CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ GIẢI PHÁP
Mã số: ………………………….
I. Tên sáng kiến: “RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TRÌNH BÀY ĐOẠN VĂN”.
II. Lĩnh vực áp dụng: Môn Ngữ Văn.
III. Mô tả bản chất của giải pháp.
1.Tình trạng giải pháp đã biết.
Dựng một đoạn văn ngắn là một trong những nội dung có trong cấu trúc đề
kiểm tra học kỳ lớp 8 và thi chuyển cấp của lớp chín , nó góp phần làm nên kết quả
tốt cho các kỳ thi, đồng thời nó cịn là yếu tố cần và đủ để học sinh tạo lập văn bản.
Thế nhưng, trong các lần kiểm tra và thi học sinh lại làm không tốt ở nội dung
này. Qua khảo sát thực tế cho thấy khi làm bài phần dựng đoạn không bao giờ các
em đạt được 100 % tròn điểm trên tổng số bài làm của học sinh trong lớp, mà
thường chỉ một số ít khoảng 30% – 40% học sinh/ lớp đạt tròn điểm. Đây là kết
quả không cao lắm và là nổi lo của một giáo viên dạy lớp như chúng tôi, ngun
nhân do đâu? Khi tìm hiểu ngun nhân tơi nhận ra được các lỗi mắc phải thường
thấy ở học sinh khi dựng đoạn văn là:
Học sinh chúng ta đa số chưa biết xây dựng một đoạn văn như thế nào? mặc
dù đã học xong hoặc có nhiều học sinh hiểu khái niệm về một đoạn văn rất mơ hồ
các em hiểu rất nhiều cách khác nhau. Có khi các em hiểu đoạn văn chỉ được dùng
với ý nghĩa phân đoạn nội dung từ đó các em nhầm lẫn giữa đoạn văn với bố cục
bài văn. Hay các em hiểu đoạn văn theo đúng kiểu hình thức, nghĩa là “Muốn có
đoạn văn chỉ cần chấm xuống dòng, mỗi chỗ chấm xuống dòng sẽ cho ta một đoạn
văn” như vậy các em cịn hiểu đoạn văn q mơ hồ. Chính vì hiểu mơ hồ như thế
nên các em khi dựng đoạn văn cứ được mấy câu là các em xuống dòng mà khơng
chú ý đến nội dung, vì thế dẫn đến hậu quả là khó xây dựng những đoạn văn hay
cho văn bản hoặc không đạt kết quả cao trong dựng đoạn văn ngắn theo yêu cầu
cấu trúc bài thi. Hoặc ngược lại khi xây dựng đoạn văn các em thường sai là viết
thành nhiều đoạn văn các em tùy tiện chấm qua hàng không theo qui ước của một
1
đoạn văn mặc dù tôi đã nhắc rất nhiều lần. Ví dụ theo cấu trúc đề thi thì thường là
câu 3 là câu dựng đoạn văn ngắn thì các em lại viết thành nhiều đoạn trong khi câu
4 là bài tập làm văn thì các em lại làm có một đoạn văn khơng mở, khơng kết gì cả.
Về nội dung đoạn văn các em chưa liên kết chặt chẽ, chủ đề các ý trong các
câu không phục vụ chủ đề chung của đoạn văn, thêm vào đó các em chưa vận
dụng tốt các phép liên kết đã học ở lớp dưới để liên kết đoạn, dẫn đến đoạn văn rời
rạc thiếu mạch lạc có đơi lúc vơ nghĩa.
Khi xây dựng đoạn văn các em thường không xây dựng đúng cấu trúc đoạn
văn gồm 3 phần: mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.
Đôi khi viết đoạn, các em lại không bám vào yêu cầu đề cho nhất là phần
giới hạn. Vì hiện nay, khi ra đề viết đoạn văn ngắn người ra đề thường yêu cầu viết
đoạn văn với giới hạn từ 3 đến cao nhất 7 dịng, các em làm có thể thiếu hoặc dư
quá nhiều. Do đó, các em lại bị trừ điểm ở phần này.
