QUÁ TRÌNH
“PHÁT TRIỂN
THẦN KÌ”
CỦA NỀN KINH TẾ
NHẬT BẢN
(1952 - 1973)
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ
HAI. (1945 – 1952) .........................................................................................................3
1.1. Tình hình kinh tế ...................................................................................................3
1.2. Tình hình chính trị - qn sự .................................................................................4
1.3. Cuộc cải cách của Mac Arthur và sự chuyển biến kinh tế Nhật Bản....................7
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THẦN KÌ CỦA KINH TẾ NHẬT
BẢN (1952 – 1973) .......................................................................................................13
2.1. Sự phục hồi và phát triển kinh tế của Nhật Bản (1952-1973) ............................13
2.2. Những thành tựu cơ bản của Nhật Bản (1952 – 1973) .......................................18
2.2.1. Trong lĩnh vực công nghiệp ..........................................................................18
2.2.2. Trong lĩnh vực Nông nghiệp.........................................................................20
2.2.3. Trong lĩnh vực Thương nghiệp – Dịch vụ ....................................................21
2.2.4. Giao thông vận tải .........................................................................................22
2.2.5. Trong lĩnh vực Khoa học - kĩ thuật ..............................................................23
CHƯƠNG 3. NGUYÊN NHÂN PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN ......26
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM .................................................................................26
3.1. Nguyên nhân phát triển nền kinh tế của Nhật Bản .............................................26
3.1.1. Tiếp cận và ứng dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật ............................26
3.1.2. Vai trò của yếu tố con người Nhật Bản ........................................................31
3.1.3. Vai trị quản lí, chính sách cải cách và mở cửa của Nhà nước .....................33
3.1.4. Chi phí quốc phịng ít ...................................................................................34
3.1.5. Các công ty, các nhà kinh doanh năng động tích cực...................................35
3.1.6. Tận dụng những cơ hội bên ngồi ................................................................38
3.2. Bài học kinh nghiệm ...........................................................................................38
KẾT LUẬN ..................................................................................................................43
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................44
DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Thủ tướng Yoshida – Người đã nắm quyền điều hành nội các ..........................6
gần như trong suốt thời kì 1946 – 1954...........................................................................6
Hình 2: Thủ tướng Yoshida thay mặt Chính phủ Nhật Bản ............................................7
kí kết Hiệp ước San Francisco năm 1951 ........................................................................7
Hình 3: Mac Arthur – Người mở cửa nước Nhật lần thứ hai ..........................................8
Hình 4: Joseph Dodge (người đứng ở giữa) - chủ tịch ngân hàng Detroit người được
giao trọng trách thiết lập và thực hiện Chương trình cải cách tiền tệ ở Tây Đức sang
Nhật Bản làm cố vấn kinh tế cho SCAP........................................................................10
Hình 5, 6: Ngành cơng nghiệp đóng tàu ở Nhật Bản ....................................................23
Hình 7: Sơ đồ về việc Nhật Bản bắt đầu xây dựng xã hội 5.0 (Society 5.0) .................27
Hình 8: Robot thay thế cho nhân viên phục vụ .............................................................27
Hình 9: Robot thay thế cho nhân viên quầy lễ tân tại khách sạn ..................................28
Hình 10: Robot làm thay cơng việc của điều dưỡng viên .............................................28
Hình 11: Nhật Bản ra mắt xe ô tô không người lái .......................................................28
Hình 12: Nhật Bản đưa robot vào trong dây chuyền lắp rắp ơ tơ..................................29
Hình 13: Ứng dụng robot vào trong việc canh tác sản xuất nông nghiệp thay vào đó
con người chỉ cần đứng từ xa điều khiển ......................................................................29
Hình 14: Máy móc được ứng dụng rộng rãi trong nơng nghiệp giảm sức lao động, tăng
năng xuất........................................................................................................................29
Hình 15: Tàu Shinkanshen E5 trên tuyến đường đi từ Tokyo đến Nagoya ..................30
Hình 16: Tàu Shinkansen cao tốc thế mới N700S vừa được ra mắt vào tháng 7/2020
trên tuyến Tokaido nối thủ đô Tokyo với các đô thị lớn nằm ở khu vực miền Trung
Nhật Bản như Nagoya và Osaka....................................................................................31
Hình 17, 18, 19, 20: Một số hình ảnh về những chuyến dã ngoại, hoạt động ngoại khố
và tiết học ngồi trời của các em học sinh mầm non và tiểu học tại Nhật Bản .............32
Hình 21: Tập đồn Toyota - nhà sản xuất ơ tơ đa quốc giacó trụ sở chính tại Toyota,
Achi, Nhật Bản, do ơng Toyoda sáng lập ......................................................................36
Hình 22: Tập đồn SoftBank - là một cơng ty viễn thơng đa quốc gia có trụ sở ở Tokyo,
Nhật Bản do Masayoshi Son sáng lập ...........................................................................37
Hình 23: Tập đồn Sony - là một tập đoàn đồ điện tử đa quốc gia trụ sở chính nằm tại
Minato, Tokyo, Nhật Bản do Masaru Ibuka và Akio Morita sáng lập ..........................37
Hình 24: Tập đồn tài chính Mitsubishi UFJ - là tập đồn tài chính lớn nhất của Nhật
Bản và là ngân hàng lớn thứ năm trên thế giới (2016), có trụ sở chính tại thành phố
Tokyo, Tokyo, Nhật Bản do Kiyoshi Sono và Nobyuuki Hirano sáng lập ...................37
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Tỉ lệ tăng trưởng GDP của Nhật Bản qua các năm từ 1952 – 1973 ................16
Bảng 2. So sánh quốc tế về mức thu nhập bình quân đầu người ..................................17
Bảng 3. Sản phẩm quốc dân thuần túy của từng ngành sản xuất (thể hiện qua chi phí
của các yếu tố) ...............................................................................................................18
Bảng 4. Sự thay đổi tỉ trọng cấu thành của giá trị sản phẩm trong công nghiệp chế tạo
.......................................................................................................................................20
Bảng 5. Bảng cơ cấu các ngành sản xuất của Nhật Bản năm 1952 và 1968 .................21
MỞ ĐẦU
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản là nước bị bại trận, nền kinh tế bị tàn
phá nặng nề. Cuộc sống người dân phải chịu thảm họa đói rét, nhiều nhà máy, xí
nghiệp bị tàn phá gần như hoàn toàn, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất bị khan hiếm,
hàng hóa thiếu thốn. Thế nhưng, với sự quyết tâm và tinh thần tự hào dân tộc, Nhật
Bản đã từng bước đưa đất nước thốt khỏi khó khăn và vươn lên trở thành cường
quốc thứ hai thế giới tư bản (sau Mĩ). Đặc biệt, trong những năm 1952 – 1973, Nhật
Bản duy trì được tốc độ phát triển cao đáng kinh ngạc mà người ta gọi đó là “sự phát
triển thần kì”. Vậy Nhật Bản đã đạt được những thành tựu gì về kinh tế? Những
nguyên nhân nào góp phần làm nên “thần kì” Nhật Bản và sự phát triển đó đã để lại
bài học kinh nghiệm gì cho thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng? Đây là những
vấn đề cấp thiết khi tìm hiểu về Nhật Bản. Hiện nay, Nhật Bản là một trong những
quốc gia đứng đầu thế giới về khoa học công nghệ và đứng thứ hai trên thế giới về
tổng sản phẩm nội địa, thứ ba trên thế giới là một trong những nước có những phát
minh trong các lĩnh vực điện tử, ơtơ máy móc, robot, quang học, hóa chất, chất bán
dẫn và kim loại, xếp thứ tư thế giới về xuất khẩu, đứng thứ năm trên thế giới trong
lĩnh vực đầu tư cho quốc phòng, thứ sáu thế giới về nhập khẩu. Đây là thành tựu đáng
tự hào của nhân dân Nhật Bản. Đặc biệt, trong bối cảnh quan hệ Việt Nam - Nhật Bản
đang phát triển lên tầm cao mới thì việc nghiên cứu, tìm hiểu về Nhật Bản càng có ý
nghĩa quan trọng hơn. Xuất phát từ những lí do trên, tơi chọn đề tài Q trình “phát
triển thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản (1952 – 1973) làm đề tài nghiên cứu khoa
học.
Mục đích nghiên cứu của bài tiểu luận này nhẳm phục dựng một cách toàn diện
sự phát triển của kinh tế Nhật Bản (1952 - 1973). Từ đó, rút ra những bài học kinh
nghiệm cho thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong giai đoạn phát triển hiện
nay.
Cấu trúc bài tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1. Tình hình Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1952).
Chương này sẽ trình bày về tình hình Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai với
những thất bại nặng nề về kinh tế, tình hình chính trị qn sự có nhiều thay đổi dưới sự
chiếm đóng của lực lượng đồng minh và sự chuyển biến kinh tế của Nhật Bản.
Chương 2. Quá trình phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản (1952-1973).
