Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC VỀ GIA ĐÌNH VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.82 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN KHOA NGỮ VĂN ANH

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC VỀ
GIA ĐÌNH VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
(Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học)

Sinh viên thực hiện: Cao Minh Hạnh
Mã số sinh viên: 2057011040
Giảng viên hướng dẫn: TS. Đào Tuấn Hậu

TP. HỒ CHÍ MINH - 2021


MỤC LỤC
TP. HỒ CHÍ MINH - 2021
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I
Khái niệm gia đình
Những giá trị lí luận và thực tiễn từ quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hôn nhân và gia đình
Quan điểm về gia đình trong mối quan hệ với xã hội
Các hình thái hơn nhân và hình thái gia đình của các giai cấp
CHƯƠNG II
Ý nghĩa của quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về gia đình đối với việc xây dựng gia đình ở Việt Nam
hiện nay
Chính sách của Đảng và Nhà nước về định hướng gia đình Việt dựa trên quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa
học về gia đình
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề gia đình
Trích văn bản quyết định của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030


QUAN ĐIỂM
MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU
Định hướng xây dựng gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
LỜI KẾT
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình được mệnh danh là cái nơi của xã hội. Đó khơng chỉ là lĩnh vực có
lịch sử lâu đời mà còn là lĩnh vực phức tạp, đầy mâu thuẫn và biến động.
Có thể nói gia đình là vấn đề của mọi dân tộc và thời đại. Đặc biệt trong vài
năm trở lại đây, vấn đề gia đình nổi lên như một tiêu điểm trọng yếu được cả giới
hàn lâm và giới chính trị quan tâm. Ở châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng,
người ta nói nhiều đến truyền thống gia đình, văn hố gia đình như một giải pháp
để ngăn trở hiện tượng phương Tây hóa gia đình Á châu. Và khơng chỉ có thế, các
quốc gia châu Á trong đó có Việt Nam đang trải nghiệm trong một cuộc chuyển
mình vĩ đại: thực hiện cơng nghiệp hố – hiện đại hố với quy mô và tốc độ ngày
càng gia tăng. Đồng thời với q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam
là sự chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường. Để có được những biến chuyển
kinh tế - xã hội mạnh mẽ đó chúng ta khơng thể khơng nhắc đến vai trị của gia
đình. Xuất phát từ thực trạng trên chúng ta đặt ra câu hỏi: Lấy tiền đề là chủ nghĩa
xã hội khoa học, Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ làm như thế nào để phát huy
vai trị tối quan trọng của gia đình?
Với mục đích đi tìm câu trả lời cho câu hỏi trên em chọn đề tài: “Quan điểm
của chủ nghĩa xã hội khoa học về gia đình và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay”
cho tiểu luận của mình. Với kiến thức đang có cộng với tinh thần tìm tịi học hỏi,
em hy vọng bài viết sẽ đưa ra được các ý trả lời xác đáng với vấn đề đã đặt ra.
Kết cấu của bài tiểu luận gồm 2 chương, 6 tiết cùng với Lời mở đầu, Mục
lục, Lời kết và Tài liệu tham khảo.



