Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

THÀNH TỰU VĂN HÓA TINH THẦN VIỆT NAM THỜI KỲ LÝ TRẦN HỒ GIAI ĐOẠN CHỐNG QUÂN MINH XÂM LƯỢC VÀ GIAI ĐOẠN HẬU LÊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.2 KB, 36 trang )

THÀNH TỰU VĂN
HÓA TINH THẦN
VIỆT NAM THỜI KỲ
LÝ - TRẦN - HỒ GIAI
ĐOẠN CHỐNG QUÂN
MINH XÂM LƯỢC VÀ
GIAI ĐOẠN HẬU LÊ


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài ....................................................................... 1
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 1
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 1
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 2
6. Đóng góp của đề tài................................................................................... 2
7. Bố cục ........................................................................................................ 2
1. Thành tựu về văn hóa tinh thần dưới thời lý ............................................. 3
1.1. Tư tưởng và tôn giáo .......................................................................... 3
1.2. Giáo dục và khoa cử ........................................................................... 5
1.3. Văn học và chữ viết............................................................................ 5
1.4. Khoa học và kỹ thuật.......................................................................... 6
1.5. Nghệ thuật diễn xướng ....................................................................... 6
1.6. Nghệ thuật tạo hình ............................................................................ 8
2. Thành tựu văn hố tinh thần thời trần ..................................................... 11
2.1. Cơ sở chính trị .................................................................................. 11
2.2. Tư tưởng và tôn giáo ........................................................................ 11
2.3. Giáo dục và khoa cử ......................................................................... 13
2.4. Văn học và chữ viết.......................................................................... 14
2.5. Nghệ thuật diễn xướng ..................................................................... 15
3. Thành tựu văn hóa tinh thần dưới triều nhà Hồ ...................................... 17


4. Nhà Minh chủ trương hủy diệt văn hóa của nước ta............................... 19
4.1. Cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt của nhà Minh ........................ 19
4.2. Chính sách hủy diệt văn hóa Đại Việt của nhà Minh. ..................... 20
5. Thành tựu văn hóa tinh thần thời Hậu Lê ............................................... 23
5.1. Tư tưởng và tôn giáo ........................................................................ 23
5.2. Giáo dục và khoa cử ......................................................................... 24
5.3. Thành tựu về văn học ....................................................................... 26
5.4. Thành tựu về khoa học ..................................................................... 28
5.5. Nghệ thuật diễn xướng ..................................................................... 29
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 34


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự lớn mạnh về kinh tế, chính trị các vương triều Lý - Trần Hồ - Hậu Lê đã có sự phát triển rực rỡ về văn hóa. Đây là giai đoạn phát triển
thịnh đạt của văn hóa Đại Việt. Như Lê Qúy Đôn đã nhận định “Nước Nam ở
hai triều Lý, Trần nổi tiếng là văn minh”. Cùng với sự phục hưng, văn hóa
Đại Việt thời Lý - Trần - Hồ - Hậu Lê đã trở nên phong phú và phát triển ở
một tầm cao mới qua quá trình tiếp biến và tích hợp văn hóa. Trên cơ sở nền
văn hóa Việt cổ, với tư cách là những vương triều phong kiến độc lập các
triều đại đã tự nguyện, chủ động tiếp thu và cải biến những yếu tố văn hóa
Đơng Á, Trung Hoa cũng như các nền văn hóa Chămpa, phần nào đó đã có
thể tích hợp vào nền văn hóa dân tộc.
Cũng như mặt xã hội, văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần - Hồ - Hậu Lê đã
pha trộn và tổng hợp những yếu tố Nam Á và Đơng Á trong một vị thế cân
bằng văn hóa. Sự cân bằng ấy thể hiện trong tính đối trọng lưỡng nguyên và
đan xen giữa Phật, Đạo và Nho giáo, giữa văn hóa dân gian làng xã và văn
hóa quan liêu cung đình.

Chính vì sự phát triển rực rỡ của nền văn hóa Đại Việt dưới thời Lý Trần - Hồ - Hậu Lê nên chúng tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu.

2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Là sinh viên ngành Việt Nam học chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu nền
văn hóa của nước nhà với những thành tựu văn hoá tinh thần rực rỡ thời Lý,
Trần, Hồ, Hậu Lê. Qua đề tài này chúng tôi mong muốn được giới thiệu đến
mọi người những thành tựu văn hóa đặc sắc của Đại Việt dưới những triều đại
phong kiến.

3. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này chúng tơi chỉ tập trung nghiên cứu thành tựu văn hóa tinh
thần Việt Nam thời kỳ Lý - Trần - Hồ giai đoạn chống quân Minh xâm lược
và giai đoạn Hậu Lê.

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nói về vấn đề văn hóa dưới triều đại Lý - Trần - Hồ - Hậu Lê đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu nghiên cứu về
vấn đề này. Tuy nhiên, chỉ nghiên cứu tổng hợp nhiều lĩnh vực ở tất cả các

1


triều đại phong kiến, hoặc nghiên cứu mỗi một triều đại riêng. Chứ vẫn cịn ít
cơng trình nghiên cứu về văn hố tinh thần thời Lí - Trần - Hồ - Hậu Lê.

5. Phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài này chúng tôi đã thực hiện một số phương pháp nghiên
cứu như:
- Phương pháp tổng hợp và so sánh
- Phương pháp phân tích tư liệu

- Phương pháp liên ngành

6. Đóng góp của đề tài
Qua việc nghiên cứu đề tài này, chúng tơi muốn nêu lên một số thành tựu
văn hố tinh thần và tổng hợp vài nét nổi bật về văn hoá tinh thần của mỗi
triều đại thời phong kiến Việt Nam. Chúng tơi hy vọng sẽ được đóng góp
phần nào đó vào việc nghiên cứu văn hố của các thời đại phong kiến nước ta.

7. Bố cục
Đề tài được thực hiện gồm có phần mở đầu, nội dung, kết luận và tài
liệu tham khảo
1. Thành tựu văn hoá tinh thần thời Lí
2. Thành tựu văn hố tinh thần thời Trần
3. Thành tựu văn hoá tinh thần thời Hồ và giai đoạn kháng chiến chống
quân Minh xâm lược
4. Thành tựu văn hoá tinh thần thời hậu Lê

2


1. Thành tựu về văn hóa tinh thần dưới thời lý
1.1. Tư tưởng và tôn giáo
Dười thới Lý - Trần, Phật giáo có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Thời
bấy giờ, Phật giáo đã được truyền bá rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân,
được vua, quan lẫn dân chúng tơn sùng, và đã có ảnh hưởng sâu sắc trong đời
sống của xã hội, in rõ dấu ấn trong mọi lĩnh vực của văn hóa.
Thời Lý là giai đoạn bắt đầu cho sự thịnh đạt của Phật giáo ở Việt Nam.
Nhiều nhà sư đã tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị của đất nước và
giữ những cương vị quan trọng trong triều đình. Nhà vua và tầng lớp quý tộc
rất tôn sùng đạo Phật, nhiều người đã bỏ tiền ra dựng chùa, cúng ruộng đất

