ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------
Đề tài:
HIỆN TƯỢNG GIAO THOA NGÔN NGỮ TRONG TIẾNG VIỆT.
TIẾNG VIỆT TRONG VIỆC TIẾP NHẬN VÀ ĐỒNG HĨA CÁC
TỪ NGỮ NƯỚC NGỒI
Học phần:
Ngơn ngữ học xã hội
Đà Nẵng, 2021
1
CHƯƠNG 1:
HIỆN TƯỢNG GIAO THOA NGÔN NGỮ TRONG TIẾNG VIỆT
1.1. Khái niệm của giao thoa ngôn ngữ
Giao thoa là hệ quả của sự tiếp xúc trực tiếp giữa các ngôn ngữ, là hiện tượng
nảy sinh trong xã hội đa ngữ. Thuật ngữ giao thoa dùng trong ngôn ngữ học để chỉ
khi hai hoặc hơn hai ngôn ngữ tiếp xúc với nhau ở các cá thể hay cộng đồng thì hệ
thống ngôn ngữ này sẽ chịu ảnh hưởng của hệ thống ngôn ngữ khác tạo nên sự lan
tỏa, tiếp biến và chuyển thành các hiện tượng như mô phỏng, vay mượn.
Trong khoa học xã hội, đặc biệt là ngôn ngữ học thì khái niệm này được hiểu
theo nghĩa: Giao thoa là một sự đi chệch hướng khỏi tiêu chuẩn ngôn ngữ chung.
Giao thoa ngôn ngữ là sự lệch chuẩn về ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp trong tiếp
xúc của ngôn ngữ bởi một ngôn ngữ khác.
Giao thoa chỉ xảy ra trong các ngơn ngữ có quan hệ tiếp xúc trực tiếp với nhau
(tức là khi các ngôn ngữ tiếp xúc gián tiếp-khơng có mơi trường đa ngữ thì sẽ khơng
có giao thoa).
1.2. Các bình diện nghiên cứu giao thoa ngơn ngữ
Giao thoa ngôn ngữ trong môi trường đa ngữ được nghiên cứu trên ba bình
diện là bình diện cấu trúc-hệ thống, bình diện giao tiếp, bình diện ngơn ngữ văn hóa.
1.2.1. Bình diện cấu trúc - hệ thống:
Giao thoa dù ở góc độ cá nhân hay cộng đồng thì hiện tượng xảy ra dễ quan
sát nhất là hiện tượng lệch chuẩn của ngôn ngữ thứ hai dưới tác động của tiếng mẹ
đẻ, cũng có khi là hiện tượng lệch chuẩn của tiếng mẹ đẻ dưới tác động của ngôn ngữ
thứ hai ở những người đa ngữ. Giao thoa dùng để chỉ hiện tượng tác động qua lại giữ
cấu trúc và các yếu tố của cấu trúc của hai hoặc hơn hai ngôn ngữ trong môi trường
đa ngữ.
Mối tương quan giữa cấu trúc và các yếu tố trong cấu trúc của hai hoặc hơn hai
ngôn ngữ, sự ảnh hưởng, xâm nhập lẫn nhau qua các bình diện như ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp.
a) Thứ nhất là bình diện ngữ âm, sự giao thoa thể hiện ở nhiều mặt.
Giao thoa thể hiện ở một số du nhập âm vị hoặc tổ hợp âm vị.
Hệ quả giao thoa ngữ âm trở thành như một sự thay thế.
Ví dụ: Với những âm khó phát âm chính xác thì người nói ngơn ngữ khác sẽ
lấy cách phát âm gần với ngơn ngữ của mình để thay thế. Người việt thường phát âm
2
2 âm cuối /z/ và /s/ của tiếng anh khá giống nhau nên họ thường phát âm thành âm
/s/. Không chỉ có hai âm đó mà cịn có những âm khác của thiếng anh được người
việt phát âm theo kiểu giao thoa.
b) Thứ hai bình diện từ vựng:
Giao thoa được thể hiện ở sự mượn từ, tạo từ ngữ mới cho một ngôn ngữ bằng
yếu tố của ngôn ngữ giao thoa và sự chuyển di ngữ nghĩa của từ.
Ví dụ: tiếng Anh Cổ thì chịu ảnh hưởng của tiếng Pháp nên đã thay đổi và
chuyển dần thành tiếng Anh trung cổ. Tiếng Anh dần bị đồng hóa về âm đọc, điều đó
làm cho người đời sau này sử dụng khơng cịn có thể nhận mặt thật của chúng (ví dụ
như state, nation, people, country,…)
Trong đó biểu hiện rõ nhất là sự mượn để tạo ra từ mượn.Tiếng anh còn mượn
một số từ của nước Pháp.
Ví dụ: tiếng anh cịn mượn một số yếu tố tạo từ của tiếng Pháp như là hậu tố
“ess” thuộc về nữ để tạo các từ như “host-hostess: nữ chủ nhân”, “actor-actress: nữ
diễn viên”, “poet-poetess”: nữ thi nhân,…
Trong tiếng Việt, diễn ra sự mượn từ tiếp nhận ngơn ngữ khác vào tiếng Việt.
Nhưng nó khơng diễn ra đơn giản mà các từ mượn phải được biến đổi theo quy luật
của Tiếng Việt về các mặt chữ viết, ngữ âm, ngữ nghĩa…Những âm mà tiếng Việt
khơng có sẽ bị biến đổi chuyển thành cách phát âm gần giống tiếng Việt hoặc bị bỏ
qua.
Ví dụ: Trong tiếng Pháp “poupée” /pupe/ tiếng Việt được phiêm âm là “búp
bê”; hoặc từ “valise” /valiz/ được phiên âm là “va li”.
c) Thứ ba bình diện ngữ pháp:
Giao thoa được thể hiện ở mặt tác động về mặt ngữ pháp giữa các ngôn ngữ
khi xảy ra hiện tượng giao thoa giữa chúng.
Ví dụ: Khi một số người Bắc Âu du nhập vào Anh sẽ tạo ra sự tiếp xúc ngôn
ngữ giữa Bắc Âu và Anh tạo ra hệ quả của sự giao thoa ngơn ngữ. Đó là tiếng Anh
mượn nhiều từ của ngơn ngữ Bắc Âu, mặt khác thì ngữ pháp tiếng Anh du nhập của
Bắc Âu.