CHƯƠNG I
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC VỀ GIA
ĐÌNH
1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một tổ chức xã hội được hình thành sớm trong lịch sử loài người.
Từ thuở sơ khai của lịch sử, khi loài người tách khỏi giới động vật và tổ chức cuộc
sống của mình thành một cộng đồng. Khi con người độc lập, cũng là lúc con người
tổ chức cuộc sống của mình trong những cộng đồng nhỏ và những gia đình nguyên
thủy. Gia đình ban đầu chỉ gồm những thành viên có quan hệ họ hàng trực tiếp với
nhau, chủ yếu là mẹ với con cháu (gia đình mẫu hệ). Sau đó, nó được mở rộng để
bao gồm các thành viên khác có thể có cùng huyết thống nhưng cũng có thể khơng
có quan hệ huyết thống. Cịn về quy mơ gia đình thì lúc đầu có nhiều gia đình có
khi lên đến hàng trăm người. Về sau, với nhu cầu thích nghi với sự phát triển của
đời sống xã hội con người, số lượng thành viên trong gia đình ngày càng giảm dần.
Trong gia đình hiện đại ngày nay, đơi khi chỉ có một đến ba thành viên. Từ trước
đến nay có nhiều khác biệt trong định nghĩa về gia đình, đồng thời các quan điểm
cơ bản về gia đình dường như cũng cịn nhiều bất đồng, thậm chí là mâu thuẫn.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp những người cùng sống chung
thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hơn nhân và
dịng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái”. Quan niệm này chỉ mới
dừng lại ở một quan niệm đại khái nhất về các loại gia đình trong lịch sử, đồng thời
cũng chưa bao gồm các hình thức gia đình mới đang phát sinh trong các xã hội
hiện đại ngày nay, như gia đình mà người nam và người nữ sống với nhau khơng
có giấy hơn thú, gia đình thuộc cộng đồng LGBT, …
Nho giáo cho rằng mỗi gia đình là một nước nhỏ. Cho nên khi “Một nhà
nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước ăn ở đều có lễ
nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn” (Đại học, Chương 9). Trong
đó, gia đình hịa thuận là quan trọng nhất. Gia đình hịa thuận là gia đình mà mọi
thành viên ln quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Người lớn phải làm gương cho trẻ.

Ngược lại, con cái phải ln kính trọng ơng bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng ông bà,
cha mẹ; biết


làm cho ông bà, cha mẹ được rạng rỡ và khơng làm việc gì khiến cho ơng bà, cha
mẹ phải tủi hổ với hàng xóm láng giềng. Gia đình hịa thuận cũng là gia đình mà
anh chị em biết bảo ban nhau, cùng nhau trưởng thành, biết yêu thương chăm sóc
nhau, biết “anh em như thể tay chân”. Có thể nói, Nho giáo ở một khía cạnh nào đó
tương ứng với Cương lĩnh xây dựng nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta. Chúng ta cũng quan niệm rằng: “Gia đình là tế bào của xã hội,
là cái nôi nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp
sống và hình thành nhân cách”. Chính vì vậy, Đảng ta u cầu: “Các chính sách
của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hồ thuận, tiến bộ. Nâng
cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người”. Gia đình là nơi ươm mầm,
là nơi đào tạo ra những con người mới cho tương lai. Gia đình có vai trị quan
trọng trong việc xây dựng thành công nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, cái
tốt hay cái xấu của mỗi gia đình đều ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội. Tất
nhiên, gia đình mới mà chúng ta đang xây dựng là một gia đình hịa thuận, có nền
tảng dân chủ: vợ chồng, cha con anh em tôn trọng nhau, cùng nhau bàn bạc để giải
quyết những vấn đề quan trọng nhất trong gia đình. Gia đình mới mà chúng ta
đang xây dựng rất cần sự chung thủy của vợ chồng; sự nhân từ của người làm cha
mẹ, đức hiếu kính của người làm con, sự thương yêu nhường nhịn của anh chị em.
Liên Hợp Quốc định nghĩa: gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng
cùng sống chung và có ngân sách chung.
Từ những định nghĩa trên, em xin tạm thời đưa ra một khái niệm phổ quát về
gia đình: gia đình là một tập hợp những người cùng chung sống với nhau dựa trên
quan hệ hôn nhân được chính thức thừa nhận bởi pháp luật hay luật tục và huyết
thống. Họ có trách nhiệm đạo đức đối với nhau, có chung tài sản và cùng có trách
nhiệm xã hội hóa thế hệ mai sau. Đó là các quan hệ vợ - chồng, cha mẹ - con cái,
anh chị em ruột.

2.