cho nhà chùa.
Các chùa tháp mọc lên ở khu vực kinh thành và khắp nơi danh lam thắng
cảnh trong nước. Sử chép: Vua Lý Công Uẩn mới lên ngôi đã cho phát 2 vạn
quan tiền và thuê thợ xây dựng 8 ngôi chùa ở quê hương của mình, lại phát
thêm 2 vạn quan tiền để dựng nhiều chùa chiền tại Kinh đô (như chùa Thắng
Nghiêm - 1010, chùa Chân Giáo - 1024, chùa Báo Thiên - 1056,…).
Vào năm 1031, vua Lý Thái Tông đã bỏ tiền ra xây dựng 100 ngôi chùa.
Bài Văn bia chùa Linh Xứng đă thừa nhận: “Từ khi có Phật giáo đến nay đã
hơn 2000 năm, mà sự thợ phụng ngày càng thêm mới. Hễ có cảnh đẹp, núi
non thì khơng nơi nào là khơng mở mang để xây dựng chùa chiền, nếu khơng
có các bậc vương cơng, đại thần giúp đỡ thì sao mà nên được.”
Các vua Lý - Trần không chỉ là người hâm mộ đạo Phật, mà cịn có
những trường hợp đã thốt tục đi tu. Các vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông,
Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông đều đã từng đi tu. Nhiều quý tộc, vương hầu cũng
theo đó tham gia tu học để trở thành những sư sãi. Trong nhân dân, số sư sãi
và tín đồ đạo Phật chiếm một tỷ lệ khá đông. Theo sách Thiền uyển tập anh, ở
chùa Kiến Sơ có hơn 100 tăng đồ, ở chùa Tùng Minh có hàng nghìn người
theo học đạo Phật, ở chùa Quang Minh có hơn 1000 tăng chúng…
Ngay vào năm mở đầu triều đại nhà Lý (1010) sau khi làm việc dời đô,
vua Lý Thái Tổ đã cho lập trai đàng và “độ dân làm tăng” đến năm 1014, vua
Lý Thái Tổ đã cho phép Tăng thống Thẩm Văn Uyển lập đàn chay ờ chùa
Vạn Tuế trong kinh thành Thăng Long để các tăng đồ đến thụ giới.
Trong quá trình phát triển của Phật Giáo lúc bấy giờ, phái Phật giáo
Thiền Tơng có những thành tựu nổi bật. Vua Lý Thánh Tông đã tham gia
3


cùng với sư Thảo Đường sáng lập ra một phái Thiền học mới ở Việt Nam:
Thiền phái Thảo Đường.
Nho giáo vốn là một cơng cụ đồng hóa của bọn phong kiến Phương Bắc

du nhập sang nước ta từ thời Bắc thuộc. Trong buổi đầu, Nho giáo chưa
chiếm được địa vị đáng kể, nhưng khi giai cấp thống trị Việt Nam dựng nhà
nước quân chủ độc lập thì Nho giáo lại dần dần có mặt trong đời sống chính
trị của quốc gia. Nhu cầu xây dựng chế độ trung ương tập quyền đã thúc đẩy
việc sử dụng và phát triển Nho giáo, cùng với chế độ đào tạo nhân tài theo
con đường thi cử Nho học có nhiều phù hợp. Quan lại xuất thân từ Nho sĩ
ngày càng chiếm ưu thế.
Vào năm 1070, nhà Lý đã bắt đầu cho dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng
Tử, Chu Công, Tứ Phối và 72 người hiền của đạo Nho. Nhà Lý mở trường
Quốc Tử Giám để đào tạo tầng lớp trí thức cho triều đại. Con em của giới quý
tộc, quan lại cao cấp đã được đưa vào đó học tập. Trong nhân dân, người đi
học cũng ngày càng một nhiều. Do đó, dưới triều Lý bắt đầu xuất hiện tầng
lớp Nho sĩ được đào tạo theo ý thức hệ Nho giáo và họ tham gia vào đời sống
chính trị và văn hóa của quốc gia.
Mặc dù vậy, ở thời Lý, số Nho sĩ đươc đào tạo hãy cịn ít.
Ngồi Phật giáo và Nho giáo, lúc bấy giờ Đạo giáo cũng được lan truyền.
các vua chúa Việt Nam thời độc lập đã coi trọng vai trò của Đạo giáo trong
đời sống tinh thần bên cạnh Nho, Phật. Ở thời Lý tổ chức thi Tam giáo để
chọn người có kiến văn rộng về cả 3 hệ tư tưởng Phật, Nho, Đạo nhằm đứng
ra giúp vua trị nước. Các đền đài, đạo quán nguy nga tráng lệ cũng được các
vua bỏ tiền ra xây dựng. Đạo giáo đã thâm nhập sâu vào trong nhân dân và
giới trí thức, có sự đan xen với Phật giáo và Nho giáo.
Nhìn chung, dưới thời Lý - Trần, Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo đều
đồng thời phát triển và có mặt thâm nhập trong tinh thần “Tam giáo đồng
nguyên”. Người dân làng xã ở thời Lý đã kết hợp chặt chẽ giữa ý thức bảo vệ
xóm làng, quê hương cùng với ý thức quốc gia dân tộc, họ gắn liền làng với
nước và vẫn duy trì những quan hệ cộng đồng bền chặt, cùng với những
phong tục tập quán cổ truyền và tín ngưỡng dân gian của một cư dân nông
nghiệp trồng lúa nước.


4


1.2. Giáo dục và khoa cử
Ở thế kỷ XI, các chùa vẫn là những trung tâm văn hóa giáo dục. Nhu cầu
tổ chức bộ máy nhà nước đòi hỏi phải phát triển giáo dục. Do đó, cũng dưới
thời Lý bắt đầu mở mang việc học tập và thi cử để đào tạo nhân tài và tuyển
chọn đội ngũ quan lại. Vào năm 1075, nhà Lý cho mở khoa thi Tam trường
chọn những “minh kinh bác sĩ”, tức những người có học thức rộng, hiểu rõ
kinh truyện, để ra làm việc cho nhà nước. Đây là khoa thi đầu tiên được tổ
chức ở nước ta. Trong khoa thi này, Lê Văn Thịnh, người huyện Gia Bình
(Gia Lương-Bắc Ninh) đã đỗ đầu. Sau đó, nhà Lý có mở thêm một số kỳ thi
cho con em các quan lại.
Sang năm sau (1076), vua Lý Nhân Tông cho mở trường Quốc Tử Giám
ở kinh đô và chọn con em của quý tộc quan chức vào học. Đây là trường đại
học quốc gia đầu tiên của nước ta.
Như vậy là nền đại học Việt Nam đã bắt đầu được hình thành. Thỉnh
thoảng, nhà Lý cịn cho mở các khoa thi tuyển chọn nhân viên hành chính các
cấp cho nhà nước với các mơn thì về viết chữ đẹp, làm tốn giỏi và thơng thạo
pháp luật.
1.3. Văn học và chữ viết
Cùng với sự phát triển của giáo dục và khoa cử, nền văn học bác học
được sáng tác bằng chữ Hán của dân tộc có điều kiện phát triển. Bên cạnh thơ
văn của các nhà sư, lúc này cịn có thơ văn của vua quan và những trí thức
dân tộc.
Ra đời trong khí thế hào hung chống ngoại xâm, nền văn học thời Lý Trần đã chứa đựng một tinh thần độc lập dân tộc mạnh mẽ và một ý thức tự
hào dân tộc sâu sắc. Tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước của văn học chữ Hán
thời này là bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, ra đời trong cuộc
kháng chiến chống Tống, phản ánh cao độ ý chí và quyết tâm bảo vệ nền độc
lập dân tộc của nhân dân ta hồi nửa sau thế kỷ XI.

Bên cạnh niềm rạo rực tự hào của những con người giàu tinh thần bất
khuất, cịn có một tư trào làm thơ văn ca ngợi về thiên nhiên, đất nước, ca
ngợi khung cảnh thái bình. Mở đầu là “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn, đây
là một áng văn vừa mang tinh thần chính luận, vừa mang tính chất trữ tình
xuất sắc, ca ngợi về vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Nam và niềm tư hào về non
song đất nước ta.
5