Kiến thức xã hội các em cịn q ít sẽ dẫn đến việc viết khơng tốt các đoạn
văn thuyết minh hoặc nghị luận xã hội
Về Giáo viên : trong quá trình hướng dẫn trên lớp cũng như ở nhà có lúc
cịn chung chung chưa cụ thể hóa cơng việc nên các em chưa làm tốt theo yêu
cầu,giáo viên chưa hướng dẫn kĩ từng câu trong đoạn có vai trị gì ? …
Đây chính là những ngun nhân làm cho chất lượng học mơn văn thấp.
Chính điều này đã thúc đẩy tôi chọn đề tài : “Rèn luyện kĩ năng trình bày đoạn
văn ”.
2 Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến.
2.. Mục đích của giải pháp.
Bản thân thực hiện nghiên cứu sáng kiến kinh nghiện này với một mục đích
là tìm ra những hướng đi mới , rút kết những kinh nghiệm qua thời gian thực
nghiệm thực tế trên lớp . Từ đó , có thể giúp ích cho q đồng nghiệp một số kinh
nghiệm rèn kỹ năng dựng đoạn văn vào giảng dạy ngữ văn 8 và 9 cho nó trở nên
gần gũi, dễ hiểu, dễ ứng dụng , giúp giáo viên giảng dạy bộ mơn Ngữ văn có thể
ứng dụng để nâng cao chất lượng bài giảng, nâng cao chất lượng học tập bộ mơn .
Đồng thời cùng với q đồng nghiệp trao đổi, bàn bạc kinh nghiệm tìm ra cách giải
2
quyết tốt nhất để có thể hồn thành nhiệm vụ nhà trường và xã hội giao. Tạo cho
học sinh cái nhìn mới về bộ mơn văn một cách tích cực hơn .Đây chính là những
mong muốn thiết thực nhất mà tôi muốn khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm .tạo
cho học sinh cái nhìn mới về bộ mơn văn một cách tích cực hơn .
2.2. Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp:
- Đưa ra những kỹ thuật dựng đoạn văn từ những từ trọng tâm sau đó mở
rộng thành đoạn.
- Hướng dẫn cụ thể cho HS viết một cách cụ thể và cách thực hiện khi trình
bày ;
+Cách viết mở đoạn - thân đoạn - kết đoạn đúng yêu cầu.
+Luyện viết đoạn: Đầu tiên viết thử chia sẻ giao lưu với các bạn trong lớp,
nhận xét, góp ý , bổ sung hoàn chỉnh đoạn. Sau cùng nâng cao lên viết đúng, viết
hay.
2.3. Mô tả chi tiết bản chất của giải pháp:
Để hoàn thành những định hướng đã đặt ra, dựa trên thực tế đã làm, tơi xin
trình bày những biện pháp chính đã áp dụng như sau:
2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Cung cấp kiến thức đoạn văn
Để giúp các em viết tốt đoạn văn nghị luận chúng ta cần tập trung rèn các kỹ
năng hoặc cần cho học sinh nắm các yêu cầu sau đây:
- Muốn học sinh hiểu sâu sắc đoạn văn, giáo viên cần phải cho các em nắm
chắc lý thuyết . Không chỉ cung cấp cho các em lý thuyết về đoạn văn mà phải
cung cấp cả những lý thuyết về những vấn đề liên quan trong đoạn văn, cụ thể
“Câu chốt, đề tài,các kiểu liên kết, các cách trình bày nội dung trong đoạn văn”. Có
như thế thì các em mới nắm chắc được đoạn văn và sử dụng nó khi viết văn bản .
- Đoạn văn về nội dung : là một ý hồn chỉnh ở một mức độ nhất định nào
đó về ngữ nghĩa. Mỗi đoạn văn diễn đạt một ý cơ bản có kết cấu khép kín và thể
hiện chủ để thống nhất.