Hệ quả của sự giao thoa về cú pháp thường xảy ra ở người song ngữ là chuyển
mơ hình câu của ngơn ngữ này sang làm mơ hình câu của ngơn ngữ kia hoặc làm mơ
hình của ngơn ngữ này để giải thích cho ngơn ngữ khác.
3
Ví dụ: Trong tiếng Việt xuất hiện một mơ hình câu song dụng có nguyên nhân
từ giao thoa với tiếng Anh.
+ Anh ấy đến từ Đà Nẵng
+ Anh ấy từ Đà Nẵng đến.
Và một số mơ hình của tiếng Anh như “nói khơng với” trở thành một khẩu hiệu
phong trào như: Nói khơng với bạo lực học đường; Nói khơng với ma túy, ….
1.2.2. Bình diện giao tiếp:
Nghiên cứu trên bình diện giao tiếp khơng nhằm làm sáng tỏ các cấp độ khác
nhau của cấu trúc ngôn ngữ mà nhằm làm sáng tỏ tồn bộ những hiểu biết về từng
ngơn ngữ cụ thể hoặc nhóm ngơn ngữ để có thể sử dụng chúng trong giao tiếp,
truyền đạt điều mình muốn thể hiện cho người khác biết và ngược lại. Điều này
tương ứng sẽ thực hiện được tối đa chức năng xã hội của ngơn ngữ.
Giao thoa ở bình diện giao tiếp là hiện tượng lệch chuẩn trong các phát ngôn:
ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng hoặc ngữ nghĩa hoặc tất cả. Mức độ lệch chuẩn quyết
định hiệu quả cuộc giao tiếp.
Ví dụ: + Một du khách người nước ngồi đến Việt Nam, khi giao tiếp với cô
bán hàng anh ta hỏi: How old are you?(Bạn bao nhiêu tuổi). Nhưng cô ấy lại trả lời:
Fine!Thanks.
+ Trong một buổi trao giải, Hari Won được mời lên sân khấu công bố
giải thưởng dành cho Châu Bùi. Nhưng Hari Won đã kéo dài âm cuối Châu Bùi ,
khiến nhiều người nghe thành cụm từ nhạy cảm.
Nếu sự lệch chuẩn diễn ra ở cấp độ cộng đồng thì có thể dẫn đến hình thành
biến thể và rất có thể tạo nên biến thể mới là hiện tượng tiếng bồi.
=> Giao thoa ở bình diện cấu trúc là thuộc về ngôn ngữ học cấu trúc, giao thoa
ở bình diện giao tiếp là thuộc về phạm vi ngơn ngữ học xã hội. Ở bình diện cấu trúc
là sự tương tác giữa các yếu tố cấu trúc giữa hai ngôn ngữ, dẫn đến sự ảnh hưởng lẫn
nhau như trên góc độ(âm vị, hình thái học, ngữ nghĩa…). Ở bình diện giao tiếp là sự
tương tác trong giao tiếp mang tính cộng đồng. Tóm lại, cả hai bình diện trên đều có
quan hệ mật thiết với nhau. Như vậy, hiện tượng giao thoa ở các cá nhân đa ngữ sẽ
tác động đến hiện tượng đa ngữ xã hội.
1.2.3. Bình diện ngơn ngữ văn hóa của giao thoa ngơn ngữ:
Giao thoa ngơn ngữ cũng chính là q trình giao thoa lan tỏa, tiếp xúc văn hóa.
Nếu cho rằng, tiếp xúc ngơn ngữ là tiếp xúc văn hóa thì giao thoa ngôn ngữ cũng
4
chính là giao thoa văn hóa. Khái niệm “giao thoa ngơn ngữ văn hóa” là hệ quả của
q trình tiếp xúc ngơn ngữ văn hóa. Bên cạnh những đặc điểm riêng giữa tiếp xúc
ngơn ngữ và tiếp xúc văn hóa thì chúng có những điểm giao nhau khó có thể tách rời.
Ngôn ngữ dân tộc vừa là linh hồn vừa là tấm gương phản chiếu văn hóa của dân tộc
đó. Vì thế những phát ngơn đều có hình ảnh văn hóa, tùy vào mức độ từ cao đến
thấp: giao thoa ngơn ngữ văn hóa tồn phần và giao thoa ngơn ngữ văn hóa bộ phận.
* Giao thoa ngơn ngữ văn hóa tồn phần xảy ra khi năng lực giao tiếp và khả
năng hiểu biết văn hóa đối với các ngơn ngữ như nhau(năng lực hiểu ngôn ngữ thứ
hai tương đương với tiếng mẹ đẻ).
Ví dụ: Tiếng anh là ngơn ngữ được sử dụng chính thức ở Singapo
* Giao thoa ngơn ngữ văn hóa bộ phận xảy ra khi năng lực và khả năng hiểu
biết văn hóa đối với ngơn ngữ thứ hai mặc dù tốt nhưng chưa bằng ngôn ngữ mẹ đẻ.
Trong trường hợp này ta lại chia làm hai loại: giao thoa ngơn ngữ văn hóa ở mức độ
cao và giao thoa ngơn ngữ văn hóa ở mức độ thấp.
+ Giao thoa ở mức độ cao: thường xảy ra ở những người nhập cư hay có thời
gian sống và làm việc lâu năm mà không phải đất nước của họ.
+ Giao thoa ở mức độ thấp: xảy ra ở những người nhập cư hay có thời gian
sống và làm việc chưa nhiều năm ở cộng đồng vốn không phải của họ. Có những
trường hợp đặc biệt, tuy có thời gian lâu năm nhưng vẫn ở mức độ thấp.
Ví dụ: Thực trạng mù chữ đối với người bản địa ở nước Anh, một số cộng đồng
nhập cư gốc Việt dù ở lâu năm hơn một thập kỉ nhưng vẫn chưa nói được tiếng Anh.
1.3. Hệ quả của sự giao thoa
1.3.1. Sự sai lệch so với chuẩn mực
Dù giao thoa ở bình diện nào thì kết quả của nó là sai lệch so với chuẩn mực
(gọi tắt là sự lệch chuẩn). Sự lệch chuẩn bao gồm lệch chuẩn về ngôn ngữ và lệch
chuẩn về văn hóa.