1.4. Khoa học và kỹ thuật
Sự phát triển của khoa học và kỹ thuật cũng là một biểu hiện đáng chú ý
ở thời Lý - Trần. Dưới thời Lý, nhà nước phong kiến dân tộc đã bắt đầu đặt cơ
sở cho việc biên soạn Quốc sử của nước nhà. Ở trong triều đình, vua Lý đặt
một chức quan chuyên ghi chép các sự kiện lịch sử diễn ra.
Cũng dưới triều Lý, công việc ghi chép các hiện tượng thiên văn, khí
tượng, địa lí, thủy văn cũng được nhà nước đặt ra, đồng thời toán học và luật
học cũng được đưa vào trong chương trình thi cử. Đó là những tiền đề để sang
thời Trần, khoa học và kỹ thuật có những bước phát triển nở rộ.
Đỉnh cao của việc phát triển khoa học ở thời Lý - Trần là khoa học về
quân sự.
1.5. Nghệ thuật diễn xướng
a. Tổng quan
Sau hơn một thế kỷ giành được độc lập, đời sống văn hóa của dân tộc có
điều kiện phục hồi và phát triển. Đến thời Lý - Trần, nền văn nghệ đã tiến một
bước dài với nhiều thành tựu mới mang những nét đặc sắc. Nếu ở thời Lý,
nghệ thuật Đại Việt có tiếp thu một vài ảnh hưởng của nghệ thuật Champa, thì
sang thời Trần, nó đã tiếp thu thêm một số ảnh hưởng của nghệ thuật sân khấu
phương Bắc.
Nhân dân Đại Việt lúc bấy giờ rất yêu thích ca hát, nhảy múa, thể dục
thể thao. Hát ả đào đã xuất hiện và trở nên phổ biến. Nghệ thuật tuồng, chèo,

múa rối đều phát triển. Trong cung đình, nghệ thuật biểu diễn ca múa nhạc
được dùng để giúp vui cho các buổi chầu, những ngày lễ và các dịp tiếp đãi sứ
thần nước ngoài. Trên các phù điêu ở thời Lý còn thấy cảnh những vũ nữ múa
dâng hoa hay nhạc công vừa múa vừa sử dụng các nhạc cụ như đánh trống,
thổi sáo, gảy đàn, gảy nhị…
Lúc bấy giờ, cả giới quý tộc và nhân dân, các vua quan đều ham thích
văn nghệ. Nhiều ơng vua Lý đã múa khiên để góp vui trong các buổi lễ yến
tiệc. Sử chép, vào năm 1060, vua Lý Thánh Tông cho phiên dịch các khúc
nhạc Champa và cho nhạc công ca hát.
Ở thời Lý - Trần chưa có sự phân biệt rạch rịi giữa nghệ thuật dân tộc và
nghệ thuật dân gian.
Ngoài ra, các môn thể thao dân tộc như đánh phết, đá cầu, đấu vật, đua
thuyền, cướp cù cũng đều phát triển rộng rãi, vừa giúp vui cho các ngày hội,
6


vừa khuyến khích việc rèn luyện sức khỏe và tinh thần dũng cảm cho nhân
dân và quân sĩ. Ở thời Lý - Trần, môn thể thao đua thuyền rất được ưa
chuộng.
b. Âm nhạc
Ở thời Lý, nền âm nhạc cung đình, nhất là về nhã nhạc, đã bắt đầu phát
triển. Chính sự ra đời của giai cấp quý tộc phong kiến đã đồng thời dẫn đến sự
nãy sinh của một môi trường sinh hoạt ca nhạc riêng biệt nhằm phục vụ cho
nhu cầu sinh hoạt chính trị - triều chính và nhu cầu thẩm mỹ - giải trí của tầng
lớp vua quan và những nghi thức ngoại giao, nên từ đó đã bắt đầu xuất hiện
dịng âm nhạc cung đình.
Qua một số sử liệu cho biết, quy mô của tổ chức ca nhạc cung đình dưới
triều Lý khá lớn: ở thời Lý Thái Tông số nhạc kỹ trong cung đã lên tới 100
người. Nền âm nhạc cung đình thời này bám rễ vững chắc vào nguồn âm nhạc
dân gian truyền thống. Riêng trên lĩnh vực nhạc khí cho thấy nền âm nhạc

dưới triều Lý đã tiếp thu từ âm nhạc Trung Hoa các loại đàn cầm (đàn tranh),
đàn nguyệt, đàn tỳ bà, phách bản, của Ấn Hoa, gồm trống tầm bông (phong
yêu cổ), mõ và đàn hồ.
Sự phát triển của Phật giáo cung đình dưới triều Lý cũng đã dẫn đến sự
hình thành của dàn nhạc cung đình phục vụ cho tế lễ Phật giáo gồm trống da,
mõ, phách bản, trống phong yêu…Tốp nhạc công được khắc trên bệ đá chùa
Phật Tích (Bắc Ninh) có thể xem là một hình ảnh của một dàn nhạc Phật giáo,
đồng thời cũng là dàn nhạc cung đình phục vụ cho các sinh hoạt lễ hội Phật
giáo vào thời đó.
c. Sân khấu
Dưới thời Lý - Trần, nghệ thuật hát chèo và hát tuồng đang trên đường
hình thành và hồn thiện dần nhằm đáp ứng cho nhu cầu giải trí của nhân dân.
Về nghệ thuật hát tuồng, Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung Tùy Bút, cho
biết ở thời Lý có một đạo sĩ người Trung Quốc sang nước ta và đã dạy cho
người nước ta cách thức mùa hát và làm trò, ấy là lối hát tuồng khởi điểm từ
đấy.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, trong cuộc đại thắng quân Nguyên
lần thứ hai (1285), nhà Trần có bắt được một kép hát nổi tiếng người Trung
Quốc tên là Lý Nguyên Cát. Sau chiến tranh, Lý Nguyên Cát đã ở lại và tiếp
tục làm kép hát mua vui cho triều đình.
7


d. Trị diễn
Múa rối nước là một hình thức nghệ thuật trò diễn đặc sắc của dân tộc,
đến thời Lý đã khá phát triển. Bài văn bia chùa Sùng Thiện Diên Linh (chùa
Đọi-Nam Hà) đã mô tả hoạt cảnh múa rối nước ở thời Lý như sau: “Hàng
trăm chiếc thuyền bơi giữa dịng, nhanh như chớp, mn tiếng trống khua,
hịa nhịp với tiếng nước như sấm động, sóng nước rập rờn, rùa vàng nổi lên
đội 3 quả núi, nước chảy nhịp nhàng, lộ vân trên cỏ, rùa xòe bốn chân, nhe

răng, trợn mắt, phun nước biểu diễn, hướng tới ngài vua mà cúi đầu chào”.
Trong các trò tạp kỹ, ở thời Lý còn xuất hiện loại trò khẩu thuật. Sách
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tân Dậu năm thứ 12 (1021), mùa Xuân tháng
2, lấy ngày sinh nhật của vua Lý Thái Tổ làm tiết Thiên Thành, người ta lấy
tre kết thành ngọn núi Vạn Thọ Nam Sơn ở ngồi cửa Quảng Phúc, trên núi
làm hình chim bay, mng chạy, với muôn vẻ kỳ lạ, lại sai người bắt chước
tiếng cầm thú để làm vui, và ban yến cho bầy tơi…”. Sách Đại Việt sử ký tồn
thư cịn cho biết một trị ảo thuật khác đã có mặt ờ thời này, được gọi là trò
Tàng Câu.
Đến năm Đinh Dậu (1117), vua Lý Nhân Tơng xuống chiếu cho bãi bỏ
trị chơi Tàng Câu. Bài Văn bia chùa Sùng Thiện Diên Linh (tức chùa Long
Đọi ở Lý Nhân - Hà Nam), dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1121) ở thời
Lý, còn cho biết về một trò ảo thuật khác được gọi là máy Kim ngao.
Ngoài ra, ở thời Lý cịn có nhiều trị khéo khác như tại chùa Thầy, xây
dựng vào thế kỷ XII, theo hình chữ “Tam” gồm 3 lớp là: Chùa Hạ, Chùa
Trung và Chùa Thượng.
1.6. Nghệ thuật tạo hình
a. Điêu khắc
Sự phát triển chung của nền văn hóa dân tộc đã tác động lớn đến sự phát
triển của nghệ thuật kiến trúc.
Theo sách Đại Việt sử lược, ở thời nhà Lý, các vua kế tiếp nhau, từ Lý
Thái Tông trở đi, việc xây dựng luôn được tăng cường với các kiểu kiến trúc
lộng lẫy. Nhà Lý thường dùng gạch tráng men để xây cất cung điện, chùa tháp.
Bên trong các cơng trình đều có những chi tiết chạm khắc cầu kỳ, khéo léo.
Xung quanh cơng trình thì có cảnh sơng, hồ, ao, cầu, cây xanh. Cơng năng
của các cung điện lầu gác là nơi ở và nghỉ ngơi của vua, hoàng hậu, hoàng gia
và cung tần.
8