- Đoạn văn ln hồn chỉnh về hình thức thể hiện ở những điểm sau: mỗi
đoạn văn gồm một số câu nằm giữa 2 dấu chấm xuống dòng, liên kết chặt chẽ với
3
nhau bằng các phép liên kết . Chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa và lùi
vào so với các dòng khác trong đoạn .
Mỗi đoạn văn dù dài hay ngắn cũng có ba phần: mở đoạn, thân đoạn, kết
đoạn.
Giáo viên cần giới thiệu thêm cho học sinh nắm nhiệm vụ của từng phần để
học sinh làm bài tốt hơn.
* Mở đoạn: giới thiệu ý cơ bản của cả đoạn một cách ngắn gọn, không được
đưa vào những ý cụ thể, lý lẽ hoặc dẫn chứng . Thường người ta mở đoạn bằng
một câu và nó được đặt ở đầu đoạn .
* Thân đoạn: Gồm nhiều ý nhỏ mỗi ý ứng với một hoặc vài câu văn, có
nhiệm vụ cụ thể hóa ý cơ bản nêu ở phần mở đoạn. Các ý này phải liên kết với
nhau về chủ đề và lo-gic.
* Kết đoạn: Có nhiệm vụ kết thúc đoạn làm nổi bật vấn đề đã giải quyết
trong đoạn về nội dung ta có thể bộc lộ tình cảm, thái độ của mình đối với vấn đề
đã giải quyết trong đoạn.. Về hình thức ta có thể sử dụng một câu văn khẳng định
ngắn gọn, rõ ràng hoặc một câu hỏi tu từ để bộc lộ thái độ, tình cảm.
- Ngồi ra, chúng ta cần luyện học sinh cách trình bày nội dung đoạn văn
theo kết cấu: qui nạp, diễn dịch, móc xích, song hành, v.v…. và cách vận dụng các
phép liên kết câu: phép nối, phép lặp, phép thế, liên tưởng, phép nghịch đối, phép
tương đồng v.v… vào trong đoạn văn.
+ Kết cấu đoạn văn.
Trong văn bản, nhất là văn nghị luận, ta thường gặp những đoạn văn có kết
cấu phổ biến:quy nạp, diễn dịch ,song hành; bên cạnh đó là đoạn văn có kết cấu so
sánh, nhân quả, vấn đáp, đòn bẩy, nêu giả thiết, …
* Đoạn diễn dịch
Đoạn diễn dịch là một đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát
đứng ở đầu đoạn,các câu còn lại triển khai ý tưởng chủ đề, mang ý nghĩa minh hoạ,
cụ thể. Các câu triển khaiđược thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh,
phân tích, bình luận; có thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận
của người viết.
4
* Đoạn quy nạp.
Đoạn văn quy nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý chi tiết, cụ thể
nhằm hướng tới ý khái quát nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được trình bày bằng
thao tác minh hoạ, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh giá chung .
* Đoạn song hành.
Đoạn văn song hành là đoạn văn được trình bày theo kiểu khơng có câu chủ
đề mà có từ ngữ chủ đề. Từ ngữ chủ đề chính là đối tượng mà đoạn văn trình bày
đặt ở đầu đoạn văn. Các câu tiếp theo trình bày cụ thể, chi tiết làm rõ đối tượng
trình bày .
Yêu cầu HS nắm vững kiến thức về đoạn văn như thế mới thực hiện viết
đoạn văn .
Khi viết trước hết phải xác định kiểu đoạn văn ,nội dung đoạn văn .Từ đó
thực hiện câu chủ đề ,xem câu chủ đề có khái quát được nội dung của đoạn văn
chưa? Viết bằng kiểu câu nào ? Những ý tiếp theo trình bày bằng mấy câu , những
câu đó có hướng vào câu chủ đề không , câu kết đoạn phải kết thúc ra sao? Viết
câu phải chọn lựa từ ngữ nào để làm rõ nội dung và có giá trị biểu cảm...