Sự lệch chuẩn về ngơn ngữ được hiểu là những lỗi về ngôn ngữ do ảnh hưởng
từ ngơn ngữ khác. Chẳng hạn, tiếng Việt có thể nói
VD: Tiếng Việt:
Con chim bay trên bầu trời
Chiếc quạt trên trần nhà
Tiếng Anh
5
The birds fly in the sky
The fan is under the celling.
Đó là do xuất phát điểm quan sát. Trong khi đó, tiếng Anh thì chỉ có thể dùng
“in” (trong) đối với con chim ở trên bầu trời và “under” (dưới) đối với chiếc quạt ở
dưới trần nhà. Sự sai lệch sẽ xảy ra khi người Việt học tiếng Anh hoặc người biết
tiếng Anh học tiếng Việt áp đặt cách dùng của tiếng Việt này vào tiếng Anh hoặc
ngược lại.
Những sai lệch về văn hóa được hiểu là những lỗi về văn hóa do sự ảnh hưởng
từ nền văn hóa khác. Có được nhận xét này là nhờ Lado đã phát triển quan điểm của
Weinreich khi nghiên cứu đối chiếu giữa ngơn ngữ văn hóa của tiếng mẹ đẻ với ngơn
ngữ văn hóa của ngơn ngữ đích.
Theo Lado (1964), khi tìm cách nắm vững ngơn ngữ, văn hóa của ngơn ngữ
khác giống như bản ngữ, các cá thể có xu hướng chuyển các dạng thức, ý nghĩa cùng
sự phân bố các dạng thức, ý nghĩa của ngơn ngữ và văn hóa bản ngữ sang bản ngữ và
văn hóa nước ngồi (cả trong lúc sản sinh lời nói và ứng xử trong nền văn hóa đó lẫn
trong lúc tiếp thụ ngơn ngữ)
VD:
Khi giao tiếp ngôn ngữ, người Việt luôn sử dụng từ xưng hô, bởi cách xưng hô
thể hiện thái độ và nét văn hóa ứng xử của người Việt.
Nét văn hóa này đã ảnh hưởng đến người Việt khi học tiếng Hán khi họ lạm
dụng cách sử dụng từ xưng hô trong giao tiếp tiếng Hán, ngược lại, đối với người
Trung Quốc lại bỏ qua việc sử dụng từ xưng hô khi giao tiếp tiếng Việt
VD:
Mời anh vào!
Mời anh uống nước!
Anh uống nước nhé!
Anh uống nước ạ!
Ngược lại sinh viên Trung Quốc thường có cách nói tiếng Việt trống khơng
VD:
Thầy giáo hỏi:
-Tết này em có về q khơng?
6
Sinh viên TQ trả lời:
-Không! Mới về rồi. Ở lại chơi Việt Nam
Thầy giáo hỏi:
-Từ này em đã biết chưa? Chắc là chưa học?
Sinh viên TQ trả lời:
-Đúng rồi. Chưa nghe thấy. Mới lắm.
1.3.2. Chuyển di
Chuyển di (transfer) là một sự lệch chuẩn thường thấy do giao thoa gây ra. Đó
là do ảnh hưởng xuất phát từ sự giống và khác nhau giữa ngơn ngữ đích và bất kì
ngơn ngữ nào đã được thụ đắc chưa hồn hảo trước đó.
Có hai loại chuyển di: chuyển di tích cực và chuyển di tiêu cực.
Chuyển di tích cực là sự chuyển di tạo thuận lợi cho việc tiếp thu ngơn ngữ
đích. Đây là hiện tượng chuyển di những hiểu biết và kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ
vào quá trình học một ngoại ngữ, nó giúp cho việc học ngoại ngữ trở nên dễ dàng
hơn, bởi có sự giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngơn ngữ cần học.
VD: Trên về bình diện chữ cái:
Chữ quốc ngữ Việt Nam được xây dựng trên hệ thống chữ Latinh. Đó là một
thuận lợi cho ngươi học khi tiếp cận tiếng Anh vì người học sẽ phát âm dễ dàng,
nhanh chóng như các âm (b), (k), (l), (m), (n), (s)
Trên bình diện câu:
Xét về loại hình trật tự từ thì tiếng Anh và tiếng Việt có cùng chung loại hình
đối với thành phần câu, đó là loại hình: S-V-O.
VD: Tiếng Viêt : Tơi u
ban.
S
V
O
Tiếng Anh:
I
love
you.
S
V
O
Chuyển di tiêu cực là sự chuyển di gây khó khăn cho việc tiếp thu ngơn ngữ
đích. Đây là hiện tượng thường gây cản trở và làm chậm quá trình học tập do áp
dụng khơng thích hợp những phương tiện, cấu trúc, quy tắc trong tiếng mẹ đẻ vào
quá trình học ngoại ngữ, làm cho việc sử dụng ngơn ngữ đó sai lệch khác với chuẩn
ngơn ngữ đích. Chuyển di tiêu cực được thực hiện ở mọi cấp độ và bình diện ngôn
ngữ.
7
Tiếng Anh là ngơn ngữ biến hình cịn Tiếng Việt là ngơn ngữ đơn lập nên xét
về bình diện từ loại thì giữa chúng khơng có sự tương đồng. Một số điểm khơng
tương đồng đó là Tiếng Anh có tiêu chí biến đổi hình thái từ cịn Tiếng Việt khơng có
tiêu chí biến đổi hình thái từ. Hơn nữa, Tiếng Anh có một số từ loại mà Tiếng Việt
khơng có như trạng từ (chỉ thể cách) và mạo từ.
VD: Cô ấy giỏi = She is good
Cô ấy nấu ăn giỏi = She cooks well.
Ở hai ví dụ trên Tiếng Việt từ “giỏi” đóng vai trị cả hai chức năng cịn Tiếng
Anh thì khác biệt (good và well).
Về động từ nối (Linking verb), “to be” trong tiếng Việt có nghĩa “thì, là, ở”.