Chương này sẽ trình bày về việc Nhật Bản đã vươn mình phát triển sau Chiến tranh thế
giới thứ hai trở thành một siêu cường kinh tế thế giới. Nhật Bản đã làm cho cả thế giới
kinh ngạc và nể trọng. Tổng sản phẩm quốc gia và thu nhập bình quân đầu người hàng
năm của Nhật đã liên tục tăng qua các năm. Năm 1968 kinh tế Nhật bản đã lần lượt
vượt qua các nước Anh, Pháp, Cộng hoà Liên bang Đức, Italia, Canada để vươn lên
đứng hàng thứ hai trong thế giới tư bản (sau Mĩ).
Chương 3. Nguyên nhân phát triển kinh tế Nhật Bản và bài học kinh nghiệm
Chương này sẽ làm rõ các nguyên nhân làm nên sự phát triển “thần kì” của nền kinh tế
1
Nhật Bản. Từ những ngun nhân đó thì chúng ta sẽ biết được nguyên nhân nào quan
trọng nhất để tạo nên sự thành cơng, sau đó để lại những bài học kinh nghiệm gì đáng
quý và bài học nào là chủ yếu để giúp các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng phát triển một cách tồn diện và nhanh chóng trên con đường hội nhập quốc
tế như hiện nay.
2
CHƯƠNG 1
TÌNH HÌNH NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
(1945 – 1952)
1.1. Tình hình kinh tế
Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là một đất nước hoang
tàn, kiệt quệ. Có lẽ khơng một quốc gia tham chiến nào phải chịu đựng một sự tổn thất
nặng nề như vậy và không thấy một nước công nghiệp nào khác lại chậm cho thấy dấu
hiệu bắt đầu phục hồi như vậy. Nhà cửa thuộc khu vực đơ thị của Nhật Bản bị thiêu
hủy hồn tồn trong những cuộc dội bom của không quân Mĩ, dân số Tokyo chết hơn
1/2, dân số Osaka chết gần 2/3. Sự tàn phá hầu hết các đô thị và sự hủy diệt hầu như
hồn tồn lực lượng tàu bn vốn từ trước đến nay làm thành mạch máu kinh tế duy trì
sự sống của Nhật Bản tụt xuống đến mức thấp nhất. Năm 1946, mức sản xuất chỉ còn
bằng 1/7 của năm 1941. Dân chúng ăn mặc rách rưới, ăn uống thiếu thốn, và bị kiệt
quệ cả về thể xác lẫn tinh thần.
Sau khi thua trận, Nhật Bản bị tàn phá nặng nề về kinh tế: 34% máy móc, 25%
cơng trình xây dựng, 81% tàu điện bị phá hủy, sản xuất cơng nghiệp tháng 8 – 1945 tụt
xuống cịn vài phần trăm so với một năm trước đó và chỉ bằng khoảng 10% mức trước
chiến tranh (1934 – 1936), nước Nhật chìm trong khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt.
Những vấn đề kinh tế xã hội gay gắt nhất Nhật Bản lúc này là: thất nghiệp, thiếu
nguyên liệu, lương thực và lạm phát. Lương thực, nguyên nhiên liệu thiếu trầm trọng,
giá cả đắt đỏ leo thang. Sản lượng công nghiệp năm 1946 chưa bằng 1/3 năm 1930 và
chỉ bằng 1/7 năm 1941.
Hơn 4 triệu người thất nghiệp do ngừng các hoạt động sản xuất quân sự, 7,6 triệu
binh sĩ giải ngũ, 1,5 triệu người từ các thuộc địa hồi hương, nâng tổng số người khơng
có việc làm lên 13,1 triệu. Nếu loại trừ một số người có khả năng về quê làm ruộng thì
xã hội vẫn cịn phải giải quyết việc làm cho khoảng 10 triệu người. Vụ lúa năm 1945
thất bát, thảm họa đói rét bao trùm nước Nhật.
Nguồn năng lượng chính lúc bấy giờ là than và thủy điện. Riêng than đã giảm từ
3 – 4 triệu tấn/ tháng xuống còn 1 triệu tấn/tháng vào mùa thu năm 1945. Lí do chủ
yếu là Nhật đầu hàng, những người Trung Hoa và Triều Tiên trước đó phải lao động
khổ sai trong các mỏ than đã không chịu tiếp tục công việc, các mỏ than hầu như bị tê
liệt hoàn toàn. Do thiếu than, ngành đường sắt bị khủng hoảng nghiêm trọng.
Tình trạng siêu lạm phát nổ ra từ năm 1945 kéo dài đến đầu những năm 1949 là
một biểu hiện nghiêm trọng khác của sự rối loạn trong kinh tế. Nguyên nhân chính là
do việc cho phát hành tiền giấy để bù đắp thâm hụt tài chính. Thâm hụt tài chính xảy
ra là do hai chính sách sau:
Trợ cấp – các khoản trợ cấp đều chủ yếu tập trung dành cho các sản phẩm đầu
vào trung gian như than đá, thép, đồng và phân bón nhưng một số trợ cấp lại dành cho
các hàng hóa tiêu dùng, đặc biệt là thực phẩm. Cụ thể hơn là chính phủ đã áp dụng
việc kiểm soát giá cả và cung cấp các khoản trợ cấp sản xuất (có nghĩa là “bù đắp
3
những khoảng cách về giá cả”) nhằm bù đắp những khoản lỗ cho các nhà sản xuất tư
nhân.
Các khoản cho vay từ Qũy phục hồi Tài Chính (fukkin) – mục tiêu của các khoản
cho vay này là các ngành công nghiệp được ưu tiên, đặc biệt là ngành than. Bộ Tài
chính sẽ cấp những khoản cho vay chính sách này cho các ngành được ưu tiên. Trái
phiếu chính phủ đã được phát hành để có được nguồn tài chính cho các khoản vay này.
Hầu hết các trái phiếu này đều được ngân hàng Nhật Bản mua.
Vài tháng trước khi đầu hàng, nhịp độ tăng giá đã gần đến mức báo động, nhưng
vẫn hồn tồn khơng thể so được với tình trạng siêu lạm phát sau đó. Nguyên nhân chủ
yếu là khi lượng hàng hóa cung ứng giảm sút, lượng tiền tệ đưa vào lưu thơng lại
phình ra vì chính phủ và ngân hàng Nhật đã phải tung công trái ra thị trường nhằm làm
dịu sự hoang mang của dân chúng trước tình hình quân đồng minh tăng cường oanh
tạc. Sau khi thua trận, chính phủ vẫn phải chi tiền lương cho qn lính giải ngũ, thanh
tốn các đơn đặt hàng quân sự trước đây, tiền đền bù thiệt hại v.v…Thêm vào đó,
những lời đồn đại về đổi tiền, đánh thuế tài sản v.v…càng làm cho dân chúng đổ xô đi
mua vét hàng hóa. Mọi biện pháp khẩn cấp chống lạm phát của chính phủ như: kêu gọi
dân chúng gởi tiền tiết kiệm, ra lệnh phát hành tiền mới, thực hiện chuyển đổi đồng
tiền yên mới và cho phép mỗi gia đình được quyền rút 500 yên hàng tháng để sinh
sống, thu thuế tài sản v.v…đều không ngăn chặn nổi lạm phát. Tình hình trên đã làm
nhân dân mất lịng tin vào chính phủ đã dẫn đến tình trạng gần như vơ chính phủ, nạn
chợ đen, cờ bạc và các tiêu cực xã hội khác phát triển. Với điều kiện trong nước như
vậy, cộng thêm việc mất hết thuộc địa và các tài sản vốn mang lại thu nhập ở nước
ngoài, lúc này tình hình khơng ai dám nghĩ đến rằng Nhật Bản có khả năng nhanh
chóng phục hồi được nền kinh tế kiệt quệ này.
1.2. Tình hình chính trị - quân sự
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản bị lực lượng đồng minh (thực tế
là Mĩ) chiếm đóng (1945 – 1952). Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Nhật
Bản bị nước ngồi chiếm đóng dưới chế độ quân quản do Bộ Chỉ huy tối cao lực lượng
Đồng minh (SCAP – The Supreme Commander for the Allied Powers), đứng đầu là
tướng Mĩ Mac Arthur quản lý. Chính phủ Nhật Bản vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng đóng
vai trị là chính quyền thứ hai, phải thực hiện nghiêm túc các sắc lệnh của SCAP.
Phá bỏ các Zaibatsu - các doanh nghiệp lớn bị lên án vì đã ủng hộ chủ nghĩa
quân phiệt trong chiến tranh. Các tập đoàn lớn này bị phá bỏ và chia nhỏ thành các
pháp nhân riêng biệt. Nhưng sau đó, chính sách này lại bị đảo ngược lại và một loại
hình tập đồn cơng nghiệp mới lại xuất hiện được gọi là các Keiretsu.
Luật lao động mới - đảm bảo quyền lợi của cơng nhân thơng qua việc tổ chức các
cơng đồn lao động, thương lượng các điều kiện làm việc cơ bản.
Cải tổ đất đai - đất đai của tất cả các địa chủ khơng thường xun sinh sống tại
nơi có đất và của những người sở hữu đất vượt số lượng qui định sẽ bị xung công và
bán lại cho những người thật sự cày cấy. Giá bán thấp và tỉ lệ lạm phát cao sẽ nhanh
4
chóng làm giảm sút giá trị thật của đất. Nhờ đó quyền sở hữu đất của nơng dân được
cải thiện đáng kể.