* Khi thực hiện giải pháp này cho các lớp tôi đang đảm trách tôi nhận thấy
rằng:
+ Ưu điểm: Học sinh nắm được thế nào là một đoạn văn. Từ đó các em nhận
dạng được đâu là đoạn văn đâu là bài văn, viết đúng yêu cầu một đoạn văn tránh
được các sai sót, học sinh hiểu bài. Học sinh biết dựng đoạn văn có bố cục ba phần
và cách trình bày nội dung đoạn văn như thế nào? Kết quả có nâng lên trong các
lần kiểm tra mà đề bài có viết đoạn văn . Cụ thể qua các em đã biết tạo đoạn từ
một câu chốt, hình thành một đoạn theo cấu trúc đoạn ( đối với học sinh khá giỏi
tơi khuyến khích các em dựng với nhiều cách riêng cịn đối với học sinh trung
bình , yếu tơi hướng dẫn cho các em trình bày đoạn văn theo cách diễn dich sẽ dễ
dàng hơn . )
+ Khuyết điểm: Các em vẫn chưa liên kết câu làm cho đoạn văn mạch lạc, đây
cũng chính là cái mà tơi cần rèn kỹ thêm cho các em ở các giờ luyện tập .
2.3.2. Giải pháp thứ hai : Phương pháp liên kết đoạn
5
Như chúng ta đã biết, bài văn là một thể thống nhất, hoàn chỉnh được tạo
nên bởi các phần, các đoạn, các câu. Do đó giữa các phần, các đoạn, các câu cần có
sự kết dính với nhau vì nếu khơng có sư kết dính ấy bài văn sẽ trở nên rời rạc,
thiếu thống nhất.Sự kết dính với nhau ấy được gọi là sự liên kết.Trong đó liên kết
các đoạn văn là một thao tác quan trọng .
Các vị trí liên kết đoạn .Có các vị trí như sau:
- Giữa các phần bố cục của bài tức là giữa phần mở bài với phần thân bài,
giữa phần thân bài với thần kết bài.
- Giữa các đoạn trong từng phần nhất là giữa các đoạn trong phần thân bài.
- Các cách liên kết đoạn
a / Dùng từ ngữ để liên kết:
Tùy theo mối quan hệ giữa các đoạn các phần mà ta sẽ có cách dùng thích
hợp.
+ Nối các đoạn có quan hệ thứ tự ta có các từ ngữ sau: trước tiên, trước
hết, thoạt nhiên, tiếp theo, sau đó, cuối cùng,một là, hai là, bắt đầu là…
+Nối các đoạn có quan hệ song song ta có các từ: một mặt, mặt khác,
ngồi ra, bên cạnh đó…
+ Nối các đoạn có quan hệ tăng tiến có : vả lại, hơn nữa, thậm chí…
+ Nối các đoạn có quan hệ tương đồng có : tương tự, cũng thế, cũng vậy,
cũng giống như trên…
+ Nối các đoạn có quan hệ tương phản ta có: nhưng, tuy nhiên, tuy thế, tuy
vậy, thế nhưng, trái lại, ngược lại,…
+ Nối các đoạn có quan hệ nhân quả ta có: bởi vậy, do đó, vì thế cho nên…
+ Nối một đoạn có ý nghĩa tổng kết các đoạn trước ta có : tóm lạị, nói tóm
lại, chung quy, tổng kết lại…
b / Dùng câu để liên kết :
Đó là những câu nối thường đứng ở đầu câu hoặc có khi đứng ở cuối đoạn
văn nhằm mục đích liên kết đoạn có chứa nó với đoạn khác.Nội dung thông tin
chứa trong câu nối này hoặc đã được đề cập đến ở đoạn trước hoặc sẽ được trình
bày kĩ ở đoạn sau.
6
c/ Dùng phép lặp cú pháp (điệp kiểu câu):
Câu trước nhắc lại chủ đề đã giải quyết ở phần, đoạn trên; câu sau nói đến
chủ đề sẽ giải quyết ở phần, đoạn dưới.
d/ Tiểu kết ngắn gọn :
Tiểu kết ngắn gọn nội dung, luận điểm đã trình bày ở đoạn trước và đưa ra
nội dung, luận điểm khác có liên quan để tiếp tục giải quyết ở đoạn sau.
