Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 147 trang )

VAI TRỊ CỦA TRÍ THỨC
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1954


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CMT8-1945:

Cách mạng tháng 8/1945

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

CTQG:

Chính trị quốc gia

GS:

Giáo sư

Nxb:

Nhà xuất bản

TƯ:


Trung ương

TS:

Tiến sĩ

UBND:

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................6
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................6
5. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu .............................................................7
6. Đóng góp của đề tài .............................................................................................7
7. Bố cục đề tài ........................................................................................................8
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT TẦNG LỚP TRÍ THỨC CÁCH MẠNG VIỆT
NAM TRƯỚC CMT8 - 1945 ....................................................................................9
1.1. Khái niệm trí thức và trí thức cách mạng Việt Nam.........................................9
1.1.1. Trí thức .......................................................................................................9
1.1.2. Trí thức cách mạng Việt Nam ..................................................................10
1.2. Sự hình thành và phát triển tầng lớp trí thức ở Việt Nam ..............................12
1.3. Đặc điểm và vị trí trí thức Việt Nam trong lịch sử .........................................18
1.3.1. Đặc điểm tầng lớp trí thức Việt Nam .......................................................18
1.3.2. Vị trí của tầng lớp trí thức Việt Nam .......................................................20
1.4. Hoạt động của tầng lớp trí thức Việt Nam trước năm 1945 ...........................22

CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1954
...................................................................................................................................29
2.1. Tình hình và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam sau CMT8-1945 .....................29
2.2. Trí thức cách mạng việt Nam góp phần giải quyết khó khăn kinh tế trong thời
kỳ 1945-1946 .........................................................................................................34
2.2.1. Khắc phục khó khăn về tài chính .............................................................34
2.2.2. Tham gia phong trào tăng gia sản xuất ....................................................36
2.3. Trí thức cách mạng Việt Nam tham gia xây dựng chính quyền sau cách mạng
...............................................................................................................................39


2.3.1. Xây dựng chính quyền sau cách mạng .....................................................39
2.3.2. Tham gia, xây dựng các tổ chức chính trị yêu nước ................................43
2.3.2.1. Trong các tổ chức cách mạng ............................................................43
2.3.2.2. Trong các tổ chức chính trị độc lập của trí thức ................................44
2.4. Trí thức cách mạng Việt Nam tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp ..46
2.4.1. Tham gia phong trào đấu tranh chính trị ..................................................46
2.4.2. Tham gia lực lượng vũ trang kháng chiến................................................50
2.4.3. Tích cực chế tạo vũ khí phục vụ kháng chiến ..........................................57
2.5. Trí thức cách mạng Việt Nam tham gia xây dựng và phát triển nền kinh tế
kháng chiến ............................................................................................................63
2.5.1. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế kháng chiến ..........................64
2.5.2. Những phát minh, sáng kiến của trí thức trong lĩnh vực kinh tế..............67
2.6. Trí thức cách mạng Việt Nam tích cực hoạt động trong các lĩnh vực văn hoá giáo dục và y tế ......................................................................................................69
2.6.1. Trên mặt trận báo chí................................................................................70
2.6.2. Trong các lĩnh vực sáng tác văn học, nghệ thuật .....................................78
2.6.3. Trong lĩnh vực giáo dục ...........................................................................83
2.6.4. Trong lĩnh vực y tế ...................................................................................87
2.7. Trí thức cách mạng Việt Nam tham gia hoạt động trên mặt trận ngoại giao .94

CHƯƠNG 3: VAI TRỊ CỦA TẦNG LỚP TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG SỰ
NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY ....104
3.1. Thực trạng tầng lớp trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay .................104
3.2. Vai trị của tầng lớp trí thức trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước ...............................................................................................................107
3.3. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trị của đội ngũ trí thức Việt Nam trong
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ..............................................114
KẾT LUẬN ............................................................................................................126
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................129
PHỤ LỤC ...............................................................................................................134


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể xem trí thức là tài nguyên qúy giá nhất trong mọi tài nguyên của mỗi
quốc gia. Điều này không chỉ đúng khi loài người đã trải qua hai nền văn minh và
ngày nay đang đứng trước ngưỡng cửa của nền văn minh thức ba – văn minh trí
thức mà nó cịn đúng cho mọi thời đại. Thực tế đã chứng minh trong tiến trình dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, tầm quan trọng của nhân tài đối với việc
hưng thịnh của quốc gia đã được khẳng định và đề cao qua từng thời kỳ lịch sử,
Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung, đã ghi trong bài ký đề danh tiến sĩ khoa
Nhâm Tuất năm 1442 rằng: “Hiền tài là ngun khí của quốc gia, ngun khí thịnh
thì thế nước mạnh rồi lên cao, ngun khí suy thì thế nước yếu rồi thấp xuống. Vì
vậy các đấng thánh đế, minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén
chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng
đại như thế cho nên quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng …Triều đình mừng
được người tài, khơng có việc gì khơng làm đến mức cao nhất”[66].
Tầng lớp trí thức ln là nền tảng tiến bộ xã hội, là lực lượng nòng cốt sáng

tạo nên nền văn hóa của dân tộc mình nói riêng và nền văn minh nhân loại nói
chung.Trải qua hàng nghìn năm lịch sử nhân sĩ, trí thức Việt Nam ln giữ vai trị
quan trọng và có những đóng góp xứng đáng cho đất nước trên nhiều lĩnh vực khác
nhau. Nhiều thế hệ trí thức Việt Nam trở thành những nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà
quân sự, nhà sáng chế, nhà khoa học, nhà cải cách, nhà lý luận, nhà văn, nhà
thơ,....vai trò của tầng lớp trí thức Việt Nam thực sự to lớn. Đặc biệt họ là nhân tố
trực tiếp tham gia vào q trình xây dựng, phát triển nền văn hóa vừa là đại diện cho
tiến bộ văn hóa dân tộc, vì vậy họ luôn được người đương thời và hậu thế kính trọng
biết ơn.
Kế tục truyền thống của dân tộc, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với
trọng trách lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, xây dựng và phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, rất nhiều trí thức đã đi vào con đường đấu