Trong thời gian này, tình hình chính trị - quân sự của Nhật Bản có nhiều biến đổi
quan trọng. Trước hết, lực lượng Đồng minh chiếm đóng đã thi hành một số biện pháp
để loại bỏ chủ nghĩa quân phiệt và bộ máy chiến tranh của Nhật Bản. Lực lượng vũ
trang thường trực và toàn bộ ngành quân sự Nhật bị giải trừ. Tịa án qn sự Viễn
Đơng được lập ra để xét xử các tội phạm chiến tranh Nhật Bản. Việc xét xử được tiến
hành từ tháng 5 - 1946 đến tháng 11 - 1948 ở Tokyo đã kết án 7 tên tử hình, 16 tên tù
chung thân, 2 tên tù dài hạn… Các đảng phái quân phiệt bị giải tán, và khoảng 290.000
người liên quan đến chế độ quân phiệt trước đây bị thanh trừng ra khỏi bộ máy nhà
nước. Hiến pháp năm 1889 của Nhật bị bãi bỏ, thay vào đó là Hiến pháp mới do SCAP
tổ chức soạn thảo, được công bố ngày 3 – 11 – 1946 và có hiệu lực ngày 3 – 5 – 1947.
Theo đó, về hình thức chính thể, Nhật Bản là nước Quân chủ lập hiến, nhưng thực chất
là theo chế độ dân chủ đại nghị tư sản dựa trên nguyên tắc Tam quyền phân lập cơ bản
là: chủ quyền thuộc về toàn dân, vua là biểu tượng quốc gia và có tính thống nhất dân
tộc, hịa bình, tơn trọng những quyền cơ bản của con người. Hội đồng khanh tướng
trước đây được thay bằng Quốc hội lưỡng viện (Thượng nghị viện và Hạ nghị viện) do
dân bầu ra làm cơ quan quyền lực tối cao quyền lập pháp. Thiên hoàng vẫn tồn tại,
nhưng Hiến pháp bãi bỏ quyền lực của Thiên hoàng đối với nhà nước và chỉ đảm nhận
những công việc do Nhà nước quy định, quyền hành pháp thuộc về chính phủ. Hiến
pháp cam kết ủng hộ lí tưởng hịa bình và chế độ dân chủ, xác định các quyền và nghĩa
vụ cơ bản của người dân trong khuôn khổ của nền dân chủ tư sản. Các cơng dân từ 25
tuổi trở lên có thể đi bầu cử vào Hạ nghị viện, từ 30 tuổi trở lên có thể được bầu cử
vào Thượng nghị viện. Chế độ phổ thông đầu phiếu nam nữ từ 20 tuổi trở lên có quyền
đi bầu cử, cam kết tử bỏ quyền tiến hành chiến tranh với các nước khác, không dùng
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, khơng duy trì qn đội thường trực
với các lực lượng hải, lục, không quân và các lực lượng chiến đấu khác.
Cùng với việc thực hiện dân chủ hóa, phần lớn các đảng phái chính trị ở Nhật
đều phục hồi và tìm cách khơi phục lại vị trí của mình. Các chính đảng cầm quyền
trước đây như Seiyukai, Minseito hoạt động trở lại ngay sau khi chiến tranh kết thúc.
Một số đảng chính trị bắt đầu mở rộng ảnh hưởng, trong đó có Đảng Tự do (Jiyoto),
thành lập tháng 11 - 1945, là tiền thân của Đảng Dân chủ Tự do (LDP) sau này. Trong
cuộc bầu cử đầu tiên sau chiến tranh, diễn ra năm 1946, Phó Chủ tịch Đảng Tự do
Yoshida Shigeru (1978 - 1967), lên làm thủ tướng từ tháng 5 - 1946 đến tháng 5 1947. Nền chính trị Nhật Bản từ năm 1945 - 1950 đã diễn ra q trình phân hóa của
các chính đảng đã tồn tại từ thời kì trước chiến tranh đồng thời có sự hình thành các
chính đảng mới. Các thành viên của Đảng Seiyukai sát nhập vào Đảng Tự do, trong
khi phần lớn các thành viên Đảng Minseito liên kết với Đảng Tiến Bộ (Shimpoto), sau
đó chuyển thành Đảng Dân chủ (Minshuto). Mặc dù các chính Đảng đều nổ lực để
nắm lấy quyền lực, nhưng trên thực tế trong thời kì nước Nhật bị chiếm đóng, vai trị
5
của các chính Đảng bị hạn chế rất nhiều so với thời gian trước chiến tranh. Trong khi
đó, tỉ lệ cử tri ủng hộ cho các đảng cánh như Đảng Xã hội, Đảng Cộng sản có chiều
hướng tăng lên. Trong cuộc bầu cử năm 1946, Đảng Xã hội chiếm 18% số phiếu bầu,
giành được 92 ghế trong Quốc hội, Đảng Cộng sản chiếm 4% số phiếu bầu và 5 ghế
trong Quốc hội.
Đầu tháng 2 - 1947, Đảng Cộng sản dự định tổ chức một cuộc tổng bãi công
trong phạm vi tồn quốc nhằm phản đối Chính phủ trong việc chậm trễ giải quyết các
vấn đề kinh tế và cải thiện điều kiện sống của người dân. Trong tình hình đó, SCAP ra
lệnh cấm tổng bãi công để ngăn chặn phong trào đấu tranh và hạ thấp uy tín chính trị
của các lực lượng cánh tả. Tuy nhiên, điều bất ngờ là trong cuộc bầu cử theo Hiến
pháp mới năm 1947, Đảng Xã hội lại giành được đa số phiếu bầu. Chính phủ mới được
thành lập bao gồm liên minh Đảng Xã hội và Đảng Dân chủ, đứng đầu là thủ tướng
Katayama Tetsu (1887 – 1978) – Chủ tịch Đảng Xã hội. Chính phủ Katyama đưa ra
chương trình quốc hữu hóa các ngành công nghiệp chủ chốt của Nhật nhưng không
được Quốc hội thơng qua. Đồng thời, cuộc đấu tranh chính trị trong nội bộ các đảng,
giữa cánh tả và cánh hữu đã dẫn đến sự phân hóa trong Chính phủ. Thủ tướng
Katayama phải từ chức tháng 3 - 1948, tuy nhiên các thành viên Đảng Xã hội tiếp tục
được duy trì trong chính phủ liên minh do Đảng Dân chủ đứng đầu cho đến cuối năm
1948.
Trong cuộc bầu cử năm 1948, Đảng Tự do giành thắng lợi và Yoshida Shigeru
trở lại làm thủ tướng nhiệm kì thứ hai trong những năm 1949 – 1954. Trên thực tế,
Thủ tướng Yoshida đã nắm quyền điều hành nội các gần như trong suốt thời kì 1946 –
1954. Là một chính trị gia, một nhà ngoại giao lão luyện và có quan điểm chống cộng
sản, thân phương Tây, Yoshida là một thủ tướng Nhật hồn tồn thích hợp đối với Mĩ
trong thời kì chiếm đóng Nhật Bản. Yoshida cũng chính là người thay mặt Chính phủ
Nhật kí kết Hiệp ước San Francisco năm 1951, cịn gọi là Hiệp ước Hịa bình San
Francisco với các nước Đồng minh.
Hình 1: Thủ tướng Yoshida – Người đã nắm quyền điều hành nội các
gần như trong suốt thời kì 1946 – 1954
6
Hình 2: Thủ tướng Yoshida thay mặt Chính phủ Nhật Bản
kí kết Hiệp ước San Francisco năm 1951
1.3. Cuộc cải cách của Mac Arthur và sự chuyển biến kinh tế Nhật Bản
Theo tuyên bố của Hội nghị Potsdam tháng 7 - 1945 của Mĩ, Anh và Trung Quốc
(Liên Xô sau đó cũng kí tên vào Tun ngơn này), từ cuối tháng 8-1945, quân đồng
minh trên thực tế chỉ là các lực lượng quân đội Mĩ, đã tiến hành chiếm đóng Nhật Bản.
Tướng Douglas Mac Arthur, là một người có tầm chiến lược, lịng khoan dung và từng
có nhiều kinh nghiệm chỉ huy quân đội Mĩ trên chiến trường Philippines cũng như ở
khu vực Thái Bình Dương. Mặc dù khơng tránh khỏi những hạn chế nhất định nhưng
cuộc chiếm đóng trong vòng bảy năm của SCAP được coi là cuộc chiếm đóng hịa
hiếu và tích cực nhất giữa hai dân tộc. Vai trị cá nhân của tướng D. Mac Arthur có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong thời gian này. Là một nhà quân sự đồng thời là một
chính trị gia giàu kinh nghiệm, những chính sách cải cách của ơng ở Nhật Bản đã nhận
được sự ủng hộ của Mĩ.