* Khi thực hiện giải pháp này cho các lớp tôi đang đảm trách tôi nhận thấy
rằng:
+ Ưu điểm: Học sinh nắm được thế nào là liên kết một đoạn văn. Từ đó các
em vận dụng vào viết đoạn văn làm cho đoạn văn mạch lạc hơn . Kết quả có nâng
lên trong các lần kiểm tra mà đề bài có viết đoạn văn ,. Cụ thể các em học khá đã
biết lựa chọn các phép liên kết phù hợp cho đoạn văn mình đang dựng .
+ Khuyết điểm: Các em yếu vẫn chưa liên kết câu làm cho đoạn văn mạch
lạc, một phần là do các em lười học bài đây cũng chính là cái mà tơi cần rèn kỹ
thêm cho các em ở các giờ luyện tập .
2.3.3. Giải pháp thứ ba: Rèn kỹ năng xác định yêu cầu đề, tìm ý :
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh làm tốt các bước: đọc kỹ đề, xác định
yêu cầu đề về cả nội dung và hình thức, giới hạn đề, phạm vi tư liệu dù là chỉ viết
một đoạn văn ngắn.
* Khi thực hiện giải pháp này cho các lớp tôi đang đảm trách tôi nhận thấy
rằng các em đã quen dần với cách viết đoạn phải xác định yêu cầu đề, tìm ý mà
so với trước đây các em bỏ qua.
Tìm ý cho đoạn văn: Muốn tìm ý cho đoạn văn các em phải tìm được ý
chính của đoạn văn, việc tìm ý chính trong đoạn văn chính là cách tìm đề tài trong
đoạn văn đó. Từ ý chính tìm những ý phụ có thể triển khai được vấn đề đã nêu
trong đề bài, tôi thường cho các em tìm ý bằng cách đặt hệ thống câu hỏi có liên
quan đến yêu cầu đề. Như vậy khi cung cấp kiến thức về khái niệm đoạn văn giáo
viên đã rèn cho các em nhận biết thành thạo về đoạn văn và hướng cho các em kiến
thức sắp tới để có mối quan hệ giữa kiến thức này và kiến thức khác.
7
- Đây là kỹ năng khá cần và tương đối quan trọng chúng ta không nên bỏ
qua khi luyện tập xây dựng đoạn văn.
* Khi thực hiện giải pháp này cho các lớp tôi đang đảm trách tôi nhận thấy
rằng các em đã quen dần với cách viết đoạn phải xác định yêu cầu đề, tìm ý mà
so với trước đây các em bỏ qua.
2.3.4. Giải pháp thứ tư : Rèn kỹ năng viết văn.
a/ Về nôi dung: triển khai các ý có trong dàn ý nhưng ngắn gọn.
b/ Về hình thức: Chú ý liên kết câu trong đoạn văn, tuân theo qui địch cách
viết đoạn văn.
Khi viết cần chú ý diễn đạt lưu loát, mạch lạc, cần phối hợp nhiều kiểu câu
để lời văn sinh động, từ ngữ dùng cần chính xác, chân thực, chữ viết đúng chính tả.
- Cuối cùng đọc lại và sửa chữa dù rằng đây chỉ là một đoạn văn ngắn.
- Tôi cung cấp kiến thức xã hội cho các em bằng cách lồng ghép vào các giờ
giảng khi có thể.
- Cần phân biệt cho học sinh cách viết một đoạn văn khác so với cách viết
một bài văn: Khi viết một bài văn có thể chấm qua dịng cịn viết một đoạn văn thì
khơng được chấm qua dòng. Vận dụng khi dạy các bài lý thuyết văn nghị luận về
một sự vật, hiện tượng đời sống hoặc bài lý thuyết văn nghị luận tư tưởng, đạo lí.
