm ở các thành phố và tỷ lệ ngày càng
gia tăng lao động trẻ chịu áp lực lớn trong việc tìm kiếm việc làm. Ngồi ra,
hầu hết các quốc gia thu nhập thấp bị thâm hụt thương mại đáng kể (Ngân
hàng thế giới 2010) do thiếu sự trao đổi hợp tác quốc tế trong việc huy động
các nguồn lực. Nơng nghiệp xanh có thể giảm bớt căng thẳng do hạn chế
ngoại hối nhờ việc giảm nhập khẩu đầu vào do được thay thế bởi các nguồn
lực có sẵn tại địa phương và tăng xuất khẩu các sản phẩm lương thực bền
vững và vì thế các quốc gia này có khả năng mua cơng nghệ và các yếu tố đầu
vào quan trọng khác cho phát triển nơng nghiệp xanh.
Thứ ba, thích ứng và giảm nhẹ tác động của thời tiết, khí hậu và các dịch
vụ hệ sinh thái.
Nông nghiệp xanh giúp nền nông nghiệp vững vàng hơn trước các hiện
tượng hạn hán, lũ lụt và nhiệt độ thay đổi, đồng thời hướng tới đa dạng sinh
học trong nông nghiệp và cải thiện chất lượng đất đai. Các kỹ thuật canh tác
dựa vào đa dạng sinh học cho phép các trang trại áp dụng các quá trình sinh
thái tự nhiên, đáp ứng tốt hơn với thay đổi mơi trường và khí hậu, giảm rủi ro,
thiệt hại. Việc sử dụng đa dạng các loài sinh vật nội địa và ngoại lai được xem

như giải pháp chống lại những thay đổi mơi trong tương lai nhờ tăng khả năng
thích ứng của hệ thống (Ensor 2009). Vấn đề cải thiện đất bằng các chất hữu
cơ từ việc sử dụng phân xanh, lớp phủ, và chất thải trồng trọt và chăn nuôi tái
chế sẽ làm tăng khả năng giữ nước, hấp thụ nước của đất khi có mưa.
Viện Nghiên cứu Chính sách lương thực quốc tế (IFPRI) ước tính rằng,
cần bổ sung thêm 7,1-7,3 tỷ đô la Mỹ mỗi năm đầu tư cho nông nghiệp để hạn
chế tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu vào năm 2050. Nguồn đầu tư cho

21


IFPRI đề nghị nên tập trung chủ yếu cho cơ sở hạ tầng cơ bản như đường giao
thông nông thôn ở Châu Phi, mở rộng hệ thống thủy lợi và đầu tư cho nông
nghiệp (Nelson và các cộng sự năm 2009). Tuy nhiên, khi tiến hành đánh giá
các lực chọn đầu tư xanh trong nông nghiệp cần nghiên cứu nâng cao độ phì
nhiêu của đất trong nơng nghiệp sinh thái,
IPCC ước tính rằng tiềm năng giảm thiểu các bon tồn cầu trong ngành
nơng nghiệp tính đến năm 2030 là khoảng 5.500 - 6.000 triệu tấn CO 2 tương
đương/năm (Smith và cộng sự 2007). Hấp thụ các bon trong đất là cơ chế chủ
yếu đối với hầu hết quá trình này, đóng góp 89% tiềm năng. Vì vật, ngành
nơng nghiệp có tiềm năng làm giảm đáng kể phát thải khí nhà kính và có thể
hoạt động như một bể chưa các bon trong vòng 50 năm tới. Cơ hội quan trọng
nhất để giảm thiểu khí nhà kính là ứng dụng các bon làm giàu chất hữu cơ
(mùn) vào đất. Điều này này làm giảm đáng kể nhu cầu về nhiên liệu hóa
thạch dựa vào phân khống và năng lượng, đồng thời là một phương tiện hiệu
quả cô lập các bon trong khí quyển.
Các dịch vụ mơi trường được cung cấp bởi các trang trại xanh là rất lớn.
Viện Rodale đã ước tính rằng chuyển đổi nơng nghiệp hữu cơ có thể thu hồi
thêm 3 tấn các bon mỗi ha một năm (LaSalle và các cộng sự năm 2008). Hiệu
quả hấp thụ các bon của các hệ thống hữu cơ ở vùng khí hậu ơn đới lớn hơn