2

tranh cách mạng cùng với công nhân, nông dân và cả dân tộc làm nên cuộc cách
mạng chấn động năm châu – CMT8-1945.
Khơng dừng lại ở đó, trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược. Với những đóng góp quan trọng, cơ bản và mang tính quyết định trên nhiều
lĩnh vực như chính trị, kinh tế, quân sự, y tế, văn hóa, giáo dục, ngoại giao,... lực
lượng trí thức đã trở thành một bộ phận không thể tách rời khỏi cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc. Những đóng góp của họ là vơ cùng lớn lao, góp phần làm nên những
thắng lợi vẻ vang cho cả dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kiệt xuất của
cách mạng Việt Nam đã sớm nhận ra điều này và ln coi trọng đội ngũ trí thức là
động lực thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của dân tộc. “...Những người trí thức tham
gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất q báu cho Đảng. Khơng có những người
đó thì cơng việc cách mạng khó khăn thêm nhiều”. Khơng chỉ trong thời chiến mà
ngay cả thời bình, lực lượng trí thức cũng khẳng định được vai trị quan trọng của
mình. Tại Đại hội VII (1991) Đảng nhận định vai trị của trí thức: "Trong cách mạng

dân tộc dân chủ, vai trị của giới trí thức đã quan trọng, trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội vai trị của trí thức càng quan trọng hơn. Giai cấp công nhân nếu không có đội
ngũ trí thức của mình và bản thân cơng - nông không được nâng cao kiến thức,
không dần dần được trí thức hóa thì khơng thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội".
Thực hiện đề tài, một mặt góp phần tìm hiểu và đánh giá những đóng góp của
trí thức cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đưa đến thắng lợi cuối cùng
của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến này; Làm cơ sở cho những nghiên cứu về
vai trị của đội ngũ trí thức cách mạng Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo;
Đồng thời, hình thành luận cứ để Đảng và Nhà nước có những nhìn nhận, đánh giá
đúng vai trị của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước hiện nay. Hơn nữa, luận văn mong muốn góp phần giáo dục truyền thống,
tinh thần đấu tranh cách mạng của cha ơng cho thế hệ trẻ, về lịng tự hào đối với
truyền thống đấu tranh của đồng bào và nhân sĩ trí thức.


3

Xuất phát từ những lý do trên mà chúng tôi chọn vấn đề “Vai trị của trí thức
cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1945 đến
năm 1954” làm đề tài luận văn thạc sĩ ngành lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sau CMT8-1945 thành công, Việt Nam đã trở thành một nước độc lập. Nhưng
Chính quyền cách mạng non trẻ của nước ta ra đời trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”
vừa “thù trong, giặc ngồi”. Trước tình hình đó, trong phiên họp đầu tiên của Chính
phủ ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra sáu vấn đề cấp bách trong đó
chống giặc đói là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, xếp thứ hai theo sau là nhiệm vụ
chống giặc dốt. Lời kêu gọi của Bác về nhiệm vụ chống giặc dốt đã nhanh chóng
thấm sâu vào tâm trí của mọi người dân, làm thức dậy lịng tự tơn dân tộc và thấy
rõ trách nhiệm của mỗi người. Rất nhiều trí thức cách mạng đã hăng hái tình
nguyện tham gia dạy học cho quần chúng nhân dân, góp phần nâng cao dân trí nước

nhà, cùng với nhiều yếu tố khác làm nên sức mạnh đưa dân tộc bước qua cuộc
kháng chiến đầy khó khăn. Vai trị tầng lớp trí thức một lần nửa lại được thể hiện
khi Hồ Chủ tịch viết Thư gửi anh em văn hóa và trí thức Nam bộ ngày 25/5/1947,
với những căn dặn: Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự
nghiệp phị chính trừ tà mà anh em văn hóa và trí thức phải làm cũng như là những
chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc
lập cho Tổ quốc”. Từ đây, vấn đề trí thức đã được dẫn đề cập ngày một nhiều hơn
trong các văn kiện, cơng trình nghiên cứu.
Năm 1958, Đảng Lao động Việt Nam xuất bản cuốn Chính sách của Đảng
Lao động Việt Nam đối với trí thức, bàn đến những chính sách của Đảng, Nhà nước
đối với trí thức cách mạng. Trong tác phẩm này chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ của
Đảng Lao Động Việt Nam đã có nhiều bài viết, bài nói nêu cao vai trị của trí thức
trong sự nghiệp cách mạng. Gần hai mươi năm sau (năm 1976), nhà xuất bản Sự
Thật đã tập hợp, bổ sung và xuất bản cuốn sách với nhan đề Về vấn đề trí thức và
cách mạng. Năm 1960, Đảng Xã hội Việt Nam xuất bản tác phẩm Ký ức và cảm
nghĩ, mặc dù chỉ là một tập hợp các bài nhật ký, ký ức, hồi ký, nhưng đã phản ánh


4

được những suy nghĩ và tư tưởng của trí thức Việt Nam trong những chặng đường
tham gia hoạt động kháng chiến chống Pháp.
Có nhiều tác phẩm viết về trí thức cách mạng Việt Nam trong kháng chiến
chống Pháp từ cuộc đời, sự nghiệp đến vai trị, đóng góp to lớn của họ vào cuộc
chiến gian nan, đầy khổ ải này, tiêu biểu như: Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển
vọng, của tác giả Phạm Tất Dong, xuất bản năm 1995; Một số vấn đề trí thức Việt
Nam, Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức, của tác giả Nguyễn Văn Khánh, xuất
bản năm 2001; Tác giả Hàm Châu với tác phẩm Người trí thức quê hương, xuất bản
năm 2000,... Hầu hết các tác phẩm đều đề cập đến những đóng góp của tầng lớp trí
thức cách mạng Việt Nam, khẳng định tầm quan trọng của họ trong cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp. Bên cạnh đó có những cuốn sách viết về trí thức ở
những vùng miền cụ thể, đặc biệt là ở Nam Bộ, với những tác phẩm như: Trí thức
Sài Gịn – Gia Định 1945 – 1975, của tác giả Hồ Hữu Nhựt xuất bản năm 2001; Hồ
Sơn Điệp với cuốn sách Trí thức Nam bộ trong kháng chiến chống Pháp 19451954, xuất bản năm 2003...Các tác phẩm này nói đến sự hình thành và vai trị của trí
thức Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Miền Nam nói riêng và cả nước
nói chung.
Viết về những nhà trí thức tiêu biểu trong giai đoạn 1945-1954 được nhiều tác
giả quan tâm, điều này được thể hiện qua số lượng tác phẩm đã phát hành: Tôn Thất
Tùng - cuộc đời và sự nghiệp, xuất bản năm 1997; Hồ Đắc Di - cuộc đời và sự
nghiệp, xuất bản năm 1999; Đặng Văn Ngữ - cuộc đời và sự nghiệp, xuất bản năm
2000; Tố Hữu người cộng sản kiên trung, nhà văn hóa tài năng, xuất bản năm 2004;
Những người trong Hoàng tộc nhà Nguyễn đi theo cụ Hồ, của Nguyễn Văn Khoan
chủ biên xuất bản năm 2010,... Trong đó, đáng lưu ý nhất là hai tác phẩm Bác Hồ
với nhân sĩ trí thức, của tác giả Trần Đương, xuất bản năm 2005 và tác phẩm Những
tấm gương ham đọc sách và tự học thời đại Hồ Chí Minh, xuất bản năm 2016 của
tác giả Vũ Dương Thúy Nga, hai tác phẩm này một mặt tập hợp khá đầy đủ các trí
thức lớn trong giai đoạn kháng chiến, kiến quốc, mặt khác làm nổi bật chân dung
các nhà trí thức từ những đóng góp của họ trên nhiều lĩnh vực khác nhau, qua đó