Bên cạnh đó là những cung điện, dinh thự nhằm phục vụ cho hoạt động
của bộ máy nhà nước: nơi làm lễ thiết triều là điện Thiên An, nơi vua nghe
chính sự là điện Thiên Khánh, nơi để khí giới quân dụng là điện Trường Xuân,
nơi xem giờ khắc là lầu Chính Dương…
Về các loại hình kiến trúc khác phải kể đến kiến trúc chùa tháp Phật giáo
do nhà nước và nhân dân làng xã bỏ tiền ra xây dựng. Chùa tháp thời Lý
thường được dựng ở giữa đồng bằng hoặc nơi ít núi non hiểm trở để giúp cho
Phật giáo chinh phục được quần chúng trong một vùng rộng lớn.
Các ngôi tháp ở thời Lý cũng là nơi thờ Phật, cơng trình kiến trúc mang
tính sáng tạo và độc đáo ở thời Lý là chùa Một Cột (tức Diên Hựu tự), được
xây dựng vào năm 1049. Tồn bộ ngơi chùa được dựng trên một cột đá lớn
nổi lên giữa hồ tượng trưng cho một đóa sen nở trên mặt nước, bắt nguồn từ
giấc mơ của vua Lý Thái Tổ được gặp Phật Bà Quan Âm và Phật Bà đưa tay
dắt nhà vua lên một đài sen, điều này cho thấy sự tin vào Phật ở các vua thời
Lý.
Ngoài các cơng trình kiến trúc Phật giáo, ở thời Lý cịn có những cơng
trình kiến trúc về đền miếu. Đền miếu thời Lý có hai loại là đền thờ các anh
hùng dân tộc như đền Nhị Nữ (thờ Hai Bà Trưng ở làng Đồng Nhân-Hà Nội),
đền Bà Triệu, đền Phùng Hưng, đền Lý Thường Kiệt… Đền miếu ở thời Lý
thường được bố cục giống với ngơi chùa, tức là có sân hành lễ, có hành lang,
cổng lớn để kiểm sốt sự xuất nhập của khách.
Về đền miếu Đạo giáo ở thời Lý có quán Bắc đế (đền Trấn Vũ - 1102),
đền Linh Lang (còn gọi là đền Voi Phục). Đền miếu và chùa tháp Phật giáo
cũng đã góp phần làm phong phú cho đời sống tinh thần của nhân dân Đại
Việt.
Về kiến trúc Nho giáo, nổi lên ở thời Lý là Văn Miếu. Có ý kiến cho
rằng, Văn Miếu được vua Lý Thái Tổ xây dựng tại Thăng Long ngay từ năm
1010 để làm nơi thờ Khổng Tử và các tiên hiền.
b. Điêu khắc
Phần lớn các cơng trình kiến trúc ở thời Lý đều bị mất mát, nhưng chúng

cũng đã để lại những di vật điêu khắc bằng đá. Qua đó cho thấy các đề tài
điêu khắc trong trang trí ở thời Lý thường là hoa sen, hoa cúc, cây dương xĩ,
sóng nước, mây trời…, chúng được cách điệu hóa; các con vật huyền thoại
như rồng, phượng, lân, hình ảnh các con vật hiện thực như sư tử, rùa, voi, trâu,
9


cá sấu…; những hình tượng về Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát
Quán Thế Âm, tượng Kim Cương…; tượng tiên nữ, nhạc công, vũ nữ đang
làm nhiệm vụ ca múa; tượng đầu người mình chim v.v…
Nhìn chung, đề tài điêu khắc ở thời Lý thường là Thần, Phật, Tiên,
Thánh; những phong cảnh thiên nhiên với các họa tiết như mây trời, sóng
nước, hoa sen, hoa cúc được cách điệu hóa; những hình ảnh các con vật như
rồng, voi, trâu, sư tử, cá sấu…; hoặc là hình ảnh mô tả những con người với
các nhân vật hầu hạ thần phật như nhạc công, vũ nữ,…
Mật độ hoa văn trang trí thời Lí thường gọn gàng, cân xứng nhưng
khơng trùng lặp, đơn điệu. Đằng sau những hình ảnh là sự chuyển tải chiều
sâu triết lí. Chẳng hạn khi nhìn vào hoa văn sóng nước người ta thấy chúng có
hình dáng của nấm và của núi mọc lên từ biển, qua đó gợi tả về mối quan hệ
giao hịa trời và đất, giữa âm và dương để sinh thành nên vạn vật.
Tuy nhiên, các ảnh hưởng đó khơng mang tính ồ ạt, mà có sự chừng mực,
vừa phải, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và chúng được nhào
nặn dựa nên các chất liệu đến từ nhiều khác nhau. Chẳng hạn, con rồng thời
Lý vốn chịu ảnh hưởng của rồng Trung Quốc nhưng lại được nhào nặn với
những ảnh hưởng đến tứ Ấn Độ và Champa. Do đó rồng thời Lý có thân hình
rắn, chân chim, đầu phản phất bóng dáng con Makara của Ấn Độ, nhưng lại
tượng trưng cho mây nước, niềm mơ ước của cư dân nông nghiệp trồng lúa
nước ở Đại Việt. Rõ ràng ở đây, các ảnh hưởng bên ngoài đã được nghệ nhân
thời Lý nhào nặn lại trên nền tư duy mang tính chất bản địa.
Nhưng ảnh hưởng rõ nhất của nền nghệ thuật Ấn Độ và Champa trong

điêu khắc thời Lý là bộ ba tiên nữ Apsara, nhạc công Gandhava và nữ thần
chim Kinari. Các nữa thần chim ở tường pháp Phật Tích, Chương Sơn thường
được thấy trong kiến trúc của Champa.
Nhìn chung, mỹ thuật thời Lý là một nền mỹ thuật hoàn chỉnh, vững chãi
về đường nét, mẫu mực của sự trau chuốt, nhưng tồn bộ đã bị bó chặt vào
trong các quy phạm khắt khe và loại hình kém đa dạng hơn điêu khắc của các
thời đại sau. Ở đây, yếu tố tôn giáo và quân quyền luôn khăng khít với nhau
và sự sáng tạo đã được gắn chặt với ý nghĩa đề cao vương quyền, thể hiện qua
hình tượng của rồng và phượng.

10


2. Thành tựu văn hoá tinh thần thời trần
2.1. Cơ sở chính trị
Nhà Trần các vua có lệ nhường ngơi sớm cho con và tự xưng mình là
Thái thượng hồng, cùng con trông nom việc nước. Thời Trần chức tướng
công được đổi thành hai chức Tả, Hữu Tướng quốc. Bên cạnh nhà vua cịn có
các chức Tam thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo) và Tam thiếu (thiếu sư, thiếu
phó, thiếu bảo) là những chức quan cao cấp của triều đình. Nhà vua cịn cho
đặt thêm các chức Tam tư (tư đồ, tư mã, tư không).
Dưới thời Trần, việc tuyển dụng quan lại bằng khoa cử ngày càng đi vào
hệ thống, nhưng vẫn không đến mức cứng nhắc.
Nhà Trần tiếp tục định lệ khảo cơng và định kì 15 năm tổ chức 1 lần.
Quan lại bắt đầu có lương bổng và được lệ tập ấm
Nhà Trần tiếp tục sử dụng chủ trương Hội điển của nhà Lí và xây dựng
thành một tập hợp luật lệ chính sách của triều đại mình gọi là Quốc triều
thơng chế gồm 20 quyển.
Cùng với sự văn minh mạnh mẽ của dân tộc ta về các mặt, nền văn hố
dưới thời Lí - Trần đã đạt đến trình độ phát triển rực rỡ, thực hiện một cách

sâu sắc ở chính sách và tâm hồn của dân tộc.
2.2. Tư tưởng và tôn giáo
Cùng với tinh thần yêu nước, trọng võ, chuộng nghĩa khí, con người thời
Trần còn ra sức bảo tồn các phong tục tập quán cổ truyền của dân tộc ta như
xăm mình, ăn trầu, giữ gìn các tín ngưỡng truyền thống như việc thờ cúng tổ
tiên, sùng bái các hiện tượng tự nhiên liên quan đến đời sống nông nghiệp…
Sang thời Trần, Phật giáo vẫn giữ địa vị Quốc giáo và được phần đông
dân chúng tin theo. Nhà Sử học Lê Văn Hưu ở thế kỉ XIV cho biết: “ Những
người cắt tóc làm sư bằng nửa số dân thường, nhất là ở huyện Đơng Triều,
làng lớn có đến hơn 10 chùa, làng nhỏ cũng có khoảng 5, 6 chùa, đàn tràng
cúng bái rất nhộn nhịp”’.
Vua Trần Thái Tông - người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mông –
Nguyên lần thứ nhất, cũng đồng thời là nhà Thiền học lớn của Việt Nam, tác
giả của các sách khố hư lục và Thiền Tơng chỉ nam. Tuệ Trung Thượng sĩ, 1
quý tộc Trần, cũng đồng thời là nhà Thiền học xuất sắc, được xem như vị Bồ
tác sống, người đã đưa tinh thần nhập thể của Thiền học Việt Nam lên đến
đỉnh cao nhất của nó: tinh thần “đồng trần” (hồ kì quang, đồng kỳ trần).
11