gần gấp đơi (575 - 700kg các bon mỗi ha mỗi năm) tùy thuộc từng loại đất.
Trang trại hữu cơ ở Đức hàng năm hấp thụ 402kg các bon/ha, trong khi các
trang trại thông thường phát thải 637kg. Từ những nghiên cứu như vật, có thể
ước tính rằng nếu tất cả các trang trại nhỏ trên hành tinh sử dụng phương thức
canh tác bền vững, có thể hập thụ tổng cộng 2,5 tỷ tấn các bon mỗi năm. Như
vật, mức độ hấp thụ các bon có thể là tương đương với 49 tỷ USD tín dụng
các bon mỗi năm với mức giá giả định 20 đô la Mỹ/tấn CO2.

22


Hơn nữa, lượng khí thải oxi nitơ và mêtan có thể được giảm thiểu nếu
nơng dân sử dụng phân bón nitơ và các loại phân bón khác hiệu quả hơn, kể
cả thơng qua các phương pháp sử dụng phân bón hợp lý hoặc bổ sung thêm
các giống cây trồng cải thiện hiệu quả hấp thụ dinh dưỡng và sử dụng nitơ có
sẵn trong đất. Nơng nghiệp xanh có tiềm năng trở thành nguồn cung cấp nitơ
thông qua ủ phân từ chất thải trồng trọt và chăn nuôi và gia tăng trồng ln
canh giữa các cây vụ chính với cây họ đậu, cây cố định nitơ. FAO đã ghi nhận
rằng, nếu chuyển đổi rộng rãi diện tích đất trồng trọt sang canh tác hữu cơ có
thể giảm tối thiểu 40% (2,4 Gt* CO2 tương đương/năm) phát thải khí nhà kính
nơng nghiệp trên toàn cầu và lên đến tối đa 65% (4 Gt CO 2 tương đương/
năm). (Scialabba và Muller - Lindenauf năm 2020).
Các tác động tích cực đối với hệ sinh thái từ nông nghiệp xanh bao gồm
chất lượng đất được cải thiện, tăng nguồn cung cấp nước, tái chế chất dinh
dưỡng tốt hơn, bảo vệ động vật hoang dã và kiểm soát bão, lũ lụt (Pretty và
các cộng sự năm 2001, OECD năm 1997).
1.1.4.Nội dung của tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát
triển kinh tế xanh
Thứ nhất, đảm bảo khả năng tăng trưởng ổn định, bền vững của nền
nơng nghiệp

Cho dù là ở bất cứ mơ hình kinh tế nào thì trước tiên, mơ hình đó phải
đảm bảo khả năng tăng trưởng ổn định, và đó là điều kiện cần cho một mơ
hình kinh tế mới được chấp nhận. Phát triển nông nghiệp theo hướng tăng
trưởng xanh cũng khơng thể nằm ngồi quy luật đó. Phát triển nơng nghiệp
theo hướng tăng trưởng xanh phải đảm bảo khả năng tăng trưởng ổn định,
mang tính lâu dài cho ngành nơng nghiệp, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh
tế, quá trình chuyển dịch 5 cơ cấu ngành kinh tế, tổng GDP của ngành….. Hạt