Cách làm bài văn nghị luận về một sự vật, hiện tượng đời sống hoặc bài văn nghị
luận tư tưởng, đạo lí, liên kết câu liên kết đoạn văn, tôi sẽ dạy các em từ dàn ý của
một bài văn sang dàn ý của một đoạn văn , từ đó gợi cho các em định hướng cách
viết một bài văn như thế nào? Cách viết một đoạn văn ra sao? Đồng thời để giúp
các em nhớ lâu hơn, tôi thường xuyên nhắc lại những điều này cho các em mỗi khi
có cơ hội vì tơi thiết nghĩ Ơng Bà mình vẫn thường nói “mưa dầm thấm đất”.
- Mỗi bài văn hoặc đoạn văn dù dài hay ngắn cũng có ba phần: mở đoạn,
thân đoạn, kết đoạn nhưng ở bài văn nó được hình thành bởi rất nhiều đoạn văn
(tối thiểu nhât là ba đoạn) còn đoạn văn do nhiều câu văn kết hợp lại và chỉ có một
đoạn. Do đó khi viết đoạn văn ngắn về nghị luận xã hội các em nên viết dựa trên
các ý cơ bản của các thể loại nghị luận nhưng viết ngắn hơn, cô động ý hơn và
8
ngược lại khi viết bài văn cần khai triển sâu hơn, bài viết dài hơn. Đây chính là
chúng ta rèn cho học sinh mình kỹ năng viết ngắn, viết dài trong cùng một vấn đề.
* Sau một thời gian dạy thử nghiệm một số tiết cho các lớp tôi đang đảm
trách tôi nhận thấy rằng
+ Ưu điểm: Học sinh bước đầu đã viết được đoạn theo yêu cầu, có một số em
viết rất hay , kết quả khả thi.
+ Khuyết điểm: Các em còn lười viết quá, bài viết còn sơ sài, ý nghèo nàn
chưa mạch lạc, đặc biệt câu văn cịn tối nghĩa và sử dùng từ chưa chính xác .
+ Biện pháp khắc phục: Theo tôi biện pháp khắc phục tốt nhất chính là
hướng dẫn cụ thể hơn cho học sinh cách viết như thế nào? Liên kết ra sao , đọc cho
các em nghe những đoạn văn mẫu hồn chỉnh, khuyến khích học sinh viết và cho
điểm.khuyến khích .
2.3.5. Giải pháp thứ 5 : Luyện tập rèn kỹ năng dựng đoạn tại lớp .
- Phần luyện tập tơi thường ra đề nhiều dạng nhiều tình huống nên cho các
em làm bài tập từ dễ đến khó phải đi từ đơn giản đến phức tạp. Đáng lưu ý phải để
các em tự làm, tự suy nghĩ phát huy tư duy tích cực của các em Ví dụ: đầu tiên tơi
cho học sinh một số đoạn văn trình bày bằng nhiều cách, học sinh xác định ý chính
của đoạn văn từ đó tơi hướng cho học sinh nhận biết cách trình bày nội dung của
đoạn văn theo cách diễn dịch hay quy nạp, v..v… Khi luyện tập phần này tơi cho
học sinh đọc kỹ từng đoạn văn, tìm ý chính, ý chính đó nằm ở vị trí nào của đoạn
văn. Đối chiếu với lý thuyết về cách trình bày về nội dung của đoạn văn thì cứ ý cơ
bản , ý khái quát nằm ở câu số 1 của đoạn văn, kết luận đoạn đó là đoạn diễn dịch.
Ngược lại, nếu ý cơ bản ý khái quát nằm ở cuối đoạn văn thì kết luận đoạn văn đó
là đoạn quy nạp. Tôi cho học sinh tiếp cận một đoạn văn mẫu, giúp các em nhận
thức cách viết của đoạn văn mẫu để tứ đó các em sẽ tìm ra cho mình một cách viết
thích hợp. Sau khi các em đã quen dần tôi sẽ nâng lên bằng cách từ một câu nêu ý
chính tơi sẽ cho các em dựng đoạn văn theo cách các em chọn hoặc theo yêu cầu
trình bày theo cách diễn dịch hay qui nạp. Tơi thường khuyến khích học sinh viết
đoạn văn theo cách diễn dịch hay quy nạp vì nó tương đối dễ hơn các cách viết
khác.