Đặc điểm giai cấp lãnh đạo quốc gia ở thời Trần đã tiến một bước dài
trong việc phong kiến hoá và dân tộc hoá đối với Phật giáo. Vua Trần Nhân
Tông, là vị vua lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ 2 và thứ 3
sau ngày kháng chiến thắng lợi đã nhường ngôi cho con trai và đi tu ở chùa
núi Yên Tử (Đông Triều - Quảng Ninh).
Trên cơ sở ba thiền phái gồm Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và
Thảo Đường đang hiện diện ở nước ta và dưới ảnh hưởng lớn lao của Thiền
nhập thế Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ, Thượng hồng Trần Nhân
Tơng đã thống nhất các phái thiền học đã có và phát triển thành một phái
thiền học duy nhất ở Việt Nam dưới thời Trần: Thiền phái Trúc Lâm – Yên

Tử. Và vua Trần Nhân Tông đã trở thành vị tổ khai sáng của dòng thiền Trúc
Lâm, được tơn là Trúc Lâm Đầu Đà. Đây là dịng thiền đậm chất nhập thế và
cũng là dòng thiền mang đặc chất Việt Nam.
Ngoài ra, dưới thời Trần, Vua Trần Thánh Tơng (1258 – 1278) cũng
từng trút bỏ hồng bào để mặc áo cà sa, tu theo phái thiền Lâm Tế. Trong
hồng tộc nhà Trần có nhiều người sung mộ đạo Phật như Bảo Vân công chúa,
Hoa Dương công chúa, Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp, Văn Huệ vương
Trần Quang Triều…
Đến cuối thời Trần, cuộc xung đột của Phật giáo và Nho giáo bắt đầu
diễn ra. Bước sang thế kỉ XIV, ưu thế của Phật giáo ngày một giảm sút, để rồi
nhường chỗ cho Nho giáo. Sang thời Trần, tầng lớp Nho sĩ ngày một đơng và
họ tìm cách đẩy lùi thế lực của tầng lớp tăng lữ trên lĩnh vực chính trị cũng
như tư tưởng. Quan lại xuất thân từ Nho sĩ ngày một chiếm ưu thế trong bộ
máy chính quyền và họ nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình. Lực
lượng sáng tác văn học đã chuyển dần sang tay tầng lớp nho sĩ.
Ngoài Phật giáo và Nho giáo, lúc bấy giờ Đạo giáo cũng được lan truyền
dưới thời nhà Trần. Khi bất lực trước thời đại đen tối, một số nhà Nho đã
chọn con đường “ lui về ở ẩn”, như Chu Văn An, sau khi dâng sớ chém đầu
bảy nịnh thần không được vua Trần nghe theo, ông đã từ chức về quê ẩn dật,
lấy việc dạy học để đóng góp cho đời. Cịn trong dân gian, Đạo giáo đã lan
tràn mạnh mẽ với những tiên thánh cho xăm, phát thuốc, cầu đảo, bùa phép,
trừ yểm, đồng bóng…

12


Nhìn chung dưới thời Trần, Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo đều đồng
thời phát triển và có mặt thâm nhập lẫn nhau trong tinh thần “ tam giáo đồng
nguyên”.
2.3. Giáo dục và khoa cử

Sang thời Trần, chế độ học hành và thi cử càng ngày càng có quy cũ và
chính quy hố. Tại Kinh thành, nhà nước cho lập Quốc Học viện, dành riêng
cho con em quý tộc, quan chức vào học và về sau mở rộng thêm cho các Nho
sĩ. Chức học quan dần dần được đặt đến các cấp lộ, phủ, châu. Bên cạnh hệ
thống giáo dục nhà nước, các trường lớp tư thục cũng xuất hiện trong các làng
xã do các nhà Nho đứng ra tổ chức.
Các kì thi quốc gia được tổ chức đều đặn hơn trước. Vào năm 1232, dưới
thời vua Trần Thái Tông, nhà Trần cho đặt học vị Thái học sinh (đến thời
Trần Duệ Tông đổi thành tiến sĩ), và chia những người đỗ đạt thành 3 hạng
Tam giáp. Đến năm 1247, nhà Trần cịn định ra lệ Tam khơi, cho 3 người đỗ
theo thứ tự 1, 2, 3 trong kì thi Đình gọi là Trạng Nguyên, Bảng nhãn và Thám
hoa. Nhưng lúc bấy giờ những người đi thi phải là con cháu của nhà quan,
dân thường chưa được tham dự. Đến năm 1305, nhà Trần đặt them học vị
Hoàng giáp dành cho người đỗ vào hàng thứ tư (sau Thám hoa và trên Thái
học sinh). 7 năm tổ chức thi Hội một lần.
Ban đầu đo sự phát triển của giáo dục còn chưa được đầy đủ trên khắp
mọi miền đất nước, do đó để khuyến khích việc học ở những vùng xa, vào
năm 1256 nhà Trần cho đặt lệ lấy hai Trạng Nguyên (gồm Trạng Nguyên kinh
và Trạng Nguyên trại): người đỗ đầu đất Tứ Trấn gọi là Kinh Trạng Nguyên,
người đỗ đầu đất Thanh Nghệ gọi là Trại Trạng Nguyên. Đến năm 1275, khi
hoạt động giáo dục đã phát triển đồng đều, nhà Trần cho hợp nhất Kinh Trại
làm một, và chỉ có một Trạng Nguyên cho mỗi khoa thi
1374, vua Trần Duệ Tơng bắt đầu mở khoa thi Đình (thi ở sân vua), đầu
tiên lấy đỗ Tiến sĩ (thay cho Thái học sinh), danh hiệu Tiến sĩ bắt đầu có từ
đây.
1374 nhà Trần quy định rõ về cấp bật đỗ đạt: Tam khơi, Hồng giáp, Cập
đệ, và Đồng Cập đệ Tiến sĩ.
1396, vua Trần Thuận Tông đặt lệ thi Hương để lấy học vị Hương Cống,
thi Hương bắt đầu có từ đây.
Theo cách thi bấy giờ thì học sinh phải trải quá các kỳ sau:

13


- Kỳ 1 thi ám tả để giảm bớt những người kém
- Kỳ 2 thi kinh, lễ, nghĩa, thơ, phú
- Kỳ 3 thi chiếu, chế, biểu
- Kỳ 4 thi văn sách, trình bày những kiến thức mưu lược, kế sách của bản
thân mình nhằm giải đáp một số câu hỏi được nêu ra trong đề tài.
Những người đỗ đạt nỗi tiếng như: Trạng Nguyên Nguyễn Hiền, Trạng
Nguyên Mạc Đĩnh Chi(Lưỡng quốc Trạng Nguyên), Bảng Nhãn Lê Văn Hưu
(tác giả Đại Việt Sử Kí)…Trong các nhà Nho cũng có nhiều người tiếng tăm
như Lê Quát, Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh… nhà Nho Chu Văn An là
bậc thầy của thiên hạ vào cuối thế kỉ XIV.
Ngoài thi văn học, nhà Trần còn tổ chức các khoa thi võ, nhưng bằng cấp
chưa quy định rõ ràng như các triều đại về sau. Đồng thời nhà Trần cũng tổ
chức thi lại viên, chọn những người viết chữ đẹp, thông hiểu về pháp luật để
làm văn tại các cơ quan. Cuối thế kỉ XIV, giáo dục phát triển mạnh mẽ, số
nhân tài ra đời ngày càng nhiều.
2.4. Văn học và chữ viết
Từ trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên, đã ra đời bài “Hịch
tướng sĩ” của vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn, một tác phẩm chứa chan
tình cảm yêu nước và long nhân ái bao dung, thấm đẫm hào khí “Đơng A”.
“Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu và một số tác phẩm mang đậm
tình yêu quê hương đất nước của Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Phạm
Ngũ Lão, Nguyễn Trung Ngạn… “Hạ cảnh và Thiên trường vãn vọng” của
Trần Nhân Tông, “Phiếm Chu” của Huyền Quang, “Vãn canh” của Mạc Đỉnh
Chi, “Linh sơn tạp hứng” của Chu Văn An…
Một số bài thơ thiền mang tính triết lí sâu sắc như: “Thị đệ tử” của Vạn
Hạnh thiền sư, “Vô tật thị chúng” của Viên Chiếu thiền sư, “Cáo tật thị
chúng” của Mãn Giác thiền sư, “Cư trần lạc đạo phú” của Trần Nhân Tông,