Những giá trị lí luận và thực tiễn từ quan điểm của C.Mác và

Ph.Ăngghen về hôn nhân và gia đình
2.1. Quan điểm về gia đình trong mối quan hệ với xã hội


Khi phân tích q trình tiến hóa của lịch sử lồi người, C.Mác khẳng định
gia đình là một trong ba mối quan hệ của con người đã được hình thành trong lịch
sử loài người: Mối quan hệ đầu tiên là giữa con người với tự nhiên; mối quan hệ
thứ hai là giữa con người với con người trong quá trình sản xuất; và mối quan hệ
thứ ba là gia đình. Ba mối quan hệ này tồn tại đan xen, hợp nhất.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác đã đưa ra khái niệm về gia đình:
“Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình con người cịn tạo ra những
người khác, sinh sơi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái,
đó là gia đình… Sự sản xuất ra đời sống - ra đời sống của bản thân mình bằng lao
động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái - biểu hiện ra
là một quan hệ song trùng; một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã
hội, quan hệ xã hội với ý nghĩa đó là hoạt động kết hợp của nhiều cá nhân, không
kể là trong những điều kiện nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì”.
Quan niệm này thể hiện rõ: Thứ nhất, gia đình nảy sinh cùng với sự ra đời và
tồn tại của xã hội loài người, cùng với quá trình tái tạo của bản thân con người; thứ
hai, gia đình nảy sinh từ hai mối quan hệ cơ bản (quan hệ hôn nhân và quan hệ
huyết thống); thứ ba, gia đình có hai nhiệm vụ chính (tạo ra của cải vật chất đáp
ứng nhu cầu của cá nhân và gia đình, góp phần phát triển xã hội, đồng thời sinh ra
con người để bảo tồn nòi giống, đảm bảo sự tồn vong của xã hội).
Bằng cách nghiên cứu sự phát triển của gia đình dưới các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cho thấy vai trò quan trọng của gia
đình trong mối quan hệ biện chứng đối với xã hội: “Theo quan điểm duy vật, nhân
tố quyết định trong lịch sử, suy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống

trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư
liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra
những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi
giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử
nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định:
một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển
của gia đình”.


C.Mác nhấn mạnh vai trị to lớn của gia đình đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cho rằng gia đình là “quan hệ xã hội duy nhất”
trong lịch sử sơ khai của xã hội loài người. Nhờ mối quan hệ với chức năng sinh
sản này mà gia đình đã tạo dựng và duy trì các mối quan hệ xã hội khác. Theo
nghĩa này, gia đình là một xã hội thu nhỏ: gia đình sản sinh ra cá nhân, kết nối cá
nhân với xã hội. Sau này, khi dân số tăng lên, nhiều nhu cầu mới phát sinh. Khi
nhu cầu của con người phát triển, các mối quan hệ xã hội mới nảy sinh làm chuyển
gia đình từ “quan hệ duy nhất” sang “quan hệ phụ thuộc”. Sự biến đổi này gắn với
quá trình phân cơng lao động xã hội, q trình phát triển xã hội dẫn đến sự độc lập
tương đối của gia đình với xã hội, thậm chí là sự đối lập giữa gia đình và xã hội.
2.2. Các hình thái hơn nhân và hình thái gia đình của các giai cấp
Về hôn nhân thời cổ: C.Mác và Ph.Ăngghen viết rằng: “Trong suốt thời cổ,
các cuộc hôn nhân đều do cha mẹ quyết định thay cho con cái, và con cái đều yên
tâm vâng theo”.
Hôn nhân thời Trung cổ, hôn nhân của quý tộc phong kiến, của thị dân
các phường hội: Các ông đã chỉ rõ: “... Đối với kị sĩ hoặc nam tước, cũng y như
đối với bản thân hoàng tử, hơn nhân là một hành vi chính trị, là một cơ hội để tăng
cường thế lực của mình bằng những cuộc thơng gia mới; chính lợi ích của vương
triều quyết định, chứ không phải nguyện vọng cá nhân quyết định”.
“Đối với người thị dân các phường hội ở các thành thị thời Trung cổ thì cũng
như thế… hồn tồn khơng phải nguyện vọng cá nhân, mà chính lợi ích gia đình

quyết định xem người phụ nữ nào thích hợp với anh ta hơn hết… Vậy là trong
tuyệt đại đa số các trường hợp, cho đến tận cuối thời Trung cổ, hơn nhân vẫn giữ
ngun tính chất mà nó đã có ngay từ đầu: một việc khơng phải do bản thân những
người kết hôn quyết định”.
Hôn nhân tư sản - gia đình tư sản: C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng một
trong những cơng trình quan trọng nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là việc
tạo ra những người “tự do” và “bình đẳng” để giao kết một “hợp đồng hôn nhân”.
Do