5

đánh giá vai trò của tầng lớp này đối với những thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm và xây dựng đất nước, đặt biệt là trong cuộc đấu tranh chống lại
thực dân Pháp.
Trí thức và vai trị của họ trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến, các tác giả Nguyễn Huy Thống,
Vũ Cao Đàm, Nguyễn Trọng Chuẩn đồng chủ biên cuốn Chủ nghĩa xã hội và trí
thức, xuất bản năm 1994; Phạm Tất Dong (chủ biên) cuốn sách Định hướng phát
triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xuất bản năm

2001; Nguyễn Thanh Tuấn, Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, xuất bản năm 1998.
Ngoài ra, trên các tạp chí chuyên ngành như tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp
chí Xưa và Nay, tạp chí Cộng sản... đã đăng tải rất nhiều bài viết, bàn về các trí thức
cụ thể, vai trị của trí thức trong kháng chiến. Tiêu biểu là các bài viết của Nguyễn
Đình Tứ, Phạm Tất Dong về Trí thức và cơng tác trí thức của Đảng, Tạp chí Cộng
sản, số 6, 1996; Hà Học Trạc: Vai trị của giới trí thức trong sự nghiệp đổi mới, Tạp
chí Khoa học và Tổ quốc số 1, 1994; Phan Thanh Khơi: Trí thức trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí Cộng sản, số 9, 1995… Các bài
viết thể hiện những quan điểm nhìn nhận và tiếp cận khác nhau, tuy nhiên ít nhiều
đều thống nhất trong việc đánh giá vai trò, những đóng góp của các trí thức trong
từng giai đoạn lịch sử.
Tuy nhiên, so với vị trí, vai trị của đội ngũ trí thức cách mạng Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chỉ có từng ấy cơng trình nghiên
cứu là một con số khiêm tốn, và sự thật cho đến nay chưa có một cơng trình nghiên
cứu khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về vai trị của trí thức
cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến này. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những
bài nghiên cứu, cơng trình đó, chúng tôi mạnh dạn đề xuất và thực hiện đề tài “Vai
trị của trí thức cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm
1945 đến năm 1954”, theo một hướng tiếp cận nghiên cứu chuyên sâu, tập trung vào
vai trị của trí thức cách mạng Việt Nam.


6

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng luận văn nghiên cứu là vai trò trí thức cách mạng Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về tầng lớp trí thức Việt Nam,

qua đó thấy được vai trị của trí thức cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc từ năm 1945 đến năm 1954.
Về thời gian: Luận văn xác định thời gian nghiên cứu trong khoảng thời gian
từ năm 1945 đến năm 1954. Bởi, nguyên nhân:
Năm 1945, Việt Nam thực hiện thành công cuộc CMT8-1945, dẫn đến sự ra
đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa – Nhà nước cơng nơng đầu tiên của
khu vực Đông Nam Á.
Năm 1954 với chiến thắng lẫy lừng ở Điện Biên Phủ, kết thúc 9 năm kháng
chiến chống thực dân Pháp.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Thơng qua việc nghiên cứu có hệ thống về tầng lớp trí thức cách mạng Việt
Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, qn sự… từ đó thấy được những
đóng góp của tầng lớp này vào thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Pháp; Trong thời buổi cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay
tầng lớp trí thức vẫn giữ được vai trị lịch sử của mình.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đi sâu tìm hiểu về những hoạt động của tầng lớp trí thức cách mạng Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Làm rõ vai trị, sự đóng góp của trí thức cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống Pháp (1945 – 1954), trên các lĩnh vực quân sự, xây dựng lực lượng, kinh tế
kháng chiến, giáo dục y tế, mặt trận ngoại giao,...


7

5. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu
* Nguồn tư liệu: Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng nhiều nguồn tư
liệu khác nhau bao gồm:
- Tài liệu lưu trữ tại các Trung tâm lưu trữ quốc gia, các trường Đại học, các

Bảo tàng...
- Các văn kiện của Trung ương Đảng, Chính phủ, Hồ Chí Minh tồn tập và
Lịch sử Đảng bộ địa phương để tìm hiểu về chính sách của Đảng đối với trí thức.
- Hồi ký của các đồng chí lãnh đạo, các nhà trí thức đã từng tham gia hoạt
động trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc 1945 - 1954.
- Cơng trình, bài nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đã xuất bản,
cơng bố trên các sách, báo, tạp chí nghiên cứu chuyên ngành.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận Mác xít, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức. Trong q trình
nghiên cứu, đề tài sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chủ yếu: phương pháp lịch
sử kết hợp với phương pháp logic.
Ngoài ra, đề tài cịn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng
hợp,...Để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài là cơng trình nghiên cứu tương đối tồn diện và có hệ thống về vai trị
của trí thức cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945 – 1954), sẽ đóng góp:
Những tư liệu quan trọng cho các nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề trí thức
nói chung, trí thức cách mạng Việt Nam nói riêng.
Kết quả của luận văn sẽ làm cơ sở cho việc giáo dục truyền thống đấu tranh
cách mạng cho thế hệ trẻ về những tấm gương trí thức cách mạng; Giúp cho Đảng
nhà nước ta thấy được vị trí quan trọng của tầng lớp này trong chiến tranh và trong
thời buổi hiện nay, có thêm nhiều chính sách nhằm phát huy hơn nửa vai trò của
tầng lớp này trong thời gian tới.


8

7. Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được
chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát tầng lớp trí thức cách mạng Việt Nam trước CMT8-1945
Chương 2: Vai trò của trí thức cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống
thực dân Pháp từ năm 1945 đến năm 1954
Chương 3: Vai trị của tầng lớp trí thức Việt Nam trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay


9

CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT TẦNG LỚP TRÍ THỨC CÁCH MẠNG VIỆT NAM
TRƯỚC CMT8 - 1945
1.1. Khái niệm trí thức và trí thức cách mạng Việt Nam
1.1.1. Trí thức
Trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, trí thức là một vấn đề rất
lớn và phức tạp đã từng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà chính trị và
khoa học. Theo tiếng La tinh, thuật ngữ trí thức (intelligentia) chỉ những người có
hiểu biết, có trí thức. Tầng lớp xã hội này bao gồm những người chuyên lao động trí
óc. V.I. Lênin viết: “…người trí thức, tầng lớp trí thức theo ngữ nghĩa Đức là
Literat, Literatentum, bao gồm khơng chỉ những nhà văn hóa học mà tất cả những
người có văn hóa…”[24. Tr.11].
Từ "tầng lớp trí thức" (intelligentsia) xuất hiện lần đầu tiên ở Nga vào nửa đầu
thế kỷ 19, với định nghĩa “trí thức là những người có học vấn và kiến thức chun
mơn trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, văn hóa và đang làm nghề lao động tri óc”.
Trong đại từ điển bách khoa Xơ Viết cho rằng: “trí thức là tầng lớp xã hội của
người lao động trí óc, chủ yếu là lao động phức tạp, sáng tạo, là sự phát triển phổ
biến văn hóa”.
Hay theo Liên đồn quốc tế quy định: “Lao động tri thức là người mà hoạt

động đòi hỏi sự nỗ lực về tinh thần với sáng kiến và nhân cách quan trọng hơn nỗ
lực về thể chất. Do đó, trí thức là những người làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật,
văn học, khoa học những người làm nghề tự do, những người lao động trí thức được
trả lương (kỹ sư, công chức chuyên viên và sinh viên v.v)” [24, tr.2].
Ở nước ta tồn tại một số khái niệm khá đơn giản về trí thức: chỉ những người
lao động trí óc là trí thức, các khái niệm chỉ cốt để phân biệt với những người lao
động chân tay như công nhân và nông dân. Một quan niệm bớt đơn giản hơn một
chút thì cho rằng hễ có trình độ học vấn từ cấp cao đẳng, đại học trở lên là trí thức.
Theo từ điển Tiếng Việt của GS. Nguyễn Lân và Đại từ điển tiếng Việt của
GS. Nguyễn Như Ý, “trí thức” là người chuyên làm việc, lao động trí óc (trí là hiểu


10

biết, thức là biết) [69, tr.1705]. Hay nói như chủ tịch Hồ Chí Minh: “người trí thức
có cả hai mặt tài và đức”. Cụ thể hơn, trí thức phải có đủ ba đặc điểm: “Một là có
học vấn cao (khơng phải bằng cấp); hai là nhân cách phải tiêu biểu, nêu gương tốt
cho xã hội; ba là khí tiết bảo vệ chân lý, lẽ phải. Nếu thiếu một trong ba đặc điểm đó
thì dù thế nào chăng nữa cũng khơng thể gọi là trí thức” [27. Tr.31].
Trong Nghị Quyết số 27-NQTW (6/8/2008) của Đảng Cộng sản Việt Nam về
“Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, đã đưa ra
khái niệm: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh
vực chun mơn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm
giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”.
Khái niệm này đã khái quát những đặc trưng và tiêu chí cơ bản nhất của trí thức
hiện nay trong nhìn nhận, đánh giá trí thức.
Theo thống kê trên thế giới có trên 60 định nghĩa về “trí thức”. Các định nghĩa
đều đứng trên lập trường, quan điểm, căn cứ vào những tiêu chí khác nhau, nhưng
các khái niệm nổi lên 2 vấn đề cơ bản:
-


Là người lao động trí óc có chun mơn cao

-

Là người có trình độ học vấn cao

Theo cách hiểu trên thì tầng lớp trí thức là một tập hợp mở và đa dạng, không
giống bất kỳ một tập hợp nào khác trong xã hội như nông dân, công nhân, thợ thủ
công, quân nhân, thương nhân hay người bn bán nhỏ. Trí thức có thể là bất kỳ ai
trong các tập hợp trên, miễn là có hiểu biết sâu rộng và tham gia lao động trí óc. Tuy
nhiên, bộ phận hạt nhân của tầng lớp trí thức là các nhà nghiên cứu; các giảng viên
đại học; các bác sĩ, dược sĩ cao cấp; các nhà văn, nhà thơ, nhà điêu khắc, nhạc sĩ,
họa sĩ, nhà báo; các nhà quản lý và công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước.
1.1.2. Trí thức cách mạng Việt Nam
Cách mạng là xóa bỏ cái cũ để thay thế bằng cái mới tiến bộ hơn, là một sự
thay đổi sâu sắc, thường là xảy ra trong một thời gian tương đối ngắn. Các cuộc
cách mạng có thể dẫn đến thay đổi trong các thể chế chính trị - xã hội, hoặc thay đổi


11

lớn trong một nền kinh tế hay văn hóa. Cách mạng đã từng xảy ra trong nhiều lĩnh
vực như xã hội, chính trị, văn hố, kinh tế, cơng nghiệp...
Cách mạng khơng phải như đảo chính chỉ là một sự thay đổi ngôi đơn thuần
mà bao giờ cũng là một bước nâng cao hay đổi mới về mặt văn hóa, và trong các
cuộc cách mạng không thể thiếu sự tham gia của tầng lớp trí thức. “Cả một thế kỷ
ánh sáng đã tạo nên cơ sở văn hóa cho Cách mạng 1789 vĩ đại ở Pháp, một trong
những cuộc cách mạng tiêu biểu nhất của lồi người. Vì vậy bao giờ Cách mạng
cũng chứa đựng một hàm lượng trí tuệ nhất định, và trong bất cứ cuộc cách mạng

nào không thể khơng có vai trị của trí thức”[57, tr.12].
Trí thức và cách mạng là một vấn đề có ý nghĩa đặt biệt quan trọng cả về lý
luận và thực tiễn. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lênin đã đề cập sâu sắc tới vai
trị của trí thức đối với sự phát triển của cách mạng. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc –
người trí thức cách mạng Việt Nam tiêu biểu đã tiếp nhận chân lý cách mạng từ quê
hương cách mạng tháng Mười Nga, rồi vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh
cụ thể của xã hội Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa đoàn kết yêu nước vững bền,
làm nên thắng lợi cuộc Cách mạng tháng Tám 1945. Bên cạnh việc lãnh đạo cuộc
Cách mạng này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã lơi cuốn hầu hết các tầng lớp trí thức Việt
Nam đương thời đi theo, trong đó vai trị hết sức quan trọng thuộc về thanh niên trí
thức. “Nếu nói cách mạng là ngày hội lớn của quần chúng thì có thể nói rằng thanh
niên trí thức Việt Nam đã đi vào cuộc Cách mạng tháng Tám như đi trẩy hội. Họ
tiến bước theo nhịp oai hùng của những hành khúc Tiếng gọi thanh niên và Tiến
quân ca, chắp cánh bởi tinh thần lãng mạng cách mạng tuyệt vời!”[57, tr.14].
Vậy trí thức cách mạng Việt Nam là gì? Trí thức cách mạng Việt Nam là một
khái niệm được đưa ra để phản ánh một tầng lớp trí thức của xã hội gắn với thời kỳ
đấu tranh cách mạng, trong cơng cuộc giải phóng dân tộc. Từ lý luận và thực tiễn,
Hồ Chủ Tịch khẳng định trí thức là phải người hiểu biết cả về lý thuyết lẫn thực
hành, lý luận phải đem ra thực hành, thực hành phải nhằm theo lý luận. “Lý luận
cũng như cái tên (hoặc viên đạn), thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà
khơng bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như khơng có tên. Vì vậy, chúng ta phải gắng