“Thị tật” của Quảng Nghiêm thiền sư…
Chữ Nôm đã được sử dụng phổ biến và vận dụng trong sáng tác văn học.
Bài “Văn tế cá sấu” của Nguyên Thuyên được xem là tác phẩm văn học chữ
Nôm đầu tiên ở Việt Nam. Ngồi Nguyễn Thun thì Nguyễn Sĩ Cố, Trần
Nhân Tông, Hồ Quý Ly cũng là những người đã làm thơ phú bằng chữ Nôm.
Vua Trần Nhân Tông đã để lại ba bài thơ đặc sắc bằng chữ Nôm: “Cư trần lạc
đạo phú”, “Đắc phú lâm tuyên thành đạo ca”, “Vịnh Hoa Yên tự phú”. Một
14


số bản nhạc cũng được sáng tác bằng lời thơ Nôm. Sự ra đời của văn Nôm đã
thể hiện một sự cố gắng lớn của dân tộc nhằm nâng cao địa vị của tiếng Việt
và phát triển văn hoá dân tộc.
Trên lĩnh vực văn học dân gian, dưới thời Trần, kho tàng thần thoại và
truyện cổ dân gian rất phong phú được sưu tầm và tập hợp lại trong Việt điện
u linh tập của Lí Tế Xuyên và Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp.
2.5. Nghệ thuật diễn xướng
Lúc bấy giờ, cả giới quý tộc và nhân dân đều rất yêu thích nghệ thuật
tuồng chèo và hát múa. Các trị chơi dân gian mang tính phổ biến như: leo dây,
đua thuyền, múa xiếc, trồng cây đu, tung còn, đá cầu, thi nấu cơm, đánh đu…
rất được nhân dân ưa chuộng.
Nhà Trần tiếp thu thêm một số ảnh hưởng nghệ thuật sân khấu phương
Bắc.
Nhiều quan lại quý tộc Trần đã tham gia sáng tác các điệu múa, điệu
nhảy và sau các buổi chầu, vua tôi nhà Trần thường cùng nhau nhảy múa, ca
hát.
Các môn thể thao rất được ưa chuộng. Đấu vật đã trở thành mơn thể thao
mang tính phổ biến đối với nhà Trần. Vào những ngày đầu xuân, hay dịp lễ
hội nhân dân thường tổ chức chơi các trò chơi, thăm hỏi lẫn nhau.
a. Âm nhạc

Âm nhạc cung đình đã có bước phát triển mới với nhiều điệu khúc và bài
hát phong phú. Sách Đại Việt sử kí toàn thư cho biết tên của một số bài hát
như: Nam thiên nhạc, Ngọc lâu xuân, Đạp thanh du, Mộng du tiên, Canh lậu
trường… So với thời Lí nền nghệ thuật âm nhạc cung đình ở thời Trần ngày
càng chính quy hoá và kéo theo là quự quy chế hoá khắt khe giữa các đối
tượng và môi trường khác nhau trong việc sử dụng loại nhạc. Theo biên chế
tổ chức dàn nhạc ở thời Trần được chia làm hai loại: Đại nhạc được dành
riêng cho quốc vương, còn đối với tơn thất q quan thì chỉ khi nào có việc tế
lễ mới được dùng. Cịn về Tiểu nhạc thì ai cũng có thể dùng được.
Dịng ca nhạc cung đình ở thời Trần vẫn bám chắc rễ và giữ được mối
liên hệ khắn khít với nguồn nhạc dân gian truyền thống, mặt khác nó cịn tiếp
thu thêm những u tố của nền âm nhạc Chămpa và Trung Hoa.
Về phương tiện nhạc khí, sử liệu thời Trần cho biết, ngồi những nhạc cụ
đã thấy xuất hiện ở thời Lí trước đây, cịn có thêm loại trống cơm, kèn tất tiểu,
15


tiểu quản (sáo đôi), trống đại cốc, đàn 7 dây, đàn 1 dây (tiền thân của đàn
bầu).
b. Sân khấu
Nghệ thuật hát chèo và tuồng đang trên đường hình thành và hồn thiện
nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí của nhân dân.
Có loại hình chèo chải được sử dụng trong việc thờ cúng tổ tiên, chúng
được sử dụng trước linh cữu người đã khuất, hoặc được hát trong đám giỗ và
có cả loại hình chèo của nhà Phật (Trong đám tang của Phật hồng Trần
Nhân Tơng, người ta đã diễn hát chèo với bài Long Ngâm).
Về nghệ thuật hát tuồng, theo sách Đại Việt sử kí tồn thư, trong cuộc
đại thắng quân Nguyên lần thứ hai (1285), nhà Trần có bắt được một tên lính
Toa Đơ là kép hát nổi tiếng người Trung Quốc là Lý Nguyên Cát, nhà Trần đã
giữ ông ấy lại để truyền dạy về nghệ thuật hát tuồng cho triều đình. Ơng ấy là

tác giả của nhiều tuồng tích được nhân dân ta rất yêu thích (Tây Vương Mẫu
hiến bàn đào).
c. Trò diễn
Nghệ thuật tạp kĩ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Sách Dại Việt Sử kí
tồn thư, chép lại sách Đại Việt sử kí ở thời Trần cho biết “vào năm Canh
Dần (1350), Thiệu Phong năm thứ 10, đời vua Trần Dụ Tông, màu Xuân
tháng Giêng, có người nước Nguyên là Đinh Bàn Đức, nhân trong nước bị
loạn, đã đem cả gia quyến đi thuyền vượt biển sang nước ta. Đinh Bàn Đức
giỏi về nghề leo dây, làm trò ca múa và người nước ta đa bắt chước theo trò
múa leo dây của Đinh Bàn Đức”.
Lối diễn với thú cũng được nói đến ở thời nhà Trần.

16


3. Thành tựu văn hóa tinh thần dưới triều nhà Hồ
Ngay từ năm 1396, Hồ Quý Ly đã cho chấn chỉnh lại chế độ thi cử, bỏ
lối ám tả cổ điển, sau đó đưa thêm mơn tốn vào nhà trường và bắt các sĩ tử
thi Hội phải thi mơn tốn. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho mở trường học ở các
châu, phủ và chọn những người hay chữ vào dạy học. Hồ Quý Ly cũng là
người quý trọng chữ Nôm. Năm 1395, ông dịch thiên “Vô dật” trong Kinh thư
ra chữ Nôm để dạy cho vua Trần Thuận Tông. Đến năm 1396, Hồ Quý Ly
dịch Kinh Thi để dạy cho các cung phi. Ông cũng là người sáng tác nhiều thơ
Nơm.
Đối với Nho giáo, Hồ Q Ly cơng kích Tống Nho, soạn sách Minh đạo
trình bày những ý kiến riêng của mình về Nho giáo, trong đó ơng hạ thấp
Khổng Tử, đề cao Chu Công và phê phán Nho giáo là “khơng quan thiết đến
sự tình”.
Đối với Phật giáo, Hồ Quý Ly bắt các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hồn
tục, số cịn lại đều phải trải qua sát hạch, ai thơng hiểu giáo ly thì mới được