đó tính chất xã hội của hơn nhân và gia đình là hơn nhân giai cấp, hơn nhân có
“tính tốn” về lợi ích và thỏa thuận. Các ơng viết: “Theo quan niệm tư sản, hôn
nhân là một hợp đồng, một giao kèo có tính chất pháp lý, hơn nữa lại là một giao
kèo quan trọng nhất trong tất cả mọi giao kèo, vì nó định đoạt cả thể xác lẫn tinh
thần của hai con người trong suốt cả đời họ. Thật vậy, hồi bấy giờ, giao kèo pháp
lý đó, về hình thức, đã được ký kết trên cơ sở tự nguyện: cơng việc đó khơng thể
giải quyết được nếu khơng có sự đồng ý của đơi bên. Nhưng người ta đã thấy quá
rõ cái cách để có được một sự đồng ý ấy rồi và những kẻ thật sự định đoạt việc kết
hôn là những ai rồi”.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen
khẳng định rằng với sự ra đời của máy móc hiện đại, nền công nghiệp tư bản chủ
nghĩa với lực lượng sản xuất mới dẫn đến đại công nghiệp hiện đại thay cho cơng
trường thủ cơng... và với vịng xốy của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự “yên
ấm” của mọi gia đình đã bị phá vỡ. Khơng chỉ vậy, đại cơng nghiệp cũng đang làm
thay đổi vị thế và hoàn cảnh sống của gia đình, thay đổi nhu cầu hưởng thụ cuộc
sống của mọi thành viên trong gia đình. Nếu trước đây nhu cầu của người tiêu
dùng là “được thỏa mãn bằng những sản phẩm trong nước” thì nay “nảy sinh ra
những nhu cầu mới, đòi hỏi được thỏa mãn bằng những sản phẩm đưa từ những
miền và xứ xa xôi nhất về” và “sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần
cũng khơng kém như thế”, nó làm cho “những thành quả của hoạt động tinh thần

của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc”. Theo C.Mác và
Ph.Ăngghen, nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa cũng xóa bỏ tình trạng cát cứ
của các địa phương và các dân tộc để thay thế nó bằng những quan hệ phổ biến
giữa các dân tộc, hơn nữa đại tư bản chủ nghĩa còn phá vỡ quan hệ sản xuất phong
kiến, thay đổi cơ cấu xã hội, thay đổi quan hệ giữa các giai cấp xã hội, quan hệ
giữa “người tự do và nô lệ, q tộc và bình dân, chúa đất và nơng nơ, thợ cả và
phường hội và thợ bạn”, bị xóa bỏ để tạo điều kiện cho sự lớn mạnh của hai giai
cấp đối kháng lớn là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa cũng đã tạo ra một hệ thống chính trị xã
hội thích ứng với quan hệ sản xuất mới, với cơ sở hạ tầng mới, nó đã xóa bỏ mọi
phẩm chất và đức hạnh mà chế độ phong kiến tạo ra. “Giai cấp tư sản tước hết hào


quang


thần thánh của hết thảy những hoạt động xưa nay vẫn được trọng vọng và tơn
sùng”; biến đổi tồn bộ mối quan hệ gia đình vốn được coi là thiêng liêng nhất,
“giai cấp tư sản xé toang tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia đình và làm
cho những quan hệ ấy chỉ còn là những quan hệ tiền nong đơn thuần thôi”.
Hôn nhân của giai cấp vô sản và gia đình vơ sản: C.Mác và Ph.Ăngghen
đã nêu quan điểm về gia đình trong xã hội sau này: “… Chỉ có trong giai cấp vơ
sản, thì tình u nam nữ mới có thể trở thành một quy tắc trong các quan hệ đối với
người phụ nữ... Hơn nữa, từ ngày đại công nghiệp đã giật được người đàn bà ra
khỏi nhà, đem họ ra thị trường lao động và vào công xưởng, và thường biến họ
thành người nuôi dưỡng của gia đình, thì trong gia đình người vơ sản những tàn
tích cuối cùng của quyền thống trị của người đàn ông đã mất mọi cơ sở”. C.Mác và
Ph.Ăngghen tán thành ly hơn khi hạnh phúc gia đình khơng còn là nhu cầu cần
thiết cho nam và nữ và cho tồn xã hội; nó là biểu hiện của đạo đức và phép tắc
trong mối quan hệ mới và giữa nam và nữ... Trong xã hội tương lai, đảm bảo cho