Tuy nhiên trong tiếng Việt “là” hiếm khi được sử dụng để nối chủ ngữ với tính từ
trong câu, do đó người Việt học tiếng Anh thường mơ phỏng lối nói trên để áp dụng
vào tiếng Anh.
VD: Thay vì viết She is hungry học sinh lại viết She hungry (Cơ ấy đói).
Ngun nhân sự chuyển di: Người đa ngữ thường xun áp đặt thói quen
ngơn ngữ văn hóa trong q trình giao tiếp mà biểu hiện đó là cách sử dụng từ ngữ,
lối diễn đạt. Sự áp đặt này thường xảy ra theo chiều từ ngơn ngữ văn hóa nguồn sang
ngơn ngữ văn hóa đích.
VD: Người Việt nói tiếng Anh, tiếng Hán sẽ áp đạt thói quen ngơn ngữ văn hóa
Việt sang tiếng Anh, tiếng Hán.
Hoặc ngược lại cũng có thể xảy ra theo chiều từ ngơn ngữ văn hóa đích sang
ngơn ngữ văn hóa nguồn
VD: Người Việt khi học tiếng Anh một thời gian dài, sẽ áp đặt thói quen ngơn
ngữ văn hóa Anh sang ngơn ngữ văn hóa Việt.
Chính vì thế mà có ý kiến cho rằng, những người giỏi ngoại ngữ thường hay
mắc lỗi xuyên văn hóa.
Sự chuyển di khơng chỉ dừng lại giữa các ngơn ngữ mà cịn xảy ra trong nội bộ
một ngơn ngữ. Vì thế chuyển di cịn có thể chia ra làm hai loại:
Chuyển di liên ngôn và chuyển di nội ngôn
Chuyển di liên ngôn là sự chuyển di giữa các ngôn ngữ và là nguyên nhân gây
ra lỗi ngôn ngữ, văn hóa.
Chuyển di nội ngơn là ngun nhân dẫn đến lỗi tự đích và lỗi suy diễn.
8
1.3.3. Lỗi do giao thoa ngôn ngữ trong tiếng việt
Giao thoa là hệ quả của sự tiếp xúc trực tiếp của các ngơn ngữ. Nói cách
khách giao thoa là hiện tượng sinh trong xã hội đa ngữ
Lỗi ngôn ngữ là những lỗi hiển thị trên các bình diện ngữ âm, ngữ pháp, từ
vựng – ngữ nghĩa và giao tiếp. Theo S.P.Corder những lỗi này có thể xảy ra ở ba
trường hợp hay giai đoạn nhưu sau:
Khi người học sử dụng ngôn ngữ chưa ý thức được sự tồn tại của một quy tắc
nào trong ngơn ngơn ngữ đích, đây là lỗi trước hệ thống. Điều này cũng có nghĩa là
người học sử dụng khơng thể nào giải thích được tại sao lại như vậy.
Người sử dụng đã nhận ra được quy tắc nhưng đó là quy tắc sai, đây là lỗi hệ
thống. Điều này cũng có nghĩa là người học sử dụng có thể nhận ra lỗi của mình
nhưng khơng sửa được
Khi người học sử dụng biết được chính xác quy tắc nhưng lại sử dụng không
nhất quán, đây là lỗi hệ thống. Điều này có nghĩa là người học sử dụng có thể nhận ra
và giải thích các lỗi một cách bình thường
Lỗi ngữ âm có thể xảy ra ở các mức độ khác nhau, từ việc phát các âm rời đến
phát từng âm tiết rồi đên câu và đến phong cách giao tiếp:
Ảnh hưởng từ phía ngữ âm của tiếng mẹ đẻ, người ta thường dựa vào những
âm gần giống nhau để phát âm, và như bậy làm cho các âm bị lệch chuẩn và gắn với
các âm tiếng mẹ đẻ. Vì Tiếng Việt là ngơn ngữ âm tiết tính, có thanh điệu nên khơng
đọc nối các âm tiết, trọng âm khá mờ nhạt, do đó khi sử dụng tiếng anh người Việt
rất dễ bỏ qua hiện tượng đọc nối âm tiết, bỏ qua trọng âm, ngữ điệu. Ảnh hưởng từ
ngoại ngữ với tiếng mẹ đẻ cũng không phải là khơng có. Lỗi thường xảy ra khi trình
độ ngoại ngữ đã đạt ở mức khá hoàn hảo và người đa ngữ như là cố tình tạo sự lệch
chuẩn cho tiếng mẹ đẻ.
Lỗi ngữ pháp xảy ra do giao thoa ngữ pháp giữa các ngôn ngữ của người đa
ngữ. Khi đặc điểm ngữ pháp giữa bản ngữ và ngôn ngữ khác thụ đắc khác nhau càng
nhiều thì lỗi giao thoa ở những người đa ngữ này càng lớn.
Trong mỗi ngơn ngữ đều có những cấu trúc ngữ pháp mang đặc thù của ngơn
ngữ đó. Vì thế khi sử dụng dễ gây lỗi.
Lỗi giao thoa từ vựng – ngữ nghĩa là do q trình chuyển đi ngơn ngữ theo
hướng tiêu cực. Thường thấy là hiện tượng sử dụng sai lệch từ đồng nghĩa, việc “ tự
tạo” từ mới cũng như không thấy hết sự thay đổi của nghĩa từ.
Về sử dụng sai lệch từ đồng nghĩa thường thấy là hiện tượng không phân biệt
được những nét khác biệt tinh tế cùng sự phân bố kết kết hợp giữa chúng.Nhiều khi,
lỗi giao thoa do sự nhận biết sai về từ đồng nghĩa. Ví dụ, trong tiếng Việt, chạy là từ
đa nghĩa: với từ loại là động từ, chạy có 12 nghĩa, chạy có thể sử dụng cho đồng hồ
đang chạy ( chạy nhanh, chạy chậm, chạy đúng và trái nghĩa là “chết” tức là đứng
9
im, không chạy). Cách dùng này tiếng Việt đã ảnh hưởng sang cách sử dụng tiếng
Anh của cười Việt: The watch runs very well ( đồng hồ này chạy rất tốt) trong khi đó,
tiếng Anh phải là The watch works very well.