tiếp tục cho làm sư.
Hồ Quý Ly là một nhà cải cách táo bạo và kiên quyết hiếm có trong lịch
sử Việt Nam. Những cải cách của ông nhằm vào hai mục tiêu chính là: củng
cố và tăng cường chế độ quân chủ tập quyền và giải quyết các mâu thuẫn kinh
tế - xã hội do cuộc khủng hoảng đất nước đang đặt ra.
Hồ Quý Ly đã cố gắng rất nhiều để cải thiện tình hình xã hội và chuẩn bị
đối phó với nạn xâm lược của nhà Minh đang đến gần. Tuy nhiên, nhiều cải
cách của Hồ Quý Ly chỉ có thể phát huy được tác dụng trong một thời gian
lâu dài, trong lúc đó nhiều yêu cầu cấp bách tầng lớp qúy tộc, quan lại, đại địa
chủ đã bị va chạm [1, tr 491 – 492].
Hồ Quý Ly phản đối học sáo rỗng, nhắm mắt học vẹt lời nói của cổ nhân
để xét việc trước mắt. Năm Nhâm Thân (1392), Quý Ly soạn sách “Minh
Ðạo” gồm 14 thiên đưa ra những kiến giải xác đáng về Khổng Tử và những
nghi vấn có căn cứ về sách “Luận ngữ”, một trong những tác phẩm kinh điển
của nho gia.
Hồ Quý Ly cũng có hồi bão xây dựng một nền văn hố dân tộc. Ơng
trọng dụng chữ Nơm, dịch Kinh Thi ra nơm để dạy hậu phi và cung nữ. Ơng
cịn quan tâm đến việc mở thêm trường học ở các lộ phủ Sơn Nam, Kinh Bắc,
Hải Ðông và định lại phép thi cho có quy củ.
17


Đặc biệt, từ khi Hồ Quý Ly lên ngôi và có điều kiện thuận lợi để thực
hiện những suy nghĩ “kinh bang tế thế” của mình thì những quan niệm đó đã
trở thành đường lối chính thống trong xã hội và ảnh hưởng của nó càng rộng
lớn hơn nữa. Điều đó dẫn đến sự chuyển mình của văn hóa Việt Nam sang
một giai đoạn mới hoàn toàn khác so với trước [1, tr 492].

18



4. Nhà Minh chủ trương hủy diệt văn hóa của nước ta
4.1. Cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt của nhà Minh
Công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly đang được tiến hành thì vấp phải
nạn xâm lược của nhà Minh. Nhà Minh là một triều đại phong kiến lớn
ởTrung Quốc do Chu Nguyên Chương thành lập vào năm 1368 trên cơ sở
thắng lợi của phong trào nông dân Trung Quốc lật đổ ách thống trị của nhà
Nguyên.
Đến thời Minh Thành Tổ (1402 – 1424), nhà Minh đạt đến giai đoạn
cường thịnh và trở thành một quốc gia phong kiến giàu mạnh nhất trên thế
giới lúc bấy giờ. Vốn có âm mưu thơn tính nước ta từ lâu, nhưng nhà Minh
chưa có cơ hội để tiến hành. Đến lúc này, nhân việc con cháu triều Trần chạy
sang cầu cứu Minh đem quân giúp đỡ đánh triều Hồ để giành lại ngôi vua,
Minh Thành Tổ liền chớp ngay cơ hội phát quân “chinh phạt”, dưới danh
nghĩa “phù Trần, diệt Hồ”, nhưng thực chất là để cướp nước ta.
Trước nguy cơ ngoại xâm ngày càng đến gần, Hồ Quý Ly một mặt áp
dụng biện pháp đối ngoại mềm dẽo, nhún nhường với nhà Minh nhằm cố
gắng trì hỗn cuộc chiến tranh; mặc khác, ông ra sức chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến. Nhà Hồ cho tăng cường lực lượng quân đội thường trực, sắm sửa vũ
khí và xây dựng các tuyến phịng thủ. Hồ Quý Ly cho cắm cọc gỗ và chăng
lưới sắt ở các cửa biển và cửa sông hiểm yếu. Một phịng tuyến mang quy mơ
lớn được gấp rút xây dựng, kéo dài từ núi Tản Viên (Hà Tây) theo bờ nam
sông Đà, sông Hồng cho đến cửa sông Ninh Giang (Nam hà), rồi lại tiếp tục
theo bờ sông Luộc, sông Thái Bình cho đến Bình Than (Bắc Ninh) dài 700
dặm. Thành Đa Bang (Ba Vì – Hà Tây) được xem là cứ điểm then chốt bảo vệ
cả phòng tuyến.
Ngày 19/11/1406, quân Minh bắt đầu vượt biên giới tiến vào nước ta.
Chung huy động một lực lượng quân viễn chinh lớn gồm 20 vạn bộ binh, kỵ
binh và hàng chục vạn phu phục dịch. Hồ Quý Ly cùng với quân đội của mình
đã chiến đấu quyết liệt, nhưng vì khơng tập hơp được nhân dân, cuộc kháng

chiến của nhà Hồ trở nên đơn độc, không ngăn nổi giặc. Quân sĩ của nhà Hồ
buộc phải bỏ dần các vị trí hiểm yếu, rút về phía Nam. Đến đầu năm 1407,
thành Đa Bang bị thất thủ, làm tan vỡ cả tuyến phòng ngự. Cha con Hồ Quý
Ly cùng các tướng tá chạy vào Thanh Hóa rồi rút vào Nghệ An. Quân Minh
tiếp tục truy đuổi ráo riết. Đến cuối tháng 6/1407, Hồ Quý Ly bị giặc bắt ở
19


cửa biển Kỳ La (cửa Nhượng – Hà Tỉnh) và bị giải về Kim Lăng (Trung
Quốc) [1, tr 495].
4.2. Chính sách hủy diệt văn hóa Đại Việt của nhà Minh.
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh của triều Hồ bị thất bại.
Nhà Minh chiếm đóng và áp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Chúng đổi nước ta
thành quận Giao Chỉ và cho thiết lập bộ máy cai trị từ trung ương đến địa
phương. Số lượng cơ quan thống trị tăng lên không ngừng.
Năm 1407 tổng số các nha môn do chúng lập ra là 419, năm 1408 là 472,
đến sau năm 1414chir riêng các cơ quan thuộc Ty bố chính đã lên đến 837;
trong đó những cơ quan thu thuế và các Ty một tỉ lệ quan trọng. Bên cạnh đó,
hệ thống tổ chức quân sự to lớn của chúng cũng được dựng lên. Hệ thống đồn
lũy được chúng thiết lập ở tù đày. Các cuộc nổi dậy của nhân dân ta bị chúng
dìm trong biển máu. Nhà Minh dùng nhục hình dã man để khủng bố, đè bẹp
tinh thần, ý chí đấu tranh của người dân nước Việt. Tất cả vũ khí đều bị chúng
tịch thu. Ai chế tạo và tàng trữ vũ khí đều bị ghép vào tội “phản nghịch”. Đi
xa “ngoài trăm dặm để bn bán làm ăn” thì phải “trình báo rõ ràng với ty
quan sở tại để cấp giấy thời hạn, đi về phải kiểm sốt”.
Mọi sự giao thiệp bn bán với nước ngồi đều bị cấm chỉ. Chúng khơng
ngần ngại dùng những thủ đoạn khủng bố man rợ nhất như: chất thây người
làm núi; rút ruột người quấn vào cây; rán thịt người lấy mỡ; làm nhục hình
bào lạc để mua vui; thậm chí có người theo lệnh giặc, mổ bụng người chửa
cắt lấy tai của mẹ và con để dâng cho giặc (để tính làm hai mạng người). Bao

nhiêu của cải của dân ta bị chúng cướp sạch.
Ngay sau khi chiếm được nước ta, chúng đã cướp và đưa về Trung Quốc
hàng chục triệu thạch thóc và hàng trăm nghìn voi, ngựa, trâu, bò. Về sau,
chúng ban hành các chế độ thuế khóa để bóc lột lâu dài. Hàng trăm thứ thuế
đã được chúng đặt ra. Mỗi mẫu ruộng chúng bắt ghi thành 3 mẫu nhằm tăng
sức đóng góp của nhân dân bị trị.
Chúng đặt ra Ty diêm khóa để kiểm soát và độc quyền việc kiểm khai
thát và mua bán muối. Chúng đặt ra các Kim trường cục, Châu trường cục và
Thái liệu sử để đốc thúc việc khai thác mỏ, tìm ngọc trai, kiếm lâm sản quý.
Chúng bắt nhân dân ta phải xuống biển mò ngọc trai, lên rừng tìm thú lạ,
kiếm sừng tê, ngà voi…