9
- Trong q trình ơn luyện tơi cho học sinh viết nhiều đoạn văn nhằm rèn kỹ
năng diễn đạt của các em. Thường xuyên củng cố, rèn kỹ năng viết câu viết đoạn,
xác định luận điểm, kỹ năng phối hợp giữa lý lẽ và dẫn chứng để làm rỏ luận điểm.
- Ở trên lớp tôi thường cho học sinh thảo luận nhóm làm những bài tập dựng
đoạn đây là dịp để các em cùng nhau xây dựng, góp ý trao đổi hợp tác viết đoạn.
Đặc biệt trong lúc học sinh sinh hoạt nhóm như thế tơi thường nhắc các nhóm
trưởng nên chú ý theo dõi và cho các học sinh yếu góp ý xây dựng bài. Có như thế
các em yếu mới phát huy được vốn kiến thức dù là ít ỏi của mình, từ đó các em sẽ
tự tin và mạnh dạn xây dựng bài. Sau đó tơi cho các nhóm lên trình bày lại kết quả
của nhóm, tơi thường khuyến khích các em yếu lên trình bày, đây là một việc rất
khó vì đối với các em yếu các em rất nhát hoặc tự ti mặc cảm, nhưng chúng ta hãy
vì học sinh mà chịu khó nên động viên và có thể tuyên dương các em trước các bạn
hay cho các em điểm khuyến khích các em sẽ vượt lên chính mình thốt khỏi măc
cảm tự ti ấy. Tôi luôn tôn trọng và phát huy những cách viết sáng tạo của học sinh.
Sau khi sửa xong đối với những đoạn văn hay tôi cho các em viết vào trong tập để
làm mẫu.
- Muốn các em học tốt, giáo viên phải thường xuyên kiểm tra cả về lý thuyết
lẫn phần bài tập, kiên nhẫn uốn nắn những sai sót của các em để các em học tập tốt
hơn. Dùng nhiều thời gian để sửa bài cho học sinh, khi sửa bài giáo viên phải sửa
cụ thể, chi tiết cần chú ý cả hai mặt nội dung và hình thức của đoạn văn không sửa
qua loa, chỉ cho học sinh những chỗ sai những đoạn viết tốt những đoạn viết không
tốt để các em rút kinh nghiệm. Đọc trước lớp những đoạn văn hay, cho cả lớp tham
khảo.
- Khích lệ học sinh về nhà viết đoạn văn theo các đề luyện tập có trong sách
giáo khoa cho điểm . Tơi thường tích hợp phần viết đoạn văn vào phần kiểm tra
văn bản hoặc tiếng việt để luyện cho các em và tơi sẽ sửa khi trả bài kiểm tra vì
thời gian dành cho các tiết trả bài kiểm tra một tiết thường là một tiết và cũng từ
đây tơi có thể vừa cho học sinh kiểm tra kiến thức mà các em đã học trong phần
văn bản và tiếng việt vừa rèn các em kỹ năng dựng đoạn .
2.3.6. Giải pháp thứ sáu: Luyện tập rèn kỹ năng dựng đoạn tại nhà .
10
- Để đạt hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng học tập cho học sinh, thì việc
học sinh tự học ở nhà là vô cùng quan trọng, nhưng để các em học tốt thì giáo viên
phải là người hướng dẫn tận tình và cùng đồng hành với các em thì hiệu quả mới
cao.
- Ngoài giờ học trong lớp giáo viên cần khuyến khích các em viết đoạn văn
nghị luận với nhiều chủ đề hay viết đoạn văn theo các đề luyện tập có trong sách
giáo khoa nộp cho giáo viên khích lệ các em, giáo viên có thể cho điểm cho học
sinh. Đặc biệt là đối với những học sinh yếu kém, giáo viên phải theo sát và tận
tình chỉ bảo cho các em thật chậm, thật chắc đồng thời khen thưởng kịp thời dù là
tiến bộ của các em rất nhỏ.