mọi người có quyền được dựa trên sự bình đẳng của nam và nữ để kết hôn tự do và
ly hôn tự do, đây là một bước tiến rõ ràng trong thời hiện đại. Trong gia đình này
“họ đã tự nguyện kết hôn với nhau”, không ép buộc, áp đặt theo lợi ích kinh tế,
quyền lợi của gia đình; thực hiện quyền bình đẳng giữa nam và nữ thay vì duy trì
sự thống trị của nam giới; Chế độ một vợ một chồng được thực hành theo nghĩa
chân thực nhất của từ này.


CHƯƠNG II
SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
VỀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.

Ý nghĩa của quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về gia đình đối

với việc xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay
Ở nước ta, vai trò của gia đình được thể hiện trong Hiến pháp nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và trong Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam. Sau hơn
40 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đã gặt hái được nhiều thành công.
Những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội góp phần nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của mọi gia đình. Thực tiễn xây dựng gia đình ở Việt
Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Mức sống
của hầu hết các gia đình được cải thiện đáng kể, xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm
đã giúp hàng triệu gia đình thốt nghèo, nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống.
Mặt khác, gia đình Việt Nam cũng chịu tác động tiêu cực của những mặt trái
của nền kinh tế thị trường, của q trình đơ thị hóa, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập thế giới. Gia đình thay đổi sâu sắc từ quy mô cấu trúc đến các mối
quan hệ và giá trị. Gia đình Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức lớn: mặt
tối của cơ chế thị trường tạo nên lối sống thực dụng; tuyệt đối hoá các giá trị vật
chất; một số giá trị đạo đức truyền thống của gia đình đã bị đảo lộn. Đặc biệt, sự du

nhập của các loại văn hóa phẩm độc hại từ nước ngồi đã gây ra nhiều bất bình
trong xã hội và làm nguy hại đến nếp sống truyền thống của gia đình Việt Nam.
Đứng trước thực trạng đó, việc bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống
của gia đình ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết hiện nay, chính vì vậy mà
quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về gia đình, vị trí của gia đình các mối quan
hệ, sự tác động biện chứng của những yếu tố ấy và sự cần thiết phải giải quyết
những bất cơng cịn tồn tại trong gia đình là những định hướng có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn sâu sắc. Các biện pháp phù hợp để giải quyết các vấn đề của quản lý
nhà nước về gia đình ở nước ta là một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển bền vững hiện nay. Tại Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng ta
khẳng định lại


mục tiêu “xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh” cũng là thể hiện
quyết tâm cao trong việc thực hiện các mục tiêu của Chiến lược phát triển gia đình
Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 ở Việt Nam.
2.

Chính sách của Đảng và Nhà nước về định hướng gia đình Việt dựa

trên quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về gia đình
2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề gia đình
Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21-2-2005 của Ban Bí thư về xây dựng gia đình
trong thời kỳ mới (Chỉ thị 49) nêu rõ: “Mục tiêu chủ yếu của cơng tác gia đình
trong thời kỳ cơng nghiệp hố và hiện đại hoá là ổn định, củng cố và xây dựng gia
đình theo tiêu chí ít con (mỗi cặp vợ chồng chỉ một hoặc hai con), no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, để mỗi gia đình Việt Nam thực sự là tổ ấm của mỗi người
và là tế bào lành mạnh của xã hội”. Tầm nhìn này của Đảng xuất phát từ những
vấn đề của gia đình trong điều kiện hiện nay là sự suy đồi đạo đức, lệch lạc trong
hành vi và lối sống, những vấn đề mới và phức tạp trong chăm sóc trẻ em và người