12

học, đồng thời học thì phải hành”[24, tr.32]. Trên cơ sở đó, Người đã đưa ra khái
niệm cụ thể và đầy đủ về trí thức cách mạng: là người “vừa hồng vừa chuyên”, là
người “vừa có tài vừa có đức”, trong đó đức là cái gốc (nền tảng), tài là cái quan
trọng. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954, tầng lớp trí thức cách mạng Việt
Nam đã góp phần không nhỏ trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong công

cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp nhằm giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt
Nam.
1.2. Sự hình thành và phát triển tầng lớp trí thức ở Việt Nam
* Thời kì nhà nước Văn Lang – Âu Lạc
Người trí thức Việt Nam xuất hiện trong lịch sử như một đại biểu chân chính
về tư tưởng và văn hóa, về tài năng và trí tuệ của cả dân tộc. Cùng với sự phát triển
của sản xuất, của thực tiễn dựng nước và giữ nước, sự hiểu biết của dân tộc ta về
giới tự nhiên, về đời sống xã hội và về chính bản thân con người dần dần được nâng
cao. Chủ nhân của những kiến thức ngày một phong phú đó chưa phải là tầng lớp
riêng biệt của xã hội mà chính là khối cộng đồng người Việt Nam đã qua nhiều thời
đại vừa đấu tranh với thiên nhiên, vừa chống xâm lược và áp bức.
Từ buổi bình minh của xã hội Việt Nam, những thành tựu huy hoàng của thời
đại Hùng Vương và Âu Lạc đã chứng minh sự phong phú của trí tuệ Việt Nam.
Những công cụ sản xuất bằng đá và bằng kim loại. Những đồ trang sức, đồ gốm,
đặc biệt là trống đồng và vũ khí bằng đồng được chế tác từ trước công nguyên, đã
chứng tỏ rằng: ngay từ bấy giờ ông cha ta đã có một sự hiểu biết tinh tế về hình khối
và trọng lượng, về âm thanh cũng như về thuộc tính của kim loại, của động vật, thực
vật. Những hoa văn trên các trống đồng, trên đồ gốm và đồ trang sức thời bấy giờ
cũng đủ khẳng định trình độ thẩm mỹ của người Việt Nam lúc ấy đã nhận thức được
tính đối xứng và mối quan hệ phức tạp giữa các đường thẳng và đường cong, đã tạo
ra những giá trị vật chất và tinh thần đáng kể.
Văn học dân gian, đặc biệt là truyện thần thoại cũng nói lên những hiểu biết
của người Việt Nam thời bấy giờ về các hiện tượng tự nhiên và xã hội, đồng thời
phản ánh nguyện vọng và khả năng, ý chí, ước mơ của họ. Lúc đó xã hội chưa có sự


13

phân hóa giai cấp rõ rệt, chưa có sự phân cơng lao động trí óc và tay chân. Cả cộng
đồng gánh trên mình tồn bộ trách nhiệm lịch sử: sản xuất, chiến đấu, suy nghĩ và

sáng tạo.
Lịch sử trí thức Việt Nam đã bắt đầu từ đó. Những người trí thức vơ danh đã
hịa với tập thể nhân dân và chính tập thể nhân dân lúc đó đã làm nhiệm vụ của
người trí thức.
* Trong thời kì hơn một nghìn năm Bắc thuộc
Gần 10 thế kỉ, chính sách của phong kiến phương Bắc là đồng hóa người Việt.
Bởi vậy, cùng với sự truyền bá chữ Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc đã áp
đặt một nền giáo dục ngoại lai và nô dịch cho đối tượng là con em các quan lại cai
trị và một số người Việt ở tầng lớp trên, nhằm đào tạo những con người giúp việc
cho bộ máy cai trị của chúng. Cho nên, có thể nói suốt một ngàn năm Bắc Thuộc,
trên đất nước ta chưa hình thành nên tầng lớp riêng biệt gọi là trí thức dân tộc. Dẫu
sử sách cịn cũ cịn ghi chép lại có một số nho sĩ người Việt Nam thành đạt và được
tuyển làm quan như Trương Trọng làm thái thú ở Kim Thành, Lý Tiến làm thứ sử ở
Giao Châu, Lý Cần làm tư lệ hiệu úy đời Hán, Tính Thều làm Quảng Dương mơn
lang (chức gác cổng thành, sau đã bỏ về giúp Lý Bôn khởi nghĩa và làm gián nhị đại
phu em là Khương Công Phục làm Bắc bộ thị lang đời Đường (Công Phụ và Công
Phục đều làm Bắc bộ đều đậu tiến sĩ đời Đường)…, nhưng họ chưa phải là những trí
thức tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam.
* Thời kì độc lập tự chủ
Với chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại của Ngô Quyền vào năm 938 đã chấm dứt
hẳn ách đô hộ kéo dài hơn một ngàn năm của phong kiến Trung Quốc. Từ đây, nhân
dân ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ, có đầy đủ điều kiện để xây dựng và phát
triển đất nước về mọi mặt. Đặc biệt, đứng trước yêu cầu phát triển văn hóa của quốc
gia độc lập, các triều đại phong kiến trong thời kỳ này đã hết sức quan tâm đến việc
xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức của dân tộc:
Sau khi giành được độc lập, các triều Ngô (939 – 965), Đinh (968 – 980), Tiền
Lê (980 – 1009), vì phải chăm lo củng cố chính quyền và vì thời gian trị vì của mỗi