7
Hình 3: Mac Arthur – Người mở cửa nước Nhật lần thứ hai
Tư lệnh tối cao của Mĩ ở Tokyo bắt đầu cơng việc bằng cách xóa bỏ qn đội
Nhật. Hai triệu người đã được giải giáp và gửi về quê quán. Ngoài ra, sáu triệu quân
nhân và dân sự từ các vùng được giải phóng nằm dưới ách thống trị của Nhật trong
khối “Đại thịnh vượng” cũng được đưa về nước. 28 tướng lĩnh và viên chức chính trị
của Nhật Bản đã bị đưa ra xét xử. Bảy người trong số này có Tướng Tojo Hideki người được xem như là một trong những nhân vật chịu trách nhiệm chính của chủ
nghĩa quân phiệt - đã bị kết án treo cổ. Hàng ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính khác
cũng bị đưa ra xét xử vì đã gây ra những tội ác chiến tranh.
Tháng 11 - 1945, tướng Mac Arthur đã ra lệnh cho chính phủ Nhật Bản phải thực
hiện năm cải cách cơ bản: Tự do nghiệp đoàn, tự do bầu cử cho phụ nữ, thiết lập hệ
thống trường học tự do, bãi bỏ chế độ chuyên chế và dân chủ hóa hệ thống kinh tế.
Theo hiến pháp mới, Nhật Bản phải vĩnh viễn không được gây chiến tranh. Nước
Nhật khơng được quyền có qn đội riêng mà chỉ được có các “lực lượng phịng vệ”.
Theo điều IX của Hiến pháp, “nhân dân Nhật vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh xét như là
quyền tối thượng của đất nước”. Mặt khác, quyết định dẹp bỏ các Zaibatsu (tập đồn
cơng nghiệp và tài chính lớn nằm trong tay một nhóm các đại gia đình) của Mac
Arthur đã được dân chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Chính phủ Nhật, đã không gây bất
cứ trở ngại nào cho việc thi hành các cải cách, trong khi dân chúng Nhật ngày càng
cảm thấy có một nền tự do mà họ chưa bao giờ dám nghĩ đến. Một hòa ước với hầu hết
các nước trong khối Đồng minh cuối cùng cũng đã được kí kết vào tháng 9 - 1951. Để
chính thức chấm dứt thái độ thù địch, hiệp ước Francisco đã trao trả cho Nhật Bản chủ
quyền của mình, nhưng đồng thời cũng khẳng định Nhật Bản phải trả lại tất cả các
8
lãnh thổ đã chiếm đóng từ năm 1895. Quan hệ ngoại giao đã được nối lại giữa Tokyo
và 48 quốc gia. Nước Nhật đã dần dần giành lại vị trí của mình trong cộng đồng quốc
tế. Chính trong bầu khơng khí lặng dịu và đầy hi vọng ấy mà người Nhật đã bắt tay lao
động.
Ngay sau khi các lực lượng đồng minh hồn tất việc phi qn sự hóa hồn toàn
nước Nhật vào cuối mùa thu năm 1945, một phái đoàn điều tra của Mĩ, do Edwin
Pauley và Owen Lattimore dẫn đầu, đã đến Tokyo nghiên cứu các cách thức tốt nhất
để Nhật Bản đển bù những thiệt hại do những hành động bạo ngược của mình cho các
nước châu Á. Phái đồn đã tun bố khơng úp mở với người Nhật là khơng có chuyện
cho phép họ rót những khoản bồi thường dưới dạng các thành phẩm, vì cách bồi
thường này sẽ tạo điều kiện cho nước Nhật tăng cường khả năng cơng nghiệp của
mình. Theo ý phái đồn này, nước Nhật phải thực hiện bồi thường dưới dạng các phân
xưởng được tháo gỡ ra, vận chuyển và lắp đặt lại ở các quốc gia, nơi mà quân đội Nhật
hoàng đã thực hiện những tội ác man rợ nhất. Một danh sách 1.000 phân xưởng đã
chuẩn bị sẵn sàng. Người ta cho rằng nước Nhật sẽ không bao giờ ngoi lên được đến
một sức sống cao hơn những châu Á khác. Nếu như 1.000 phân xưởng ấy thực sự
được tháo gỡ và chuyên chở ra khỏi nước Nhật thì, hầu như chắc chắn, Nhật Bản sẽ
gặp những trở ngại to lớn trong việc tái thiết nền kinh tế. Nhưng, rất nhanh ở
Washinton, người ta hiểu rằng việc tháo gỡ các phân xưởng là một cơng việc khó khăn
và ít có lợi. Cuối cùng, rất ít thiết bị đã rời khỏi nước Nhật. Vài năm sau đó, khi bước
vào cuộc chiến tranh lạnh, Mĩ đã thay đổi hoàn toàn các chính sách của mình. Vấn đề
“trừng phạt” từ đó mãi mãi khơng cịn được đặt ra cho nước Nhật nữa.
Ngày 9 - 10 - 1945, lực lượng chiếm đóng tuyên bố thực hiện chính sách phi
qn sự hóa nền kinh tế. Đồng thời, để khuyến khích các lực lượng dân chủ, thủ tiêu
sự tập trung trong sản xuất và chiếm hữu tài sản trong đó có cả việc thanh trừng những
nhà tài phiệt hàng đầu, SCAP muốn triệt tiêu sức mạnh quân sự của Nhật Bản cả về
tâm lý lẫn thể chế. Theo đó, trách nhiệm khơi phục kinh tế là thuộc về chính phủ Nhật
Bản. Về kinh tế, SCAP thực hiện đồng thời 3 cuộc cải cách lớn. Để xây dựng và phát
triển nền kinh tế mới theo nguyên tắc tự do cạnh tranh. SCAP cho rằng việc đầu tiên là
phải loại bỏ tình trạng tập trung kinh tế mà trọng tâm là giải thể các zaibatsu. Đây là
các tập đồn kinh tế mang tính chất gia tộc, có sự cấu kết chặt chẽ về lợi ích với giới
tài phiệt. Theo yêu cầu và kết quả điều tra của SCAP, 83 cơng ty cổ phần và 57 tập
đồn Zaibatsu trong đó có những tập đồn khổng lồ như: Mitsui, Mitsubishi,Sumitomo,
Yasuda,… phải giao nộp hoặc bị tịch thu tài sản. Tổng số tài sản giao nộp lên đến 233
triệu cổ phần. Số cổ phần này được chính phủ phân tán và bán cho các cá nhân hay
nghiệp đoàn kinh tế.
Để ngăn chặn sự phục hưng của các Zaibatsu, hơn 2.000 người có mối liên hệ với
các tập đồn tài phiệt bị trục xuất ra khỏi cơng ty. Thêm vào đó, từ tháng 4 - 1947,
“Luật chống độc quyền” (Dokusen kinshi) được ban hành nhằm ngăn chặn sự phục hồi
của các thế lực tài phiệt và “trở thành nguyên tắc căn bản của nền kinh tế Nhật Bản sau
9
chiến tranh”. Tháng 12 - 1947, SCAP còn ban hành thêm “Luật thủ tiêu tập trung quá
mức sức mạnh kinh tế” nhằm giải tán các công ty nắm quá nhiều nguồn lực kinh tế.
Theo đó, 2 tập đồn kinh tế lớn là Mitsui và Mitsubishi phải phân tán thành 240 công
ty riêng biệt. Những biện pháp kiên quyết nêu trên đã tạo điều kiện cho sự canh tranh
mạnh mẽ trong tất cả các ngành cơng nghiệp và có tác dụng rất lớn đối với sự phát
triển và tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao của Nhật Bản sau chiến tranh. Tuy nhiên,
sau một thời gian phân tán, từ cuối thập kỉ 50, các Zaibatsu lại có khuynh hướng phục
hồi theo quy luật cạnh tranh và tập trung vốn của một nền kinh tế đang đạt tốc độ tăng
trưởng mạnh mẽ. Trong bối cảnh lịch sử, chính trị và xã hội mới, nguyên tắc hoạt động
kinh tế của các Zaibatsu cũng đã có 20 những thay đổi và điều chỉnh căn bản. Nguyên
tắc “trung thành” được thay bằng lý tưởng “cống hiến”. Những người lãnh đạo và
nhân viên trong mỗi cơng ty, nhà băng đều cố gắng hết mình vì sự phồn vinh của cơng
ty chứ khơng phải vì sự trung thành với ơng chủ của một dịng họ mang tính chất cha
truyền con nối đồng thời là người đứng đầu tập đoàn kinh tế như trước.
Để sớm đưa các ngành kinh tế Nhật Bản thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh
tế trầm trọng và xây dựng một nền kinh tế mới hoạt động theo nguyên tác tự do cạnh
tranh, chính phủ Mĩ đã cử Joseph Dodge, chủ tịch ngân hàng Detroit người được giao
trọng trách thiết lập và thực hiện Chương trình cải cách tiền tệ ở Tây Đức sang Nhật
Bản làm cố vấn kinh tế cho SCAP. Là một nhà kinh tế theo trường phái cổ điển,
J.Dodge chủ trương xây dựng một nền kinh tế trên nguyên tắc hoạt động của thị
trường tự do, khơng có sự can thiệp của nhà nước. J.Dodge cho rằng, nếu Nhật Bản
muốn thực hiện q trình tích lũy tư bản cũng như khơi phục nền cơng nghiệp thì phải
dựa trên sự nỗ lực của chính mình.