20


Chúng ra sức cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền và cưỡng bức thanh
niên đi làm bia đỡ đạn cho chúng. Nhiều phụ nữ, thanh niên và trẻ em bị
chúng bắt làm nơ tì phục dịch nhà quan và một số bị đưa về chính quốc để lao
động trong các quan xưởng, đóng thuyền bè. Chúng cịn bắt đem về Trung
Quốc cả những con hát, phường nhạc, thầy thuốc, phụ nữ và trẻ em để phục
dịch trực tiếp cho vua quan triều đình nhà Minh. Chỉ riêng năm 1407, Trương
Phụ đã bắt về Trung Quốc hơn 7.700 thợ thủ công đủ các ngành nghề. Họ trở
thành những người dân lưu vong, bị bóc lột, nơ dịch tàn khốc và vĩnh viễn xa
lìa Tổ quốc.
Đặc biệt, nhà Minh đã thi hành một chính sách hết sức thâm độc là hủy
diệt nền văn hóa của dân tộc ta. Cùng với việc điều quân sang xâm lược Đại
Việt, Minh Thành Tổ ra lệnh cho bọn tướng tá phải đốt hết các sách vở thu
được (chỉ trừ các bản kinh tế về Đạo giáo và Phật giáo), phải phá hủy tất cả
các bia đá, bảng gỗ. Tháng 8/1418, nhà Minh một lần nữa sai quan quân vơ
vét hết tất cả các sách vở cịn sót lại để mang về Trung Quốc. Kết quả là, phần

lớn các sách vở của cha ông ta đều bị bọn chúng tịch thu đưa về Trung Quốc
hoặc bị đem thiêu hủy.
Các cơng trình văn hóa, nghệ thuật tiêu biểu của nước ta đều bị chúng
tàn phá. Bốn khí cụ lớn bằng đổnga đời ở thời Lý – Trần, được người nước
ngoài đánh giá cao gọi là “An nam tứ đại khí”(gồm chng Quy Điền, đỉnh
Báo Thiên, vạc Phổ Minh, tượng phật chùa Quỳnh Lâm) đã bị chúng đem ra
nấu chảy để lấy đồng đúc súng đạn. Các bia bảng có chữ viết đều bị chúng
đập nát. Theo Phan Huy Chú, trong Lịch triều hiến chương loại chí, cho biết
những sách vở của ta bị nhà Minh gom về trung quốc gồm có: Hình thư của
Lý Thái Tơng (3 quyển), Quốc triều thông lễ của Trần Thái Tông (10 quyển),
Quốc triều hình luật của Trần Thái Tơng (1 quyển), Thường lễ niên Kiến
Trung của Trần Thái Tơng (10 quyển),..
Chính sách ngu dân được nhà Minh triệt để thi hành. Vào năm 1414, nhà
Minh cho mở lại trường học ở phủ, châu, huyện, nhưng lại tuyển chọn giáo
quan từ trong số thầy cúng, thầy chùa, thầy phù thủy, đạo sĩ, để thơng q đó
nhồi nhét những tư tưởng mê tín dị đoan cho nhân dân. Mục tiêu hàng đầu
của trường học do chúng lập ra là để đào tạo tay sai phục vụ cho chính quyền
đơ hộ. các cơ sở tuyên truyền mê tín được chúng lập ra ở nhiều nơi. Cùng
năm này, nhà Minh cho xây dựng một loạt các đàn tràng, đền miếu ở trong
21


nước. Có khoảng 1/3 tổng số nha mơn của chính quyền đơ hộ thống thuộc về
Bố chính ty chun trách việc tổ chức, truyền bá những tư tưởng và lễ nghi
mê tín. Trong số 837 nha mơn thuộc Bố chính ty, chúng lập ra đến 68 Ty âm
dương, 11 Ty tăng cang, 24 Ty tăng chính và 50 ty đạo nội.
Để đồng hóa nhân dân ta, nhà Minh bắt người Việt phải thay đổi cách
thức ăn mặc và phong tục tập quán theo cách thức ăn mặc và phong tục tập
quán của người Minh. Vào năm 1414, chúng ra lệnh cấm con trai con gái
khơng được cắt tóc ngắn, phụ nữ phải nặc áo ngắn, quần dài,…

Hai mươi năm Minh thuộc là một khoảng thời gian không dài, nhưng
nền văn hóa của dân tộc đã bị tấn cơng và phá hoại một cách nặng nề nhất [1,
496 – 499].

22


5. Thành tựu văn hóa tinh thần thời Hậu Lê
5.1. Tư tưởng và tôn giáo
Thời Hậu Lê, Nho giáo giữ vị trí độc tơn và trở thành hệ tư tưởng chính
trị quan phương của nhà nước phong kiến. Nho giáo thời này chịu ảnh hưởng
của Nho giáo đời Tống và nhà nước lấy đó làm bệ đỡ tư tưởng cho việc xây
dựng chế độ trung ương tập quyền và bộ máy quan liêu. Tống Nho là một học
thuyết triết học duy tâm lấy Nho giáo làm chủ đạo nhưng đã biết tiếp thu kế
thừa những tinh hoa của các môn phái triết học như triết học tự nhiên của Đạo
gia và triết học tâm linh của Phật giáo sáng tạo nên một hình thái mới của
Nho học là Lý học (cịn gọi là Tân Nho giáo). Trong đó bàn về hai phạm trù
triết học cơ bản là Lý (tinh thần) và Khí (vật chất).
Các vua Lê đặc biệt là vua Lê Thánh Tông là những người am hiểu và
tôn sùng học thuyết Nho giáo. Chính vua Lê Thánh Tơng đã từng nói: “Tất cả
đều do mũ của nhà Nho mà ra”. Và Ngô Sĩ Liên, một nhà sử học lớn lúc bấy
giờ cũng đã khẳng định: “Vua tôi, cha con, vợ chồng là ba giềng mối lớn
trong đạo lí của con người, ngồi ra khơng có gì lớn hơn”. Khẩu hiệu chiến
lược của giai cấp phong kiến nhà Lê là lấy: “Sùng Nho trọng đạo làm việc
hàng đầu” (Bia Văn Miếu - 1442). Trong việc học hành thi cử, nhà Lê đều lấy
các sách kinh điển của Nho gia do các học giả đời Tống là Chu Đôn Di, Chu
Hy, Trình Hạo, Trình Di chú giải để làm tài liệu học tập. Ngồi ra vua Lê
Thánh Tơng cịn chọn lọc những nguyên tắc cơ bản về đạo đức và lễ giáo của
Nho giáo để lập thành “24 điều giáo huấn” đưa xuống các làng xã và bắt các
xã trưởng đem ra đọc và giảng cho xã dân nghe vào những dịp hội hè, đình

đám của làng xã và buộc họ phải thực hành theo những điều đã được quy đinh.
Và nhiều quy định của Nho giáo cũng đã được nhà vua cho đưa vào bộ Luật
Hồng Đức.
Tuy nhiên trong hàng ngũ của giai cấp phong kiến thời Lê không phải tất
cả đều bị tư tưởng Tông Nho chi phối, mà có nhiều người vẫn cố gắng đi tìm
những giá trị nhân bản trong học thuyết Nho giáo của Khổng Mạnh để kết
hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc hình thành nên những tư tưởng tiến
bơ. Nguyễn Trãi với tư tưởng “nhân nghĩa”. Mặt khác tuy trọng dụng Tống
Nho nhưng giai cấp thống trị nhà Lê vẫn có ý thức chú ý đến phong tục tập
quán của dân tộc và xử lý vấn đề trong một tinh thần độc lập mà bộ Luật
Hồng Đức là một minh chứng.
23


×