Việc tạo từ mới là hậu quả của sự giao thoa áp đặt tư duy từ ngôn ngữ này sang
ngôn ngữ khác của người đa ngữ khi chưa hiểu thấu đáo về đặc điểm từ vựng của
từng ngôn ngữ. Theo cách nói của các nhà tâm lí học, đó là lỗi sáng tạo.
Không thấy hết sự thay đổi nghĩa của các từ mượn là nguyên nhân gây ra lỗi
giao thoa. Ví dụ, do khơng thấy được hết ảnh hưởng của âm Hán Việt cũng như sự
thay đổi của các từ Hán có cách đọc Hán Việt đã trở thành từ Hán Việt nên người
Việt khi nói tiếng Trung Quốc cũng như người Trung Quốc nói tiếng Việt cũng
thường mắc lỗi này.
Khác với lỗi về ngôn ngữ lỗi về văn hóa là do giao thoa văn hóa gây ra. Khi bề
mặt ngơn ngữ thì hồng tồn đúng, nhưng ẩn đằng sau ngơn ngữ là lỗi văn hóa mà có
thể gây sốc trong giao tiếp (cịn gọi là sốc văn hóa). Điều này thể hiện rõ nhất sự
khác biệt về văn hóa Tây. Nhiều khi, nét văn hóa chính là thói quen trong giao tiếp
1.3.4. Từ lệch chuẩn dẫn đến biến thể cộng đồng
Trong giao tiếp hằng ngày, cả trên truyền hình, mạng xã hội hiện nay, khơng
khó để bắt gặp tình trạng “tiếng ta pha tiếng Tây”, dùng lẫn lộn giữa ngơn ngữ nói và
viết. Ngơn ngữ xã hội là chú trọng tới sự lệch chuẩn của cả cộng động do giao thoa
gây ra. Nhưng, điều lí thú là ở chỗ, sự sai lệch lại được cả cộng đồng chấp nhận và
lâu dần sẽ trở thành biến thể. Khơng ít các ngơn ngữ hay hình thức ngơn ngữ đã được
hình thành từ đây. Ví dụ: Có thời ta cho rằng, chỉ có người da trắng mới nói được
tiếng Anh chuẩn: Mới đây, cách nói tiếng anh của người Phi Mĩ được coi là một
phương ngữ của tiếng Anh gọi là Black English Vemacular (BEV) hay AfricanAmerican Vemacular Enghlish (AAVE; tiếng Anh bản xứ Phi – Mĩ)…
Có cả những sai khác về ngữ pháp như đôi khi không dùng động từ to be và sử
dụng nhiều dạng phủ định trong một câu. Các biến thể tận cùng chỉ số nhiều và sở
hữu thường bị bỏ.
BEV ảnh hưởng tới người Mĩ da trắng và có nhiều điểm chung với cách nói
của người da trắng ở miền Nam. Ví dụ, từ homies người Phi Mĩ dùng để chỉ người tại
ngôi làng riêng của họ ở Châu Phi nay được một số người Mĩ da trắng dùng như một
từ không nghi thức để chỉ bạn bè. Có sự khác nhau về đặc điểm phát âm giữa người
Phi Mĩ và người Mĩ da trắng ở phía Nam
Đã có nhiều cuộc tranh luận ở Mĩ về việc sử dụng BEV trong trường học. Một
số cho rằng BEV không hay nên không nên dùng trong trường học, họ coi BEV là
một biểu hiện củ dốt nát, thiếu giáo dục. Tuy nhiên, số người nghĩ như vậy đã giảm
dần. Trước hết, theo luật dân quyên ban hành 1960 BEV được đưa vào trường học.
Một số người tin rằng, một người học giỏi nhất nếu họ sử dụng tốt ngôn ngữ họ biết
10
và giáo viên tôn trọng BEV sẽ được yêu mến hơn khi giúp sinh viên Phi Mĩ học. Một
sô khác cho rằng, người Phi Mĩ muốn tìm được việc làm thì cần pahir sử dụng được
dạng tiếng Anh của người da trắng và trường học cần giúp họ.
Theo “PGS-TS Phạm Văn Tình” muốn nhìn nhận, đánh giá đúng vấn đề tiếng
Việt hiện nay liệu có đang “lệch chuẩn”, chúng ta phải có cái nhìn biện chứng, tồn
cục. Việc ngơn ngữ có sự lệch lạc là đương nhiên, ngơn ngữ nào cũng có điều đó do
bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như vùng miền, sự biến thể, hay xu hướng tồn cầu
hóa.
Xét về phương diện vùng miền, Việt Nam có rất nhiều vùng phương ngữ. Việc
một ngơn ngữ chung chấp nhận yếu tố vùng miền là việc rất bình thường, không chỉ
ở nước ta mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều như vậy.
Ví dụ: Người miền Trung nặng những âm ‘tr’, ‘r’, ‘s’; trong khi tiếng Hà Nội
lại lược bỏ 3 âm quặt lưỡi khó nói đó. Việc lược bỏ khơng ảnh hưởng đến giao tiếp
bởi chính âm (nói) và chính tả (viết) trong tiếng Việt có sự khác nhau. Một từ có thể
nhiều cách phát âm, đồng thời lại có nhiều nghĩa. Để hiểu đúng từ phải dựa vào ngữ
cảnh trong giao tiếp và mặt chữ trong cách viết. Do đó, khơng thể lấy sự ảnh hưởng
của phương ngữ, đọc những âm như ‘tr’ – ‘ch’, ‘r’ – ‘d’ – ‘gi’ giống nhau, hay nói cụ
thể hơn là lấy sự sai biệt của chính âm để bắt bẻ tiếng Việt là đang “lệch chuẩn” thì
khơng hợp lý.
11
CHƯƠNG 2:
TIẾNG VIỆT TRONG VIỆC TIẾP NHẬN VÀ ĐỒNG HÓA CÁC TỪ
NGỮ NƯỚC NGOÀI.