14


triều đại khá ngắn nên việc tổ chức giáo dục cịn hạn chế. Vào những năm này,
những nhà trí thức đầu tiên của nước ta phần nhiều là nhà sư. Họ khơng dừng lại ở
cương vị người tu hành thốt tục, mà còn tham gia vào các hoạt động nội trị, trong
đó có hoạt động giáo dục, chủ yếu là giáo dục phật học bằng chữ Phạn và chữ Hán.
Việc giáo dục Nho học với mầm mống từ thời Bắc thuộc chỉ phát triển lẻ tẻ, chưa có
vị trí đáng kể.
Phải đến triều vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072), giáo dục Nho học mới được
chính thức xác lập trên đất nước ta. Mở đầu bằng việc cho dựng Văn Miếu (năm
1070), rồi sau đó là Quốc Tử Giám (1076) và mở khoa thi đầu tiên ở Thăng Long
(1075). Tiếp đó, việc học hành, thi cử ngày càng được đẩy mạnh. Các kì thi nho học
xen lẫn với các kì thi Tam giáo thường xuyên được mở dưới các triều đại Lý – Trần,
do đó đã đào tạo ra hàng loạt trí thức, làm cho đội ngũ trí thức nước ta ngày một trở
nên đông đảo, đảm nhận các chức vụ của bộ máy chính quyền.
Đặc biệt dưới đời nhà Trần, giáo dục Nho học được phát triển ngày một quy củ
hơn. Các vua Trần đều rất quan tâm đến việc mở trường lớp, tổ chức các khoa thi để
tuyển chọn người hiền tài. Ngoài Quốc Tử Giám, năm 1253 nhà Trần (đời vua Trần
Thái Tơng) cịn lập thêm Quốc Học việc ở kinh đô Thăng Long; năm 1281 lập nhà
học ở phủ Thiên Trường (Nam Định). Năm 1397, đời Trần Thuận Tông, Hồ Qúy Ly
đặt thêm Học quán tại lộ, phủ, châu nhằm thu hút rộng rãi các nho sĩ. Cũng dưới đời
Trần, lần đầu tiên, các kì thi Thái Học Sinh được phân chia làm 3 hạng (tam giáp).
Đến năm 1247 mở khoa thi tiến sĩ.
Trên cơ sở của sự phát triển văn hóa giáo dục, trong thời kì này đã xuất hiện
nhiều nhà khoa bảng, tiêu biểu cho đỉnh cao trí tuệ dân tộc như Lê Văn Thịnh –
người đỗ đầu khoa thi Nho học đầu tiên; Nguyễn Hiền – khi đỗ mới 13 tuổi; Mạc
Đỉnh Chi – Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm Giáp thìn, niên hiệu Hưng
Long 12 (1304), đời Trần Anh Tơng. Nhiều người sau này trở thành nhà văn hóa lớn
của dân tộc như Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Lê Văn Hưu…



15

*Từ thời Lê đến thời Nguyễn (thế kỉ XV – thế kỉ XIX)
Sau hơn 20 năm bị gián đoạn do cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Minh
(1407 – 1428), dưới triều các vua Lê, một thời kì mới của dân tộc đã được mở ra,
thời kì nước Đại Việt phát triển hưng thịnh bậc nhất lịch sử. Nền văn hóa dân tộc
được phát triển một cách nhanh chóng và đạt được những thành tựu rực rỡ. Giáo
dục Nho học phát triển mạnh, việc thi cử càng đi vào nề nếp. Sau khi lên ngôi, chỉ
trong khoảng thời gian rất ngắn (1428 – 1433), Lê Thái Tổ đã liên tiếp tổ chức
nhiều kì thi như khoa thi Minh Kinh (1433), khoa thi Hành Từ (1431), thi Văn Sách
(1433) nhằm tuyển chọn đội ngũ quan lại đảm nhận các chức vụ trong bộ máy chính
quyền các cấp thành lập sau khi đuổi được giặc Minh về nước. Tiếp theo Lê Thái Tổ
và Lê Thái Tông, vua Lê Thánh Tông (1460- 1497) đã có nhiều biện pháp phát triển
giáo dục. Vua đã cho mở rộng nhà Thái Học (Quốc Tử Giám), lập thêm nhiều
phòng học, lấy thêm học trò, định lại các kén chọn sĩ tử, lập bí thư khố (thư viện) để
chứa ván in sách và phát sách cho học trò. Vua đã bổ sung nhiều điều trong thi cử
như vào năm 1462, đã ban hành định lệ “bảo kết thi hương”quy định những người
có đức hạnh mới được đi thi. Ngoài việc làm long trọng hơn lễ xướng danh, treo
bảng, ban mũ áo, cờ biển vinh quy, Lê Thánh Tông còn cho dựng bia tiến sĩ vào
năm 1484 cho các khoa thi từ năm 1442 đến lúc đó.
Được sự quan tâm của nhà nước phong kiến, tính từ khoa thi đầu tiên dưới thời
Lý đến khi chấm dứt thi cử Nho học, số người đỗ tiến sĩ trên ba ngàn người, số
trạng nguyên là 444 người. Riêng dưới triều Lê đã có đến 500 tiến sĩ và 9 trạng
nguyên. Nhiều tiến sĩ đỗ vào lúc còn trẻ tuổi (18, 19 tuổi), nhiều gia đình cha con,
anh em ruột đỗ đồng khoa, nhiều nhà 3, 4 người đỗ đại khoa. Xung quanh Đơng
Kinh (Hà Nội ngày nay) có nhiều vùng nổi tiếng về học tập khoa cử như làng Mộ
Trạch, làng Kim Đôi, làng Liêu Xá…
Dưới triều Mạc, nền giáo dục Nho học vẫn tiếp tục được phát triển. Tính từ
khoa Kỉ Sửu năm thứ 3 Minh Đức (1529) đến khoa Nhâm thìn năm đầu Bảo Định
(1592), triều Mạc đã tổ chức 21 khoa thi, lấy đỗ 484 tiến sĩ, trong đó có 11 trạng

nguyên. Nhiều người đã trở thành danh nhân, đóng góp cho nền văn hóa dân tộc


16

như: Giáp Hải, Đỗ Uông, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từ giữa thế kỉ 16, xã hội Việt Nam
bước vào thời kì khủng hoảng với những cuộc chiến tranh giành chính quyền kéo
dài giữa các chính quyền Lê và Mạc, Trịnh và Nguyễn. Điều đó đã ảnh hưởng
khơng nhỏ đến sự phát triển của đội ngũ trí thức Nho học. Nền giáo dục trong thời
kì này mặc dù vẫn được duy trì (thời Lê, Mạc và Lê Trung Hưng đã có 121 khoa thi,
lấy đỗ 2241 tiến sĩ, trong số đó có 37 trạng nguyên), nhưng nhìn chung là sa sút cả
về nội dung giáo dục và thi cử [24, tr.74]. Nhất là về giáo dục ở Đàng trong (thời kì
Trịnh – Nguyễn phân tranh 1533 – 1578), các chúa Nguyễn do lo mở mang bờ cõi,
tổ chức cho dân khai khẩn đất đai, tổ chức chính quyền cai trị, tuyển mộ binh lính,
tích trữ lương thực, đào hào đắp lũy để chuẩn bị đối phó với chúa Trịnh, vì vậy việc
giáo dục ở Đàng Trong hầu như không được để ý. Mãi đến năm 1674, 1675 mới mở
được một vài khóa thi, nhưng nội dung còn sơ sài, chủ yếu tuyển chọn quan lại làm
cơng việc hành chính, số người đi học và đi thi không được ghi lại.
Phải đến thời Tây Sơn, sau chiến thắng quân Mãn Thanh xâm lược, mặc dù
phải giải quyết nhiều việc cấp bách, vua Quang Trung cũng rất quan tâm đến sự
nghiệp giáo dục. Vua đã ban hành “Chiếu lập học” quy định việc tổ chức học tập
đến phủ, cấp xã, và chấn chỉnh việc thi cử…
Sự nghiệp giáo dục Nho học được coi trọng và tiếp tục đẩy mạnh dưới thời nhà
Nguyễn. Sau khi lên ngôi vua, vua Gia Long cùng với các quan đầu triều Nguyễn
nhận thức được vai trò quan trọng của Nho giáo trong việc củng cố chế độ phong
kiến tập quyền chuyên chế nên đã lấy Nho giáo làm quốc giáo, tổ chức và phát triển
giáo dục Nho học. Hệ thống trường học hình thành đến tận phủ, huyện, tổ chức
trường thi và các khoa thi. Triều Nguyễn đã tổ chức 47 khoa thi Hương, lấy đỗ 5232
cử nhân, 39 khoa thi Hội và thi Đình, lấy đỗ 588 người, trong đó có 292 tiến sĩ và
266 phó bảng [24, tr.74].