Hình 4: Joseph Dodge (người đứng ở giữa) - chủ tịch ngân hàng Detroit người
được giao trọng trách thiết lập và thực hiện Chương trình cải cách tiền tệ ở Tây
Đức sang Nhật Bản làm cố vấn kinh tế cho SCAP
Kế hoạch kinh tế của J.Dodge gồm có những nội dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất: Thực hiện việc cân bằng hóa ngân sách của chính phủ. Nhật Bản
không chỉ cần phải thiết lập được sự cân bằng tuyệt đối về mặt tài chính trong các
khoản thanh tốn đặc biệt mà cịn phải có nguồn ngân sách dự trữ để có đủ khả năng
mua lại các trái phiếu trước hạn định.
10
Thứ hai: Đình chỉ việc cho vay mới nguồn tài chính của Ngân quỹ phục hồi vốn
để tập trung cho một số ngành công nghệ mũi nhọn. Biện pháp này nhằm cắt đứt
nguồn cung ứng tiền tệ mà theo J.Dodge là nguyên nhân cơ bản khiến cho tình trạng
lạm phát trở nên trầm trọng ở Nhật Bản.
Thứ ba: Cắt giảm và hủy bỏ chế độ trợ cấp của chính phủ cho một số ngành kỹ
nghệ và đình chỉ sự kiểm soát của nhà nước đối với việc xuất nhập khẩu hàng hóa.
Thứ tư: Quy định tỷ giá hối đối từ tháng 4 năm 1949 là 360 yên/1 USD Mĩ để
tăng sức cạnh tranh cho kinh tế Nhật Bản. Trên thực tế, tỷ xuất này đã ghìm đồng yên
xuống thấp hơn 330 yên/1 USD và được coi là tỷ xuất thích hợp thời bấy giờ.
Kế hoạch J.Dodge đã đem lại nhiều thành công cho nền kinh tế Nhật Bản. Kế
hoạch đã ngăn chặn hiệu quả nạn lạm phát, giữ được sự bình ổn giá cả hàng hóa của
thị trường trong nước đồng thời bước đầu nâng cao năng lực cạnh tranh của các công
ty Nhật Bản tại thị trường trong nước cũng như trên thế giới. Đây có thể coi là một
chương trình giảm lạm phát quy mơ lớn, có ý nghĩa quan trọng như kế hoạch giảm lạm
phát của Matsukata vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XIX. Trong thời kỳ áp dụng kế
hoạch J.Dodge, ngân hàng Nhật Bản đã giảm mức tăng của lượng tiền phát hành từ
40%/năm xuống còn 30%/năm và kiềm chế mức tăng lương 10% mỗi tháng xuống cịn
4%.
Nhằm thực hiện một chương trình cải cách tồn diện nền kinh tế Nhật Bản,
SCAP cịn khẩn trương thực hiện cải cách ruộng đất. Cuộc cải cách được chia làm 2
đợt. Đợt 1 bắt đầu thực hiện từ tháng 1 - 1946 và đợt 2 diễn ra từ tháng 11 - 1946.
Theo quan điểm của nhiều chuyên gia Nhật và SCAP thì sự tồn tại của chế độ địa chủ
ở Nhật chính là nguyên nhân tiềm tàng dẫn tới sự phục hưng của chủ nghĩa quân phiệt.
Để giảm thiểu tiến tới xóa bỏ những đặc quyền của giai cấp địa chủ, SCAP đã thực thi
những biện pháp kiên quyết để cắt giảm quy mô sở hữu đất đai của giai cấp này để loại
trừ hình thức bóc lột phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân. Theo đó, đối với
những địa chủ vắng mặt, ruộng đất sẽ bị chính quyền trưng mua. Các địa chủ vẫn sinh
sống và cai quản ruộng đất của mình thì chỉ có thể giữ lại 1 cho (đơn vị đo diện tích
của Nhật Bản, 1 cho tương đương 99,8 a) nhưng riêng ở Hokkaido thì có thể giữ lại 4
cho. Đây là một quy định hết sức ngặt nghèo. Ban cải cách ruộng đất mua đất của địa
chủ. Tiền bán đất được thanh tốn bằng cơng trái. Giá đất mua khơng những rất thấp
mà sau đó, do lạm phát giá trị thực tế càng thấp nên trên thực tế chủ đất gần như bị
tịch thu. Số ruộng đất thu mua được chính phủ bán lại cho nơng dân với mức giá thấp.
Họ có thể vay nợ của nhà nước để mua đất và trả nợ dần với lãi xuất 3,2%. Đến tháng
8 năm 1950, cuộc cải cách ruộng đất mà thực chất là chính sách hạn chế những đặc
quyền của giai cấp địa chủ cũ, đem lại quyền tư hữu ruộng đất cho nông dân trên quy
mô lớn ở Nhật Bản đã kết thúc.
Kết quả là có trên 5 triệu mẫu đất canh tác đã được chuyển đổi sang cho những
chủ canh tác mới. Diện tích đất phát canh trước cải cách ruộng đất là 46% nhưng sau
cải cách đã giảm xuống chỉ còn 10%. Số ruộng đất thuộc về những người trực tiếp
11
canh tác đã tăng từ 55% lên đến 87%. Việc chuyển quyền sở hữu ruộng đất cho những
người nông dân trực tiếp canh tác đã kích thích mạnh mẽ tính tích cực sản xuất của cư
dân Nhật Bản, phát huy hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá của Nhật Bản đồng thời
đem lại sản lượng lương thực vượt trội cho xã hội. Ở nhiều vùng nông thôn Nhật Bản
đã thấy xuất hiện một tầng lớp tiểu chủ trung lưu. “Cải cách ruộng đất cũng đã góp
phần mở rộng thị trường trong nước và trở thành địa bàn cho Đảng bảo thủ”. Với
những thành cơng đó, chính sách cải cách ruộng đất mà SCAP được coi là một trong
những cải cách thành công nhất ở Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Song song với việc thực hiện những cải cách ruộng đất và biện pháp kinh tế trên
đây, SCAP cịn chủ trương tiến hành dân chủ hóa quyền lợi của người lao động thông
qua các đạo luật về lao động. Luật cơng đồn năm 1945 bảo đảm các quyền tổ chức
cơng đồn, thương lượng tập thể và bãi cơng. Luật điều chỉnh quan hệ lao động năm
1946 được công bố. Cùng với các đạo luật trên, phong trào công đồn đã phát triển
khá nhanh chóng và đóng vai trị quan trọng trong việc cải thiện điều kiện lao động
của cơng nhân.
Nhìn chung, các cuộc cải cách trên đã chuẩn bị những điều kiện hết sức quan
trọng cho việc mở rộng dân chủ trong xã hội Nhật Bản và sự tăng trưởng kinh tế nhanh
chóng của Nhật Bản về sau.
Tóm lại Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là nước bại trận và bị
quân đội đồng minh chiếm đóng. Nhật Bản vấp phải những khó khăn về kinh tế - xã
hội như là đất nước bị chiếm đóng và bị tàn phá nặng nề, thiếu lương thực nguyên
nhiên liệu trầm trọng, giá cả đắt đỏ, lạm phát leo thang và nặng nề nhất là nạn đói năm
1945. Trước tình hình đó Nhật Bản phải dựa vào sự “viện trợ” đến từ Mĩ và nước
ngoài gần 14 tỉ USD. Bên cạnh đó, một loạt cải cách được tiến hành trong thời kì
chiếm đóng như cải cách ruộng đất, phá bỏ các Zaibatsu, luật lao động…đã góp phần
khơng nhỏ vào việc thay đổi bộ mặt nước Nhật. Với những biện pháp và các cải cách
đã tạo ra cho nước Nhật, chỉ trong một thời gian ngắn đến những năm 1950 – 1951 đã
khơi được nền kinh tế của mình đạt mức trước chiến tranh.
12
CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THẦN KÌ CỦA KINH TẾ NHẬT BẢN
(1952 – 1973)
2.1. Sự phục hồi và phát triển kinh tế của Nhật Bản (1952-1973)
Tháng 10 năm 1949, sự ra đời của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và sau
đó là sự bùng nổ của cuộc chiến tranh Triều Tiên tháng 6 năm 1950 đã dẫn đến những
thay đổi hết sức quan trọng trong cách đánh giá và nhìn nhận vai trị của Nhật Bản
trong chiến lược tồn cầu của Mĩ. “Mĩ bắt đầu xem sức mạnh kỹ nghệ và quân sự của
Nhật Bản là một hậu thuẫn đáng kể cho lực lượng quân sự Mĩ ở Viễn Đơng. Bởi thế,
đối với Mĩ, Nhật Bản trước đó khơng lâu là kẻ thù số một, trong chốc lát đã trở thành
người đồng minh chủ yếu”. Sau khi cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, nền kinh tế
của Nhật Bản đã có những thay đổi căn bản. Cuốn “Sách trắng kinh tế” xuất bản ở
Nhật Bản năm 1952 nhận định: “Chiến tranh Triều Tiên đã làm nền kinh tế Nhật Bản
thay đổi. Nhờ có các đơn đặt hàng của Mĩ và hoạt động xuất khẩu tăng lên nên tình
trạng ứ đọng hàng hóa sẽ được khắc phục, sản xuất hàng hóa bắt đầu tăng”.