23


nhân của sự phát triển này phải đạt mức cao, liên tục và ổn định trong nhiều
năm liên tiếp, sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng tốt, được thị trường chấp
nhận dựa trên sự ứng dụng những tiến bộ về khoa học công nghệ.
Để đảm bảo tăng trưởng ổn định, bền vững của nhành nơng nghiệp trên
ba khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường trong thực hiện tái cơ cấu ngành
nông nghiệp. Trong từng lĩnh vực cụ thể, nội dung được xác định:
- Trồng trọt: Tái cơ cấu trồng trọt theo hướng phát triển sản xuất quy mô
lớn, tập trung gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị trên cơ
sở phát huy lợi thế sản phẩm và lợi thế vùng, miền; Cơ cấu lại hệ thống tổ
chức sản xuất, thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích doanh
nghiệp liên kết, ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản với nơng dân;
phát triển các nhóm nơng dân hợp tác tự nguyện, liên kết sản xuất theo chuỗi
giá trị; Hỗ trợ tập huấn, khuyến nông và các dịch vụ tư vấn nhằm nâng cao kỹ
thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch cho nông dân v.v...
- Chăn nuôi: Phát triển chăn nuôi tập trung, trang trại, gia trại; hình
thành các vùng chăn ni xa thành phố, khu dân cư; khuyến khích áp dụng
cơng nghệ cao, tổ chức sản xuất khép kín hoặc liên kết giữa các khâu trong
chuỗi giá trị từ sản xuất giống, thức ăn, đến chế biến để nâng cao năng suất,
cắt giảm chi phí, tăng hiệu quả và giá trị gia tăng; v.v...

- Thủy sản: Tập trung sản xuất thâm canh các đối tượng nuôi chủ lực
(tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá tra, rô phi, nhuyễn thể); tiếp tục đa dạng hóa
đối tượng và phương pháp ni để khai thác cơ hội thị trường; khuyến khích
ni cơng nghiệp, áp dụng cơng nghệ cao, quy trình thực hành ni tốt (GAP)
phù hợp quy chuẩn quốc tế; Đầu tư thiết bị, công nghệ hiện đại trong chế biến
nâng cao giá trị sản phẩm; cơ cấu lại sản phẩm chế biến đông lạnh theo hướng
giảm tỷ trọng các sản phẩm sơ chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm ăn liền, giá trị
gia tăng cao; mở rộng áp dụng hệ thống quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm

24


(theo ISO, HACCP, GMP, SSOP); nghiên cứu và đầu tư ứng dụng công nghệ
bảo quản trong và sau thu hoạch để giảm tỉ lệ thất thoát và xuất khẩu thủy sản
sống có giá trị cao.
- Lâm nghiệp: Phấn đấu năm 2020 đạt cơ cấu kinh tế ngành là: 25% giá
trị dịch vụ môi trường rừng, 25% giá trị sản xuất lâm sinh và 50% giá trị công
nghiệp chế biến đồ gỗ và lâm sản khác; chuyển đổi cơ cấu sản phẩm từ khai
thác gỗ non xuất khẩu dăm gỗ sang khai thác gỗ lớn nhằm tạo vùng nguyên
liệu tập trung, cung cấp gỗ cho công nghiệp chế biến đồ gỗ xuất khẩu, giảm
dần nhập khẩu gỗ nguyên liệu.
- Sản xuất muối: Đến năm 2020, sản lượng muối cả nước đạt khoảng
1,35 triệu tấn, trong đó muối cơng nghiệp chiếm 70%, muối thủ công
chiếm 30%.
- Phát triển công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn
Ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu, đổi
mới công nghệ, thiết bị kết hợp với các biện pháp về tổ chức sản xuất, tiêu thụ
hàng hóa nhằm nâng cao giá trị gia tăng nông, lâm, thủy sản; phấn đấu mỗi
ngành hàng có mức tăng ít nhất 20% giá trị gia tăng trong vòng 10 năm; gắn
hoạt động kinh tế của các làng nghề với hoạt động dịch vụ du lịch và bảo tồn

phát triển văn hóa truyền thống; yêu cầu các thành phần kinh tế đầu tư vào
lĩnh vực chế biến nông lâm thủy sản và ngành nghề nông thôn phải đầu tư
đồng bộ hệ thống xử lý nước thải, chất thải, khí thải, bảo vệ mơi trường.
Tiêu chí đánh giá: Sử dụng các chỉ tiêu tăng trưởng sau:
- Giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp.
- Tốc độ tăng trưởng bình qn.
- Tốc độ phát triển liên hồn.
- Năng suất cây trồng; năng suất vật nuôi hàng năm.
- Thu nhập bình quân đầu người/ năm.

25


×