Thời kì này cũng là thời kì xuất hiện nhiều cơng trình học thuật về sử, địa, hội
điển, hiến chương…; Nhiều tác phẩm văn học chữ Hán và chữ Nôm có giá trị đã
được soạn thảo, gắn liền với nhiều nhà khoa bảng như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn
Thông, Tống Duy Tân, Nguyễn Trường Tộ…


17

*Thời thuộc Pháp (đầu thế kỉ XX)
Trong thời kì đầu (từ năm 1884 đến năm 1919): thực dân Pháp vẫn áp dụng
hai hệ thống giáo dục, thi cử phong kiến và thực dân song song với nhau. Mặc dầu
dưới sự đô hộ của Pháp, triều Nguyễn vẫn tổ chức được 12 khoa thi. Ở khoa thi Nho
học cuối cùng vào năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khải Định 4 (1919), tổng số người đỗ là
23, trong đó có 5 Hồng Giáp và 16 Phó Bảng [24, tr.76].
Nhằm nhanh chóng tìm kiếm những trí thức phục vụ cho sự cai trị của mình,
trung thành với sự bảo hộ của chính quyền thuộc địa, thực dân Pháp đã từng bước
chuẩn bị triển khai nền giáo dục Pháp – Việt như: đưa chữ Pháp và chữ Quốc ngữ
vào trường học. Nhiều môn học mới: như lịch sử nước Pháp, địa lý, canh nông,
thiên văn…được đưa vào nhà trường, từng bước thay thế Nho học.
Đến năm 1919, thực dân Pháp đã bỏ Nho học, bỏ hệ thống thi cử phong kiến
Việt Nam, thay vào đó chế độ thi cử duy nhất là thi cử thực dân. Và từ đây, Nho học
bắc đầu thời kỳ suy tàn, hệ thống trường lớp bị thu hẹp, dẫn đến số lượng trí thức
được đào tạo trong thời kì này là rất ít ỏi. Đáng kể như năm học 1937 – 1938, thời kì
tương đối phát triển của chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam cũng chỉ có 400 học sinh
trung học, 547 sinh viên đại học và 2.051 học sinh học nghề. Đến năm 1945, sau khi
cách mạng tháng Tám thành công, chế độ cũ chỉ để lại cho nhà nước cách mạng có
khoảng 400 người có trình độ đại học và cao đẳng [24, tr.77].


18


1.3. Đặc điểm và vị trí trí thức Việt Nam trong lịch sử
1.3.1. Đặc điểm tầng lớp trí thức Việt Nam
Xem xét quá trình hình thành cũng như nhìn nhận một cách tổng thể qua nhiều
giai đoạn, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước năm 1945, trí
thức Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, trí thức Việt Nam được hình thành hồn tồn khác với trí thức
phương Tây và các nước phương Đơng. Nếu như ở Châu Âu có thời kì lịch sử khá
dài mà tăng lữ là đại diện cho những người có học thức, và sau đó là những người
giàu có, “đặc quyền về lao động trí óc, nếu như ở Trung Quốc trước kia đám quan
lại có học thức là bộ phận cơ bản của tầng lớp trí thức, thì ở Việt Nam suốt 10 thế kỉ
(1075 – 1919), trong số hàng vạn tú tài, cử nhân và trên 3000 nhà khoa bảng có
nhiều nhà khoa bảng đã từ đám bình dân mà vươn lên thành những sĩ phu, đại diện
cho trí tuệ của dân tộc trong q trình phát triển đất nước. Nhìn chung, đội ngũ trí
thứcViệt Nam phần lớn xuất thân là con em nông dân, công nhân, hoặc được hình
thành trong q trình trí thức hố giai cấp cơng nhân và nơng dân. Chính đặc điểm
này đã làm cho đội ngũ trí thức Việt Nam có ý thức gắn bó sâu sắc với người lao
động, thơng cảm với người lao động vất vả, cực nhọc, với hồn cảnh nghèo nàn, lạc
hậu của đất nước. Họ có tinh thần đồn kết, tự tơn dân tộc và có lịng u nước nồng
nàn, sẵn sàng đồn kết, hợp tác cùng các giai tầng khác trong xã hội xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp.
Thứ hai, trí thức Việt Nam giàu lịng u nước, mang trong mình ý thức dân
tộc. Trí thức Việt Nam có tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc rất sâu đậm, ln
ln gắn bó với sự nghiệp giữ gìn nền độc lập của quốc gia, sự thống nhất của đất
nước. Suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trí thức Việt Nam luôn trăn trở trước vận mệnh
của dân tộc, của nhân dân. Họ ln gắn bó với nhân dân, có mặt cùng nhân dân,
cùng với nhân dân ngay từ ngày đầu dựng nước và trong suốt những năm giữ nước.
Bằng nhiệt huyết và kiến thức của mình, người trí thức đã góp phần vào thắng lợi
trong cơng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc; xây dựng nền văn hóa vẻ vang, lâu