Về xã hội, các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và những người lao
động trước đây được coi như là biểu hiện quá trình dân chủ hóa và sự tiến bộ xã hội đã
từng bước bị hạn chế thậm chí bị coi là những biểu hiện của khuynh hướng chính trị
đối lập mang tính chất nguy hiểm gây nên tình trạng bất ổn của xã hội.
Chiến tranh Triều Tiên được ví như “Ngọn gió thần” thổi vào nền kinh tế Nhật
Bản. Do nằm ở vị trí chiến lược phía bắc Thái Bình Dương, án ngữ con đường hướng
về phía đơng của Trung Quốc, Triều Tiên, Liên Xơ, quần đảo Nhật Bản mau chóng trở
thành căn cứ qn sự của Mĩ. Khơng chỉ có ý nghĩa với khu vực Đông Bắc Á, về lâu
dài Mĩ cũng muốn dùng địa bàn Nhật Bản để có thể tiến xuống khu vực Đơng Nam Á,
gây ảnh hưởng chính trị và thâm nhập vào thị trường khu vực.
Khi chiến tranh Triều Tiên diễn ra, đáp ứng yêu cầu của Mĩ, Nhật Bản không chỉ
là căn cứ quân sự mà còn là nước cung cấp nguồn hậu cần quan trọng cho quân đội
Mĩ. Sau một thời kỳ phục hưng kinh tế, các ngành sản xuất của Nhật Bản cũng đã có
đủ những điều kiện cần thiết để sản xuất các nhu yếu phẩm phục vụ chiến tranh như vũ
khí, trang phục và nhiều thiết bị dịch vụ khác. Những chế phẩm đó khơng chỉ đáp ứng
một phần mục tiêu xuất khẩu mà còn trực tiếp cung cấp cho các hoạt động quân sự và
sinh hoạt của binh sĩ, nhân viên Mĩ trên đất Nhật. Trong 4 năm (1950 – 1954) đơn đặt
hàng của Mĩ dành cho các công ty Nhật Bản đã đạt trị giá 4 tỷ đôla. Như vậy, cùng với
hơn 2 tỷ đôla mà Mĩ đã đưa vào Nhật Bản trước năm 1951 để hỗ trợ cho nền kinh tế
nước này, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, mức độ đầu tư của Mĩ vào Nhật Bản là
rất lớn. Các khoảng thu ngoại tệ từ các đơn đặt hàng của Mĩ tương đương 60 -70%
tổng giá trị xuất khẩu đã góp phần hết sức quan trọng nâng cán cân thanh toán của
Nhật Bản lên chỉ số dương trong một thời gian ngắn. Nhật Bản đã có thể nhập khẩu
một lượng hàng hóa, nguyên liệu đạt giá trị khoảng 2 tỷ đô la mỗi năm, tức là tăng hơn
gấp 2 lần so với trước chiến tranh Triều Tiên diễn ra mà không phải chú ý giữ mức cân
13
bằng ngân sách như nguyên tắc đã đề ra trong kế hoạch của J.Dodge. Nguồn nhiên liệu
và hàng hóa nhập về đã thúc đẩy các ngành kinh tế trong nước đạt tốc độ tăng trưởng
nhảy vọt. Có thể nói, các đơn đặt hàng ưu đãi của chính phủ Mĩ đã đem lại sự hồi sinh
cho kinh tế Nhật Bản.
Về phần mình, để tranh thủ cơ hội phát triển đồng thời nhằm đáp ứng nhu cầu
hàng hóa to lớn của Mĩ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, chính phủ và giới chủ tư
bản Nhật Bản đã tăng cường đầu tư vào máy móc, thiết bị, đổi mới kỹ thuật đặc biệt là
hỗ trợ cho 4 ngành công nghiệp chủ chốt là cơng nghiệp than, luyện kim, điện lực và
đóng tàu. Trước những tác động của cuộc chiến tranh Triều Tiên, kinh tế Nhật Bản đã
có những tăng trưởng hết sức mau chóng. Theo đó, nếu lấy năm 1950 là năm chiến
tranh Triều Tiên bùng nổ làm mốc để so sánh thì mức thu nhập quốc dân năm 1953 đã
tăng lên khoảng 30% còn tiền lương thực tế đã tăng từ 35% đến 45%. Chính trong thời
kỳ này, Nhật Bản đã xây dựng được nền tảng cho sự phát triển kinh tế ở các giai đoạn
sau.
Như vậy, trước những biến đổi của tình hình chính trị khu vực và thế giới, sau
một thời kỳ gặp rất nhiều khó khăn và khủng hoảng, đến năm 1951, Nhật Bản đã phục
hồi được mức sản xuất trước chiến tranh (1934 - 1936). Từ năm 1951, Nhật Bản đã
xác định chính sách phát triển kinh tế, xã hội của một thời kỳ mới trên cơ sở các cuộc
cải cách do lực lượng chiếm đóng đặt ra đồng thời chủ động đề ra những chính sách
hữu hiệu nhằm đẩy mạnh q trình tích lũy nguồn vốn và sử dụng tiềm lực kinh tế
nước ngoài (mà chủ yếu là của Mĩ) để nâng cao sức phát triển và năng lực cạnh tranh
trên thị trường quốc tế. Nhờ có hậu thuẫn của Mĩ, từ năm 1952, Nhật Bản bước vào
thời kỳ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế kéo dài đến năm 1973.
Về quan hệ quốc tế, với mục tiêu biến Nhật Bản thành đồng minh số một ở châu
Á, chính sách mới của Mĩ khơng chỉ dừng lại ở việc thay đổi biện pháp kinh tế có lợi
hơn cho Nhật Bản mà còn chủ trương tiến tới chấm dứt sự chiếm đóng trực tiếp trên
lãnh thổ nước này. Sau chuyến thăm Nhật Bản mùa xuân năm 1948 của George
Kennan, chun gia phân tích chính trị với những cơng trình nổi tiếng về Liên Xơ,
chính phủ Mĩ ngày càng thể hiện rõ quan điểm của mình về vai trị quân chế của SCAP
ở Nhật Bản. Tháng 10 năm 1948, Hội đồng An ninh quốc gia Mĩ đã bí mật thông qua
Nghị quyết số NSC13/2 mà nội dung chủ yếu của nó là “tạm thời vẫn tiếp tục chiếm
đóng Nhật Bản, Okinawa và các căn cứ quân sự khác sẽ được giữ lại do sự cần thiết về
quân sự, nhưng các quyền lực của SCAP sẽ được chuyển giao cho Nhật Bản và địa vị
của chính phủ Nhật Bản sẽ được tăng cường. Hơn nữa, những kiềm chế đối với sự
phục hồi kinh tế sẽ được bãi bỏ càng nhiều càng tốt và quá trình phục hồi sẽ được đẩy
mạnh. Chủ trương đó của Mĩ ban đầu đã vấp phải sự phản đối của các nước Đồng
minh nhưng cuối cùng bằng nhiều cách khác nhau, Mĩ cũng đã thuyết phục được các
quốc gia chấp thuận quan điểm của Mĩ thông qua con đường đàm phán. Dưới sự bảo
trợ của Mĩ, “Hiệp ước hịa bình San Francisco” đã được kí kết vào tháng 9 - 1951 và
14
cho đến tháng 4 - 1952 việc chiếm đóng của cái gọi là “Quân đội các lực lượng Đồng
minh” trên lãnh thổ Nhật bản đã chính thức kết thúc.
Lời nói đầu của Hiệp ước ghi rõ: “Nhật Bản khơng có những phương tiện có hiệu
quả để tự bảo vệ vì Nhật Bản đã bị giải giáp… Vì vậy, Nhật Bản mong muốn có một
hiệp ước an ninh với Mĩ để bảo đảm cho nền an ninh của mình”. Theo hiệp ước, Nhật
Bản thỏa thuận dành cho Mĩ quyền duy trì các lực lượng hải, lục, không quân và hoạt
động của các lực lượng đó trên lãnh thổ Nhật Bản. Những lực lượng đó có thể huy
động vào việc “duy trì hịa bình và an ninh quốc tế ở Viễn Đơng, bảo vệ an ninh của
Nhật chống lại mọi cuộc xâm lược từ bên ngoài, giúp Nhật Bản dập tắt các cuộc bạo
động và những rối loạn trong nước Nhật do sự xúi giục hay do sự can thiệp của một
hay nhiều nước ngồi gây ra. Hiệp ước có giá trị trong 10 năm”. Hiệp ước San
Francisco được kí kết đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh thế giới thứ hai đồng thời
cũng chấm dứt địa vị cường quốc của Nhật Bản.