2.1. Hiện tượng từ vay mượn trong tiếng việt
2.1.1. Nguồn gốc của từ vay mượn trong tiếng Việt
Từ mượn là từ vay mượn từ tiếng nước ngoài (ngôn ngữ cho) để làm phong
phú thêm cho vốn từ vựng của ngôn ngữ nhận. Nước ta đã trải qua hơn 1000 năm
Bắc thuộc, hơn 100 năm bị đế quốc thực dân xâm lược nên ít nhiều bị ảnh hưởng bởi
văn hóa du nhập trong đó có chữ viết. Gần như tất cả các ngơn ngữ trên thế giới đều
có từ mượn, vì một ngơn ngữ vốn dĩ khơng có đủ vốn từ vựng để định nghĩa cho tất
cả các khái niệm và việc chuyển ngữ từ vựng từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác
để là xu thế tất yếu trong quá trình hội nhập của một nền văn hóa. Việc tạo mới và sử
dụng các từ mượn cũng cần hết sức quan tâm để tránh làm mất đi bản sắc ngôn ngữ
nhận, đánh mất sự đa dạng của ngơn ngữ; để tránh điều đó chỉ nên sử dụng từ mượn
trong một ngơn ngữ khi ngơn ngữ đó khơng có từ thay thế hoặc từ thay thế quá dài và
phức tạp.
2.1.2. Vai trò của từ vay mượn trong tiếng Việt
Sự du nhập của các nền văn hóa khác vào nước ta sẽ làm cho các giá trị văn
hóa thay đổi một cách mạnh mẽ kèm theo sự thay đổi các lĩnh vực khác như kinh tế,
chính trị, xã hội, đã góp phần làm phong phú vốn từ của tiếng Việt
Các sự vật hiện tượng mới, hiện đại được du nhập vào nước ta trong khi Tiếng
Việt vẫn chưa thực sự hồn thiện địi hỏi phải có những ngơn ngữ diễn đạt mới phù
hợp hơn và từ mượn ra đời như một lẽ tất yếu. Từ mượn được vay mượn từ ngơn ngữ
nước ngồi nhưng được Việt hóa về hình thức chữ viết, ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ
pháp nhằm diễn tả một cách dễ dàng, đầy đủ các sự vật hiện tượng mới mà Tiếng
Việt chưa diễn tả được một cách trọn vẹn. Từ mượn có vai trị nhất định trong tiếng
Việt, nó bổ sung những từ cịn thiếu, tạo ra một lớp từ có sắc thái nghĩa khác với từ
đã có trong tiếng Việt những lớp từ này thể hiện sự trang trọng, khái quát
12
Đồng thời, từ mượn giúp cho vốn từ của Tiếng Việt trở nên đa dạng, phong phú
và phù hợp hơn với xu thế hội nhập thời đại.
2.1.3. Phân loại từ mượn trong tiếng Việt
2.1.3.1. Từ mượn tiếng Hán
2.1.3.1.1 Từ tiếng Hán và từ Hán-Việt
Quá trình tiếp xúc lâu dài với tiếng Hán đã để lại trong tiếng Việt một tỉ lệ lớn
các từ vay mượn của tiếng Hán, gọi là từ gốc Hán hay từ Hán-Việt. Theo các nhà
nghiên cứu thì khoảng hơn 60% số từ của tiếng Việt là từ vay mượn của tiếng Hán.
Tuy nhiên, các từ tiếng Hán khi đi vào tiếng Việt đã được Việt hóa về cách đọc cho
phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt. Đó gọi là cách đọc Hán-Việt. Cách đọc
này đã được hoàn thiện từ khoảng thế kỉ X- XI và được sử dụng ổn định cho đến nay.
Điều đó có nghĩa là các từ vay mượn của tiếng Hán được người Việt đọc theo âm cổ
– âm tiếng Hán đời Đường – có sự Việt hóa ít nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ
âm tiếng Việt. Trong khi đó tại Trung Quốc, trải qua các thời kì khác nhau, cách phát
âm của các từ đã thay đổi nhiều. Điều này giải thích tại sao từ tiếng Trung hiện
đại và từ Hán-Việt có cách đọc khơng giống nhau. Ví dụ: từ dìfēng của tiếng Trung
được người Việt đọc là địa phương.
Mặt khác, các từ gốc Hán trong tiếng Việt cũng có sự khác biệt về nghĩa và
cách sử dụng so với từ tương đương trong tiếng Trung hiện nay. Chẳng hạn, trong
tiếng Việt, từ ngoại ô được dùng để biểu thị ý nghĩa “khu vực bên ngoài thành phố”
nhưng tiếng Trung lại dùng thị giao, thành giao để biểu thị ý nghĩa này. Khơng những
thế, tiếng Việt cịn dùng các yếu tố gốc Hán để tạo ra từ mới chỉ dùng trong tiếng
Việt, ví dụ: tiểu đồn, đại đội, hoặc kết hợp một yếu tố gốc Hán với một yếu tố thuần
Việt để tạo ra từ mới, ví dụ: binh lính, tàu hỏa, đói khổ. Ngồi ra, trong tiếng Việt
cịn có một số từ gốc Hán nhưng khơng đọc theo âm Hán-Việt, ví dụ: rồng –
long; sức – lực, xin – thỉnh, hoặc các từ gốc Hán mượn qua khẩu ngữ, ví dụ: mì
chính, xì dầu
2.1.3.1.2. Mục đích vay mượn từ tiếng Hán
13
Nhìn chung, tiếng Việt vay mượn các từ tiếng Hán để phục vụ cho hai mục
đích:
Thứ nhất: bổ sung những từ cịn thiếu Tiếng Việt thời kì đầu cịn thiếu rất nhiều
từ, nhất là trong các lĩnh vực văn hóa, văn học – nghệ thuật, luật pháp, chính trị, kinh
tế, quốc phòng, giáo dục. Để bổ sung những từ còn thiếu, người Việt một mặt đã tạo
ra một số từ mới trên cơ sở các nguyên tắc cấu tạo từ tiếng Việt, song mặt khác cũng
đã vay mượn một số lượng lớn từ ngữ tiếng Hán. Việc vay mượn các từ ngữ tiếng
Hán đã diễn ra trong một thời gian rất dài, ngay từ khi tiếng Việt còn chưa trở thành
ngôn ngữ độc lập. Tuy nhiên, những từ ngữ vay mượn từ xa xưa của tiếng Hán đã bị
thay đổi nhiều trong tiếng Việt và chúng hoạt động giống như từ thuần Việt nên nhiều
người vẫn nghĩ rằng đó là từ thuần Việt, ví dụ: buồng (phịng), buồn, mây, chè
Vì vậy, khi nói đến từ ngữ gốc Hán trong tiếng Việt, thường người ta nghĩ đến
những từ được vay mượn trong thời kì tiếng Việt đã trở thành ngơn ngữ độc lập và
được đọc theo một nguyên tắc chung giống nhau: đọc theo âm Hán-Việt. Ví dụ:
– Các từ trong lĩnh vực văn hóa: lễ nghi, lễ hội, tơn giáo, giáo phái, văn minh.