19

đời của dân tộc; góp phần hướng trí tuệ Việt Nam vào việc phòng chống thiên tai,
phát triển sản xuất, tạo nên bản sắc phong phú, đa dạng của nền kinh tế Việt Nam
Thứ ba, trí thức gồm hai bộ phận trí thức Nho học và trí thức Tây học cùng tồn
tại song song. Sau khi bình định xong Việt Nam, Pháp đẩy mạnh cơng cuộc thực
dân hóa bằng hai chương trình khai thác thuộc địa. Chương trình khai thác thuộc địa
của Pháp đã dẫn đến sự biến đổi toàn diện xã hội Việt Nam cả về cơ cấu, trình độ
kinh tế và về xã hội. Trong xã hội, bên cạnh các giai cấp, tầng lớp cũ, xuất hiện
những giai tầng mới như công nhân, tư sản, tiểu tư sản và lực lượng trí thức Tây học
(cịn được gọi là tầng lớp trí thức tân học) song song tồn tại cùng tầng lớp trí thức
Việt Nam truyền thống. Trí thức Tây học ngày càng lớn mạnh và có vai trị quan
trọng trong nhiều lĩnh vực của xã hội như chính trị, văn hóa - xã hội. Trí thức Tây
học là sản phẩm trực tiếp của hệ thống giáo dục phương Tây.
Thứ tư, trí thức là lực lượng đứng ra tiếp nhận và truyền bá các trào lưu tư
tưởng mới, châm ngòi nổ cho các phong trào đấu tranh. Mặc dù tiếp thu nền giáo
dục mới của phương Tây nhưng đa số trí thức Việt Nam tiếp nối truyền thống văn
hóa của dân tộc, đấu tranh chống văn hóa nơ dịch, chỉ tiếp nhận những giá trị văn
hóa bên ngồi phù hợp với văn hóa Việt Nam.
Phần lớn trí thức Tây học có nền tảng học vấn Nho học, họ kết hợp được tinh
hoa của cả hai nền văn hóa Đơng - Tây. Chính họ đã tạo nên sự thay đổi lớn trên
lĩnh vực văn hóa - xã hội, tư tưởng, chính trị ở Việt Nam trong thời gian này. Trí
thức Việt Nam rất nhạy cảm với thời cuộc, dễ tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ
và canh tân đất nước. Khi phong trào đấu tranh của quần chúng, công - nông thức
tỉnh, họ bước vào cuộc chiến đấu rất hăng hái và đóng một vai trị quan trọng trong
phong trào đấu tranh của quần chúng nhất là ở các đô thị. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, khi tư tưởng Duy Tân đi vào giai đoạn thoái trào, sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác - Lênin dần dần được truyền bá rộng rãi.
Nhiều trí thức đã đứng ra tiếp nhận và tuyền bá tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin

vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam. Nhiều người trong số
họ đã trở thành ngọn cờ đầu trong việc truyền bá chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân


20

tộc gắn với tư tưởng tiến bộ của nhân loại như: Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thái Học
v.v.. Một số người giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, sau này được bổ sung vào đội
ngũ đảng cộng sản, trở thành lớp đảng viên lớp tiền bối như: Trần Phú, Ngô Gia Tự,
Phạm Văn Đồng, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Võ Ngun Giáp, Nguyễn Văn Cừ,
Trường Chinh v.v.. Chính vì vậy, trí thức là một lực lượng quan trọng của cách
mạng Việt Nam, là lực lượng nhạy cảm với cách mạng, châm ngòi cho các phong
trào dân chủ, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
1.3.2. Vị trí của tầng lớp trí thức Việt Nam
Trong lịch sử việc trọng dụng nhân tài, chiêu hiền đãi sĩ là truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, được tiếp thu và phát huy trong suốt chiều dài lịch sử, được vận dụng
sáng tạo và phát triển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, từ cơng cuộc đấu
tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc cho đến quá trình thống nhất và xây dựng
đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc ta, là Người chiến
sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hoá kiệt xuất của nhân loại. Người đã để lại cho dân tộc và nhân
loại một kho tàng lý luận, tư tưởng cách mạng và khoa học vô giá, trong đó có tư
tưởng về trí thức. Người khẳng định, trí thức là một bộ phận quan trọng trong lực
lượng cách mạng và là “vốn liếng quý báu của dân tộc”.
Trong hồn cảnh nước mất nhà tan, trí thức Việt Nam đã đi tiên phong tham
gia cách mạng, là lực lượng đi đầu trong việc tiếp thu tư tưởng cách mạng tiến bộ
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tích cực truyền bá trong quần chúng nhân dân và hăng
hái tham gia vào các tổ chức cách mạng - tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nói về lực lượng này, Hồ Chí Minh cho rằng: Trí thức Việt Nam là lực lượng rất

nhạy bén với cái mới, với những tư tưởng tiến bộ, “có đầu óc dân tộc và đầu óc
cách mạng”, "có học thức, dễ cảm chính trị, … dễ tiếp thu sự giáo dục cách mạng
và cùng đi với cơng, nơng".
Cho rằng trí thức Việt Nam có vị trí, vai trò quan trọng trong cách mạng, nên
khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trước yêu cầu phải có một đường lối chính


21

trị rõ ràng, phải phân định rõ chiến tuyến giữa cách mạng và phản cách mạng, Hồ
Chí Minh đã xếp trí thức vào hàng ngũ lực lượng cách mạng của dân tộc do giai cấp
vô sản lãnh đạo, là một trong những đồng minh gần gũi của giai cấp công nhân và
nông dân. Người đã nhấn mạnh việc phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức…
để kéo họ vào phe vô sản giai cấp [16, tr.2].
Trong quá trình chuẩn bị mọi mặt tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền
tháng 8/1945, cơng tác kêu gọi trí thức đồn kết cùng giai cấp cơng nhân và nơng
dân được coi trọng; xác định nhiệm vụ quan trọng là phải hết sức liên lạc với tiểu tư
sản, trí thức, đưa trí thức lên mặt trận đấu tranh chống đế quốc phát xít; kêu gọi tìm
người tài đức và trọng dụng nhân tài.
Tuyên ngôn của Đảng ta cũng nêu rõ: “Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm
những công nhân, nông dân và lao động trí óc u nước nhất, hăng hái nhất, cách
mạng nhất. Và “lao động trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài năng”.
Đảng ta ln nhận thức sâu sắc về vai trò quan trọng của trí thức: “Trí thức là một
vốn quý của dân tộc. Khơng có trí thức hợp tác với cơng nơng thì cách mạng không
thể thành công và sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam mới sẽ khơng hồn thành
được”(Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam đối với trí thức, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1957, tr.8). Như vậy, xây dựng đội ngũ trí thức là xây dựng đội ngũ những
người lao động trí óc cùng bình đẳng với lao động cơ bắp, lao động kỹ thuật, lao
động thủ công. Những người trí thức là những người lao động thật sự và đóng góp
tích cực cho tiến bộ xã hội.

Thực tiễn đã chứng minh, trong mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ cách mạng đều rất
cần đến học vấn, tài năng và tâm huyết, sức lực của giới trí thức; đội ngũ trí thức
đồng hành cùng dân tộc tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa; và trong suốt quá trình cách mạng “Trí thức khơng có
bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí thức thơi”. Hàng loạt trí thức trẻ - những học sinh, sinh
viên yêu nước, giác ngộ cách mạng đã có mặt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo trung
kiên, giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy Đảng, Nhà nước trong q trình cách
mạng giải phóng dân tộc như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn


×