Nhằm bảo đảm và tăng cường an ninh cho Nhật Bản, theo chỉ thị của Mac Arthur
một lực lượng Cảnh sát dự bị đội (Keisatsu yobitai) gồm 75.000 người đã được thành
lập. Trên thực tế, đây là các lực lượng quân đội được phiên chế và trang bị những
phương tiện chiến tranh hiện đại như máy bay, xe tăng, chiến hạm,…Từng bước, theo
những diễn biến chính trị phức tạp trong khu vực và tình hình căng thẳng của cuộc
Chiến tranh lạnh năm 1952 lực lượng Cảnh sát dự bị đã được đổi thành Lực lượng bảo
an (Ho’antai) và đến năm 1954 lại được nâng lên thành Cục phòng vệ (Ji’eitai). Sự
xuất hiện của Cục phòng vệ trên thực tế đã phá vỡ những nguyên tắc căn bản đã được
quy định rõ trong bản Hiến pháp ban hành năm 1947.
Đầu năm 1950, nền kinh tế Nhật Bản bước sang giai đoạn mới. Tình hình có
những đặc điểm sau:
Trước khi bùng nổ chiến tranh Triều Tiên (6 - 1950), chi phí sản xuất công
nghiệp của Nhật Bản xấp xỉ với Mĩ, nhưng đến năm 1953 hầu hết các sản phẩm công
nghiệp của Nhật Bản có chi phí sản xuất cao hơn, đặc biệt đối với hai sản phẩm than
và thép.
Loại bỏ kiểm soát và trợ cấp, cơ chế thị trường được phục hồi mạnh mẽ. Cho
phép tư nhân tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Tuy nhiên, đây chưa thực sự
là tự do hóa thương mại; một số cơ chế cũ vẫn tồn tại như kiểm soát tỷ giá, bảo hộ
nhập khẩu, chi phí ngoại tệ, các quy định và biện pháp hành chính.
Lạm phát trên phạm vi tồn cầu gắn liền trong thời kì chiến tranh Triều Tiên.
Nhưng lạm phát ở Nhật Bản cao hơn mức trung bình của thế giới; từ năm 1945 đến
1951 giá cả hàng hóa bán ra của Nhật tăng 64%, chỉ số giá tiêu dùng tăng 8,5%. Cũng
trong thời gian này giá cả bán ra ở Mĩ và Anh tăng tương ứng là 16,1 và 11,1%.
Tỷ giá hối đoái cố định mới ở mức 360 yên trên 1 đô la Mĩ được thiết lập vào
năm 1949. Ban đầu tỷ giá này là phù hợp, tuy nhiên chiến tranh Triều Tiên đã làm cho
lạm phát tăng, đồng yên trở nên có giá hơn so với đôla Mĩ.
15
Nhật Bản đã giành lại được sự độc lập về chính trị bằng việc kí kết Hiệp ước Hịa
Bình Francisco với Mĩ năm 1951 và viện trợ kinh tế từ Mĩ kết thúc. Trong thời gian
này Hiệp ước An Ninh Nhật Bản - Mĩ được kí kết năm 8 - 9 - 1951 và Nhật Bản trở
thành đồng minh của Mĩ trong chiến tranh lạnh.
Nhật Bản đã có những biến đổi thần kì về kinh tế trong nước cũng như trong
quan hệ với nền kinh tế thế giới những biến đổi này có tính liên tục và biến đổi nhanh
về lượng.
Bảng 1. Tỉ lệ tăng trưởng GDP của Nhật Bản qua các năm từ 1952 – 1973
Đơn vị: %
Năm
Tỷ lệ
Năm
Tỷ lệ
1952
1953
1954
1955
1956
1957
1958
1959
1960
1961
1962
16,3
18,1
4,0
13,3
13,3
13,0
4,8
15,5
19,1
22,5
9,1
1963
1964
1965
1966
1967
1968
1969
1970
1971
1972
1973
18,2
19,5
10,6
17,9
18,1
18,9
18,2
17,1
10,1
16,5
21,0
Nguồn: Nguyễn Tiến Lực (2013), Nhật Bản những bài học từ lịch sử, Nxb Thông
tin và Truyền thông, Tp. Hồ Chí Minh, tr.221.
Nhìn vào bảng 1 cho ta thấy tỉ lệ GDP của Nhật Bản tăng không liên tục qua các
năm. Năm 1952 tỉ lệ GDP của Nhật Bản là 16,3%. Năm 1973 tỉ lệ GDP của Nhật Bản
là 21,0%. Từ năm 1954 – 1958 tỉ lệ GDP giảm qua các năm. Năm 1954 tỉ lệ GDP của
Nhật Bản là 4,0% và năm 1958 là 4,8%. Từ năm 1965 – 1968 tỉ lệ GDP của Nhật Bản
tăng liên tục qua các năm. Năm 1965 tỉ lệ GDP của Nhật Bản là 10,6% và năm 1968 là
18,9%. Từ năm 1963 – 1973 tỉ lệ GDP của Nhật Bản luôn ở trên mức 10%. Nhìn
chung tỉ lệ GDP của Nhật Bản tăng qua các năm, nhưng tỉ lệ này tăng không liên tục.
Đây là thời kỳ Nhật Bản đạt được những biến đổi thần kỳ về kinh tế nhờ sự lao
động, tiết kiệm, tích lũy của tồn thể nhân dân. Là giai đoạn phát triển kinh tế “thần kỳ”
của Nhật Bản, mà Laxuhico Nacaxone gọi là “thời đại xây dựng những kim tự tháp
lóng lánh”1. Sở dĩ gọi như vậy bởi đây là thời kì phúc lợi xã hội vất chất và mức sống
tăng vọt, những tư tưởng tự do và những tư tưởng dân chủ lan ra mạnh mẽ, tinh thần
yêu chuộng mạnh nhất đối với nguyên tắc “tự do bày tỏ ý chí”, trung thành đối với sự
nghiệp hịa bình, tôn trọng và tuân thủ các quyền con người. Tốc độ tăng trưởng công
1
Laxuhicô Nacaxônê (2004), Chiến lược quốc gia của Nhật Bản trong thế kỉ XXI, NXB Thông Tấn, Hà Nội, tr.
107.
16
nghiệp thời kì 1950 - 1960 là 15,9% và trong thời kì 1960 - 1969 là 13,5%. Trong đó
sự phát triển của các ngành cơng nghiệp chế tạo đóng vai trò hàng đầu trong sự phát
triển kinh tế của Nhật Bản.
Người Nhật vốn quen với việc phục hồi những tai họa mà thiên nhiên đổ xuống
đầu họ như động đất, sóng thần hay bão tố, họ đã hùng hục lao mình với tất cả ý chí
kiên cường vốn có vào công việc phục hồi xứ sở sau cái tai họa lớn hơn nhiều do con
người tạo ra: “chiến tranh”. Những căn nhà ổ chuột xiêu vẹo bắt đầu phủ dần lên
những mảnh vụn hoang tàn của thành phố, và dần dần thay thế bằng những ngôi nhà
vững chắc hơn, và sau cùng là các khu vực trung tâm thành phố đã thấy chen chúc
những tịa cao ốc bằng bê tơng cốt thép mười tầng đồ sộ hơn những tòa cao ốc trước
chiến tranh đã từng đứng đấy. Cũng tương tự như vậy, những ngành công nghiệp của
Nhật Bản bị chiến tranh tàn phá đã bắt đầu phục hồi, dần dần lấy lại được năng xuất đã
mất trước đây, thay thế các thiết bị cũ kỹ hao mòn trước chiến tranh bằng những máy
móc hiện đại có hiệu năng cao hơn, sản xuất được nhiều hơn so với các đối thủ cơng
nghiệp của Nhật Bản nước ngồi.
Trong suốt các thời kỳ này, nền kinh tế Nhật Bản đã đạt được sự tăng trưởng cực
kì cao. Do đó khơng những thu nhập đầu người đã tăng tuyệt đối mà mức tương đối so
với các nước chủ yếu cũng thay đổi đáng kể. Nhưng do kết quả tăng trưởng cao, nên
mức thu nhập đã ngang với của châu Âu và đó là lý do chủ yếu làm thay đổi mục tiêu
chính sách.
Bảng 2. So sánh quốc tế về mức thu nhập bình quân đầu người
Đơn vị tính: Đơla
Năm
Nước
Mĩ
Anh
Tây Đức
Nhật Bản
Năm 1955
Năm 1965
Năm 1975
1.995
853
662
222
2.899
1.472
1.504
725
4.510
2.251
3.546
2.229
Nguồn: Ichikawa Hidehiro (1992), Kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ
hai, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 340.
Nhìn vào bảng 2 cho ta thấy mức thu nhập bình quân của các nước Mĩ, Anh, Tây
Đức, Nhật Bản tăng liên tục qua các năm 1955, 1965, 1975. Nước Mĩ: mức thu nhập
bình quân đầu người năm 1955 là 1.995 đôla đến năm 1975 là 5.510 đôla. Nước Anh:
mức thu nhập bình quân đầu người năm 1955 là 853 đôla đến năm 1975 là 2.251 đôla.