- Khuyến khích học sinh tìm đọc thêm những bài văn nghị luận xã hội hay,
những đoạn văn nghị luận xã hội hay. Từ đó, tham khảo để có thêm vốn kiến thức
Xã hội và học thêm cách viết văn của người khác.
- Thường xun ơn tập lí thuyết văn nghị luận xã hội.
- Hướng dẫn học sinh làm sổ tay văn học để ghi chép những kiến thức hay
hoặc câu, đoạn văn hay, tích lũy kiến thức văn học, kiến thức xã hội, kiến thức
cuộc sống qua sách vở, báo chí v..v… Đặc biệt tìm kiến thức qua internet làm
phong phú hơn vốn kiến thức hiện có của các em.
* Sau một thời gian dạy thử nghiệm một số tiết cho các lớp tôi đang đảm
trách tôi nhận thấy rằng: Các em làm khá tốt (Đối với đối tượng khá, giỏi) . Đối
với học sinh yếu tôi luôn cố gắng động viên các em viết nhiều hơn và gởi bài cho
tôi sửa .
Khi tôi thực hiện các biện pháp nêu trên vào trong giảng dạy tại trường trung
học cơ sở, trong thời gian từ năm học 2012 - 2013 cho đến nay , mặc dù thầy trị
chúng tơi gặp khơng ít khó khăn nhưng bản thân tơi rất vừa ý vì sự tiến bộ của học
sinh .Dù là chưa thật sự cao lắm nhưng tôi sẽ cố gắng hồn thiện hơn, rút kết kinh
nghiệm để có thể góp phần cải thiện chất lượng giảng dạy của giáo dục .
3. Khả năng áp dụng của giải pháp.
-Sáng kiến này tơi đã có chia sẻ với các giáo viên trong tổ, các giáo viên
cùng chun mơn rất đồng tình.
11
n
+ '
.FD ^D8 7 D @_o
f
-./
] 7 M 7 D @_o
+
3 , ,.8.
học sinh. Hãy cố nhìn thấy những ưu điểm ẩn sâu trong từng học sinh để phát huy
đúng lúc, đúng chỗ, những tài năng tiềm ẩn đó để có thể nâng cao chất lượng giảng
dạy. Hãy cố gắng làm mới tiết dạy bằng mọi cách sáng tạo của riêng mình, khơng
để tiết dạy q khn mẫu vì như thế sẽ làm học sinh nhàm chán. Đây là một trong
những nguyên nhân gây cho học sinh khơng thích học mơn văn. Hãy tạo khơng khí
cho tiết dạy thật thân thiện thầy trò vừa học vừa làm, thoải mái, đến lớp với nụ
cười ln ở trên mơi, vì nụ cười chính là những giọt mưa xuân tưới mát cho tiết
dạy của chúng ta”. Điều quan trọng nhất, là bạn phải ln khích lệ , luôn ở bên học
sinh những lúc chúng gặp khó khăn và thật sự cần bạn. Hãy cố gắng khơi dậy sự tự
tin trong mỗi học sinh mà nhất là đối với học sinh yếu kém, khi cho điểm nếu cần
lựa chọn giữa hai điểm số bạn nên cho số điểm cao nhất cho học sinh tạo cho
chúng phấn chấn hơn, tự tin hơn, hãy chấp cho trẻ đôi cánh, cho trẻ sự hy vọng bạn
sẽ thành công.
- Đây là những kinh nghiệm nhỏ của bản thân mong góp một phần nâng cao
chất lượng bộ mơn ngữ văn nói chung. Hy vọng nhận được sự góp ý tận tình của
ban giám khảo , hội đồng bộ môn cùng sự chia sẻ của quí đồng nghiệp.
5. Tài liệu kèm theo : khơng có
13