cao tuổi, bạo lực gia đình, ly hơn, ... nếu khơng được giải quyết sẽ làm suy yếu gia
đình và giảm động lực cho quá trình phát triển.
Sau 15 năm áp dụng Chỉ thị 49, xây dựng gia đình đã trở thành một nội dung
quan trọng trong chương trình của các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp, các
đồn thể, tổ chức xã hội và đã đạt được những thành cơng nhất định. Gia đình đã
phát huy được những chức năng cơ bản, đóng góp quan trọng vào sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Nhìn lại lịch sử phát triển cho thấy, từ sau Đổi mới, Đảng ta ln khẳng định
vị trí quan trọng của gia đình. Bước sang thế kỷ 21, trước tình hình văn hóa ứng
xử, giá trị đạo đức trong gia đình và ngồi xã hội có nhiều thay đổi theo chiều
hướng tiêu cực, Đảng yêu cầu phải “nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc
xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hóa, làm cho gia
đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội”.


2.2.

Trích văn bản quyết định của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt

chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
Điều 1. Phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn 2030 (sau đây gọi tắt là Chiến lược) với các nội dung chủ yếu sau đây:
I. QUAN ĐIỂM
1.

Gia đình là tế bào của xã hội, là mơi trường quan trọng hình thành, ni

dưỡng và giáo dục nhân cách, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp,
chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.

2.

Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc là một trong các mục tiêu

quan trọng của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, đồng
thời cũng là trách nhiệm của mọi gia đình trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.

Ưu tiên, tạo điều kiện để các gia đình khu vực nơng thơn, miền núi, khu vực

khó khăn, đặc biệt khó khăn nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống.
II. MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU
1. Mục tiêu chung:
Xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi
người, là tế bào lành mạnh của xã hội.
2. Các mục tiêu cụ thể:
a)

Mục tiêu 1: Nâng cao nhận thức về vai trị, vị trí, trách nhiệm của gia đình

và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật
về hơn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phịng, chống bạo lực gia đình, ngăn
chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình.
-

Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% và đến năm 2020 đạt 95% trở

lên hộ gia đình được phổ biến, tuyên truyền và cam kết thực hiện tốt các chủ
trương, đường



lối, chính sách, pháp luật về hơn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phịng, chống
bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình.
-

Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% và đến năm 2020 đạt 95%

nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn được trang bị kiến thức cơ bản về gia đình,
phịng, chống bạo lực gia đình.
-

Chỉ tiêu 3: Hằng năm, trung bình giảm từ 10 - 15% hộ gia đình có bạo lực

gia đình.
-

Chỉ tiêu 4: Hằng năm, trung bình giảm từ 10 - 15% hộ gia đình có người

mắc tệ nạn xã hội.
-

Chỉ tiêu 5: Hằng năm, trung bình giảm 15% (khu vực khó khăn và đặc biệt

khó khăn giảm 10%) hộ gia đình có người kết hôn dưới tuổi pháp luật quy định.
b)

Mục tiêu 2: Kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình

Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát

triển; thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các thành viên trong gia
đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, ni con nhỏ.
-

Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 80% trở lên (khu vực khó khăn và

đặc biệt khó khăn đạt 70% trở lên) và đến năm 2020 đạt 85% trở lên (khu vực khó
khăn và đặc biệt khó khăn đạt 75% trở lên) hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình
văn hóa.
-

Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 85% và năm 2020 đạt 95% hộ gia

đình dành thời gian chăm sóc, dạy bảo con, cháu, tạo điều kiện cho con, cháu phát
triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, khơng phân biệt con, cháu
là trai hay gái.
-

Chỉ tiêu 3: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 85% và năm 2020 đạt 95% hộ gia

đình thực hiện chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo ông, bà, chăm sóc cha, mẹ, phụ nữ
có thai, nuôi con nhỏ.