– Các từ trong lĩnh vực văn học-nghệ thuật: tiểu thuyết, hội họa, điêu khắc, trữ
tình.
– Các từ trong lĩnh vực luật pháp: hiến pháp, luật sư, tịa án, quy định, hình sự.
– Các từ trong lĩnh vực chính trị: chính phủ, độc lập, phụ thuộc, dân chủ, liên
minh.
– Các từ trong lĩnh vực kinh tế: công nghiệp, tư bản, tỷ giá, chứng khốn.
Có thể thấy rằng, đây chủ yếu là những thuật ngữ khoa học-chuyên môn.
Thứ hai: Tạo ra một lớp từ có sắc thái nghĩa khác với từ đã có trong tiếng Việt
Do được sử dụng nhiều nên từ ngữ tiếng Việt thường có đặc điểm của từ ngữ
giao tiếp hàng ngày. Điều đó làm cho chúng không thể dùng để biểu thị các sắc thái
14
nghĩa trang trọng hay khái quát. Để khắc phục tình trạng này, tiếng Việt vay mượn
một số từ ngữ tiếng Hán có nghĩa cơ bản giống với từ tiếng Việt nhưng được bổ sung
thêm một sắc thái nghĩa khác. Điều này làm xuất hiện những cặp từ đồng nghĩa,
trong đó từ thuần Việt và từ Hán-Việt chỉ có sắc thái nghĩa khác nhau.
Ví dụ:
- Từ thuần Việt gây cảm giác thơ tục, ghê sợ hoặc đau đớn cịn từ Hán-Việt tạo
cảm giác lịch sự, trung hịa.
Ví dụ: Từ thuần Việt: chảy máu, chết, nôn
Từ Hán-Việt: xuất huyết, từ trần, thổ
- Từ Hán-Việt tạo ra cảm giác trang trọng hơn từ thuần Việt.
Ví dụ: Từ thuần Việt: cưới nhau, đàn bà, người già
Từ Hán-Việt: hôn nhân, phụ nữ, phụ lão
2.1.3.2. Từ mượn tiếng Ấn-Âu
2.1.3.2.1. Lịch sử vay mượn từ ngữ Ấn-Âu
Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp vào nửa cuối thể kỉ XIX và thời kì cai
trị của thực dân Pháp kéo dài trên 80 năm. Trong thời kì đó, tiếng Pháp đã được đưa
vào giảng dạy và sử dụng trong các trường học và là ngơn ngữ chính thức của nhà
nước thuộc địa. Do vậy, các từ ngữ tiếng Pháp đã xâm nhập vào tiếng Việt khá nhiều,
và thông qua tiếng Pháp, một số từ ngữ của những ngôn ngữ Ấn-Âu khác như tiếng
Anh hay tiếng Nga cũng đi vào tiếng Việt. Tuy nhiên, sự tiếp xúc của tiếng Việt với
các ngôn ngữ Ấn-Âu diễn ra muộn hơn nhiều so với tiếng Hán và một số ngôn ngữ
châu Á khác. Lúc này, tiếng Việt đã tiếp nhận một cách có hệ thống những từ ngữ
tiếng Hán cần thiết để bổ sung cho vốn từ vựng của mình, do đó các từ ngữ Ấn-Âu
chỉ được tiếp nhận một cách lẻ tẻ và thường tập trung vào các lĩnh vực khoa học-kĩ
thuật.
15
Thời kì đầu, tiếng Việt thường khơng tiếp nhận các từ ngữ Ấn-Âu một cách
trực tiếp mà tiếp nhận gián tiếp qua tiếng Hán, do đó các âm Ấn-Âu đều có dáng dấp
của âm Hán-Việt, ví dụ: câu lạc bộ; Nã Phá Luân; Ba Lê; Anh Cát Lợi, Ba Lan .Về
sau, cách tiếp nhận này đã được thay thế bằng cách tiếp nhận trực tiếp hoặc thông
qua tiếng Pháp. Thời gian gần đây, xu hướng tiếp nhận trực tiếp không qua tiếng
Pháp ngày càng trở nên phổ biến. Ví dụ: makéttinh (t. Anh: marketing); cátxê (t.