Các nước Tây Đức: mức thu nhập bình quân đầu người năm 1955 là 662 đôla đến năm
1975 là 3.546 đôla. Nước Nhật Bản: mức thu nhập bình quân đầu người năm 1955 là
222 đôla đến năm 1975 là 2.229 đôla. Thu nhập bình quân đầu người của Nhật Bản
năm 1955 là 222 đôla, chỉ bằng 1/9 mức của nước Mĩ, 1/4 của nước Anh, 1/3 của Tây
Đức. Nhưng thu nhập đó vào năm 1975 là 2.229 đôla, bằng khoảng 1/2 của Mĩ, ngang
17
mức của Anh. Đương nhiên phúc lợi xã hội không chỉ là mức thu nhập, mà còn là hàm
số của tài sản và môi trường sống….. nên chưa thể căn cứ vào đây để nói rằng mức
sống của Nhật Bản ngang với mức thu nhập của châu Âu. Nhìn chung mức thu nhập
bình quân đầu người của Nhật Bản tăng liên tục qua các năm đánh dấu sự vươn mình
trở lại sau đóng tro tàn Chiến tranh thế giới thứ hai.
2.2. Những thành tựu cơ bản của Nhật Bản (1952 – 1973)
2.2.1. Trong lĩnh vực công nghiệp
Năm 1968, Nhật Bản với tổng sản phẩm quốc dân đạt khoảng 133 tỉ đôla, thấp xa
so với 840 tỉ đôla của Mĩ, nhưng đã chiếm vị trí cường quốc kinh tế thứ hai trong thế
giới tư bản. Nếu nhớ lại năm 1950 tổng sản phẩm quốc dân đạt khoảng 1 tỉ đơla thì 18
năm sau đã tăng tới 13 lần.
Bảng 3. Sản phẩm quốc dân thuần túy của từng ngành sản xuất (thể hiện qua chi
phí của các yếu tố)
Đơn vị: Tỉ yên
Tỉ trọng cấu thành: %
1952
1960
1968
Kim
Tỉ
Kim
Tỉ
Kim
Tỉ
ngạch
trọng
ngạch
trọng
ngạch
trọng
Nông lâm ngư
1170
22,6
1941
14,6
4167
9,9
nghiệp
158
3,1
213
1,6
291
0,7
Khai mỏ
Công nghiệp chế
1258
24,3
3891
29,3
12832
30,3
tạo
201
3,9
733
5,5
3230
7,6
Xây dựng
Điện lực, hơi
454
8,8
1224
9,2
3509
8,3
đốt,cấp nước, vận
tải, bưu điện
844
16,3
2121
16,2
7413
17,5
Thương nghiệp
1008
21
3141
23,6
10877
25,7
Dịch vụ
5173
100
13293
100
12299
100
Tổng cộng
Nguồn: Ichikawa Hidehiro (1992), Kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ
hai, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 30.
Bảng 3 cho thấy sự thay đổi tỉ trọng cấu thành trong sản phẩm quốc dân thuần
túy của từng ngành sản xuất (thể hiện qua yếu tố chi phí). Cụ thể, năm 1952 khu vực
sản xuất thứ nhất (nông, lâm, thủy sản) chiếm 22,6%, sau đó ngày càng giảm, đạt
14,6% năm 1960 và 9,9% năm 1968. Ngược lại, khu vực sản xuất thứ hai (khai mỏ,
công nghiệp chế tạo, xậy dựng, điện lực - hơi đốt - cấp nước) có tỉ trọng ngày càng
tăng từ 40% năm 1952 đã đạt 45% năm 1960 và lên 47% vào năm 1968. Còn khu vực
sản xuất thứ ba (giao thông vận tải, bưu điện, thương nghiệp, dịch vụ) có sự gia tăng
18
không lớn 39% năm 1952, 40% năm 1960 và 44% năm 1968. Khi xem xét tỉ trọng lực
lượng lao động của từng ngành sản xuất, Côlin Clác nhận thấy cùng với sự phát triển
kinh tế tỉ trọng của khu vực sản xuất thứ nhất giảm, còn khu vực sản xuất thứ hai và ba
luôn gia tăng. Tốc độ phát triển cơng nghiệp bình qn hàng năm từ 1950 – 1960 là
15,9% gấp 6 lần Mĩ, hơn 5 lần Anh, xấp xỉ 3 lần Pháp và gần gấp đôi Tây Đức. Giá trị
tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 4,1 tỷ USD năm 1950 lên 56,4 tỷ USD năm 1969.
Công nghiệp chế tạo phát triển rất mạnh. Chỉ trong mười năm (1960 – 1970), những
sản phẩm chủ yếu của Nhật Bản đều tăng 5 – 6 lần hay thậm chí gần 20 lần như ngành
sản xuất ô tô du lịch. Đặc biệt là thời kì 1960 – 1970, cơng nghiệp chế tạo tăng 118%
bao gồm các sản phẩm ngành dệt, giấy, hóa chất, các sản phẩm dầu, gốm, sắt, thép,
kim loại màu và máy móc. “Sản lượng thép tăng từ dưới 10 triệu tấn dầu thập niên
1950 tăng lên 100 triệu tấn trong vịng 15 năm. Nhìn chung qua các năm từ 1952 –
1973 tổng sản phẩm quốc dân của từng ngành nghề đều có sự chuyển dịch. Sự tác
động này nó ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Nhật Bản, làm nền kinh tế Nhật Bản
chuyển từ nông lâm ngư nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ.
Năm 1960, Nhật Bản đứng thứ 5 về sản lượng máy móc, thiết bị điện, đến năm
1963 đã vươn lên hàng thứ 2, chỉ kém Mĩ. Về sản xuất thiết bị điện tử, ngay từ năm
1967, Nhật đã chiếm vị trí thứ 2 thế giới với giá trị sản lượng gần bằng 1/4 của Mĩ,
nhưng ở một số thiết bị điện tử như radio, tivi, bóng bán dẫn của Nhật đã thuộc Mĩ.
Trong ngành chế tạo ơ tơ và đóng tàu biển, Nhật cũng đạt được những tiến vượt
bậc. Năng lực sản xuất ô tô của Nhật gấp 100 lần so với trước chiến tranh, năm 1967
vươn lên hàng thứ 2 sau Mĩ. Riêng ngành đóng tàu thì Nhật liên tục dẫn đầu trên thế
giới.
19
Bảng 4. Sự thay đổi tỉ trọng cấu thành của giá trị sản phẩm
trong công nghiệp chế tạo
1951
15,68
29,02
3,45
4,10
1955
19,04
25,91
5,37
4,21
1960
18,85
12,23
4,11
5,49
1965
16,91
10,59
4,61
6,18
Đơn vị: %
1970
12,34
7,87
4,36
5,74
Các
ngành
công
nghiệp
nhẹ
Các
ngành
công
nghiệp
nặng
1. Chế biến thực phẩm
2. Sản phẩm tơ sợi
3. Đồ gỗ
4. Giấy – In ấn – Xuất bản
5. Hóa chất 6. Sản phẩm 7,37
dầu mỏ
0,99
7. Sản phẩm than đá
2,01
8. Đồ gốm, sản phẩm từ đá 2,63
9. Giang – Thép
18,12
10. Sản phẩm kim loại
5,73
8,22
1,59
1,32
2,81
13,29
5,65
9,66
2,50
0,80
2,72
14,46
5,27
10,34
3,04
0,73
3,02
12,34
6,29
9,3
3,04
0,83
3,42
14,48
7,23
Các
ngành
cơng
nghiệp
cơ khí
Tổng
cộng
11. Máy thơng dụng
12. Máy điện
13. Máy vận tải
14. Máy chính xác
3,62
2,26
4,21
0,81
4,21
2,88
4,26
1,23
8,14
7,27
7,39
1,12
8,13
7,01
9,32
1,47
10,68
9,79
9,78
1,14
100
100
100
100
100
Nguồn: Kaneko Yukio (1992), Kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.19.
Bảng 4 chỉ rõ xu hướng giảm mạnh tỉ trọng của nhóm ngành cơng nghiệp nhẹ
qua các năm. Năm 1951 tỉ trọng ngành công nghiệp nhẹ chiếm 52,25% nhưng đến
năm 1970 tỉ trọng của nhóm này giảm mạnh xuống cịn 30,31%. Nhóm ngành cơng
nghiệp nặng tăng nhẹ qua các năm từ 1951 đến 1970. Năm 1951 nhóm các ngành cơng
nghiệp nặng chiếm 36,85% và đến năm 1970 nhóm này tăng lên 38,3%. Nhóm 34
ngành cơng nghiệp cơ khí tăng nhanh qua các năm từ 10,9% năm 1951 và đạt 31,39%
năm 1970. Như vậy chính sự cơng nghiệp hóa của ngành cơng nghiệp nặng và cơng
nghiệp cơ khí đã là động lực cho sự phát triển kinh tế của Nhật Bản.
2.2.2. Trong lĩnh vực Nông nghiệp
Tốc độ phát triển nông nghiệp của Nhật Bản cũng tăng nhanh hơn so với các
nước tư bản tiên tiến: từ 1950 – 1960, Nhật tăng 3,8%, Pháp 2,8%, Tây Đức 2,4%, Mĩ
1,3%; từ 1960 – 1969: Nhật 3,7%, Pháp 2,3%, Tây Đức 2%, Mĩ 1,3%.
Nông nghiệp Nhật Bản phát triển theo hướng điện khí hóa, cơ giới hóa, thủy lợi
hóa, hóa học hóa và tăng năng suất. Ngành trồng trọt phát triển cao, chủ yếu là trồng
20