-

Chỉ tiêu 4: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 95% và năm 2020 đạt từ 98% trở

lên hộ gia đình có người trong độ tuổi sinh đẻ được tuyên truyền và thực hiện đúng
chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, khơng phá thai vì giới tính của thai

nhi.
c)

Mục tiêu 3: Nâng cao năng lực của gia đình trong phát triển kinh tế, ứng

phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế; tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi,
đặc biệt đối với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo và cận nghèo theo quy định.
-

Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% và đến năm 2020 đạt 95% trở

lên hộ gia đình được cung cấp thơng tin về chính sách, pháp luật phúc lợi xã hội
dành cho các gia đình chính sách, gia đình nghèo.
-

Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2015 đạt 90% và đến năm 2020 đạt 95% trở

lên hộ gia đình nghèo, hộ cận nghèo được cung cấp kiến thức, kỹ năng để phát
triển kinh tế gia đình, ứng phó với thiên tai, khủng hoảng kinh tế.
-

Chỉ tiêu 3: Hằng năm, tăng 10% hộ gia đình, thành viên trong gia đình

được thụ hưởng các dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục và dịch vụ hỗ trợ gia đình, hỗ
trợ thành viên gia đình.
Từ đây chúng ta thấy rõ, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt
dành cho vấn đề xây dựng gia đình Việt Nam.
2.3. Định hướng xây dựng gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Vấn đề xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa, gia đình văn hóa ở nước ta là
nền tảng vững chắc bảo đảm cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng gia đình văn hóa ở
nước ta, cần có những giải pháp thiết thực, hiệu quả. Việc đầu tiên cần làm là nâng
cao trách nhiệm của cấp quản lý. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng
cao nhận thức về vai trị của cơng tác xây dựng gia đình ở các cấp, các ngành, đồn
thể, gia đình, cá nhân và cộng đồng. Văn hóa gia đình với mục tiêu gia đình bình
đẳng, giàu có, hạnh phúc và tiến bộ. Phát triển kinh tế gia đình nhằm nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, là cơ sở để đạt được các mục tiêu đề ra:
giữ gìn, bảo tồn


và phát huy truyền thống cao đẹp của dân tộc; xây dựng con người mới, con người
xã hội chủ nghĩa.


LỜI KẾT
Qua tiểu luận này, chúng ta thấy được quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa
học về gia đình cũng như sự vận dụng quan điểm này của Đảng và Nhà nước trong
việc xây dựng gia đình Việt Nam ngày nay. Ở chương I, chúng ta đã có cái nhìn
tổng quát về khái niệm gia đình; quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề
gia đình. Chương II trình bày ý nghĩa của quan điểm chủ nghĩa xã hội khoa học về
gia đình cũng như chính sách của Nhà nước về vấn đề gia đình lấy tiền đề là chủ
nghĩa này.
Như vậy, quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về gia đình có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn đối với sự phát triển bền vững của gia đình Việt Nam trong thời
đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Đồng thời, đây
cũng là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhìn vào thực tế, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng thành
công quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học về gia đình bằng những cơng tác
chăm lo gia đình tồn diện, chu đáo, kịp thời. Tuy nhiên, chúng ta cũng khơng thể
phủ nhận vai trị chủ động của bản thân mỗi gia đình.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Đức Bình (1995), C. Mác và Ph. Ăngghen tồn tập – tập 21, Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, angghen-lenin-ho-chi-minh/book/ph-angghen/tac-pham/c-mac-va-ph-angghen- toan-tap-tap-21-191
2.

Nguyễn Đức Bình (1995), C. Mác và Ph. Ăngghen tồn tập – tập 3, Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, />3.

Hà Hoàng Giang (09/06/2015), Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về

gia đình và vận dụng xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta, Tạp chí Dân tộc,
/>4.

Phạm Quốc Nhật – Nguyễn Hoài Sơn (23/06/2020), Cần một tầm nhìn mới

về

gia đình,

Tạp

chí

Tun


giáo,

/>5.

Nguyễn Thị Tuyết (27/06/2018), Những giá trị lí luận và thực tiễn từ

quan điểm của C. Mác về hơn nhân và gia đình, Tạp chí Mặt trận,
/>6.

Thủ tướng Chính phủ (29/05/2012), Quyết định Phê duyệt Chiến lược phát

triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Cổng thơng tin điện tử
Chính phủ nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
/>a hoi?docid=1314&substract=&strutsAction=ViewDetailAction.do



×