Anh: cash); sô (t. Anh: show), Vácsava Ngồi việc tiếp nhận hình thức và ý nghĩa
của các từ ngữ Ấn-Âu, tiếng Việt cịn mơ phỏng cấu trúc của một số từ ngữ Ấn-Âu,
khiến cho trong tiếng Việt có những từ ngữ và cách nói có cấu trúc nghĩa giống như
trong các tiếng Ấn-Âu. Ví dụ: chiến tranh lạnh; giết thời gian (t.Pháp); vũ trang tận
răng, đĩa cứng, đĩa mềm (t. Anh); vườn trẻ, nhà văn hóa (t.Nga)
2.1.3.2.2. Mục đích và các lớp từ ngữ Ấn-Âu trong tiếng Việt
Mục đích Tiếng Việt vay mượn từ ngữ Ấn-Âu trước hết là để bổ sung những từ
ngữ còn thiếu mà chủ yếu là những từ ngữ thuộc các lĩnh vực khoa học-kĩ thuật. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, các từ ngữ Ấn-Âu được mượn vào tiếng Việt cịn
nhằm mục đích bổ sung một lớp từ có nghĩa chính xác hơn từ thuần Việt hoặc HánViệt (ví dụ: xúp lơ, mù tạt), nhất là trong lĩnh vực thuật ngữ. Trong một số trường
hợp đặc biệt, nguyên nhân vay mượn từ ngữ Ấn-Âu vào tiếng Việt chỉ là ý thích
mang tính thời thượng (ví dụ: nhạc dance, cátxê)
Các lớp từ ngữ Ấn-Âu trong tiếng Việt Tuy đều là từ ngữ gốc Ấn-Âu nhưng
giữa các từ ngữ này có sự khác biệt về mức độ Việt hóa. Nhìn chung, có thể phân biệt
những lớp từ ngữ Ấn-Âu sau đây:
* Từ được Việt hóa cao độ. Đó là những từ ngữ Ấn-Âu mà xét về hình thức và
cách thức hoạt động khơng khác gì với một từ thuần Việt. Nói chung, đây thường là
những từ ngữ thông dụng, mức độ Việt hóa phải đủ cao để người Việt có thể sử dụng
giống như những từ của tiếng Việt. Có thể nêu ra đây một vài cách Việt hóa từ ngữ
Ấn-Âu như sau:
16
+ Thêm thanh điệu cho các âm tiết, ví dụ: cà phê, vét tông, cà rốt
+ Bỏ bớt phụ âm trong các nhóm phụ âm, ví dụ phanh (frein), gam (gramme),
kem (crème), van (valse)
+ Thay đổi một số âm cho phù hợp với hệ thống ngữ âm tiếng Việt, ví dụ: bốc
(box), ba tê (paté), búp bê (poupée), pê đan (pédall)
+ Rút gọn từ, ví dụ: xăng (essence) ; lốp (enveloppe); săm (chambre à air)
* Từ chỉ được Việt hóa một phần. Thường thì đây là những từ ngữ khoa học –
kĩ thuật thông dụng. Xét trên chữ viết, những từ ngữ này thường được viết các âm
tiết liền nhau hoặc giữa các âm tiết có dấu gạch nối, Ví dụ: xêmina (xê-mi
na), côngtơ (công-tơ), ampe (am-pe), đôping (đô-ping), tuốcbin (tuốc-bin),
comblê
(com plê), phécmơtuya (phéc-mơ-tuya)
* Những từ khơng được Việt hóa hoặc chỉ được Việt hóa rất ít. Đây thường là
những thuật ngữ khoa học-kĩ thuật, cần phải giữ được tính chính xác và tính quốc tế,
đồng thời cũng là những từ có phạm vi sử dụng hẹp. Ví dụ: electron, miliampe,
microphon, automat Đương nhiên, trong những trường hợp cần thiết, người ta còn
phải chuyển tự các từ vay mượn của các ngơn ngữ Ấn-Âu, ví dụ: dicdac (zigzag),
xeemina (seminar)
2.2. Tiếng việt trong việc tiếp nhận và đồng hóa các từ ngữ nước ngồi
2.2.1. Hiện tượng đồng hóa trong tiếng việt
Hiện tượng đồng hóa âm thanh (linguistic assimilation) trong ngơn ngữ rất
thường gặp: từ thanh điệu (điều hòa thanh điệu) cho đến các âm đứng gần nhau, phụ
âm hay nguyên âm, đều có thể ảnh hưởng qua lại - nhất là trong khẩu ngữ. Điều này
khơng làm ta ngạc nhiên vì âm thanh phát ra cũng phải tuân theo một số định luật vật
lí tự nhiên của con người, khi lưỡi và họng ở những vị trí phát âm sao cho trơi chảy
(nói) và thuận tai (nghe). Khuynh hướng đồng hố âm thanh rất rõ nét trong các ngôn
ngữ thuộc loại hịa kết (fusional/inflectional language) hay chắp dính
(agglutinative/synthetic language) như tiếng Anh, Pháp
17
Các trường hợp đồng hoá âm thanh (phụ âm) trong Tiếng Việt: khán phá ~
khám phá; khán bệnh ~ khám bệnh; tẫn liêm ~ tẩm liệm; nớp nớp ~ nơm nớp…v.v…
Đồng hố cũng là hiện tượng thích nghi những xảy ra đối với các âm cùng
loại: nguyên âm – nguyên âm, phụ âm – phụ âm.
Trong tiếng Việt, đồng hoá thường gặp ở các thanh điệu.
Ví dụ: “năm mười” → “năm mươi”
2.2.1. Hiện tượng tiếp nhận ngơn ngữ nước ngồi trong tiếng việt
Quá trình hội nhập và phát triển tất yếu sẽ kéo theo sự tiếp xúc, ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các nền văn hóa, trong đó có ngơn ngữ. Đây cũng là hiện tượng mang tính
phổ biến mà Việt Nam chúng ta cũng không phải và không thể là trường hợp ngoại
lệ. Mặt tích cực là đã góp phần làm phong phú thêm cho kho từ vựng của ngôn ngữ
dân tộc, đặc biệt là những thuật ngữ mới trong các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật;
làm đa dạng hơn các hình thức giao tiếp, và về phương diện nào đó, nó giúp chúng ta
có điều kiện tiếp cận nhanh với những nền văn hóa và văn minh phát triển hơn. Bên
cạnh đó, về văn hóa nói chung, nó cũng có thể gây nên những tác động tiêu cực, đó
là sự xơ bồ, lai căng, thậm chí chủ nhân văn hóa cịn quay lưng lại với văn hóa truyền
thống nếu chủ thể tiếp nhận chưa có được sự chuẩn bị đầy đủ khả năng lựa chọn; về
ngơn ngữ nói riêng, những biểu hiện trong cách nói, cách viết “khác lạ” đã làm mất
đi bản sắc vốn có của tiếng Việt.
2.2.1.1. Về ngôn ngữ ngoại lai
Tiếng Việt của chúng ta ngày nay chứa đựng nhiều từ ngữ tương tự với các từ
ngữ trong nhiều thứ tiếng khác. Tiếng Việt hiện đại còn ảnh hưởng và tiếp nhận
nhiều yếu tố của các ngôn ngữ châu Á và các châu lục khác cũng như các dịng ngơn
ngữ khác, như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hàn, tiếng Nhật... Nếu khơng nhìn nhận
vấn đề một cách biện chứng trên cơ sở thực tiễn lịch sử, văn hóa... thì rất khó xác
18
định đâu là từ bản ngữ, đâu là từ ngoại lai. Có người cho rằng chỉ có thể gọi một cách
hợp lí từ ngoại lai trong một ngơn ngữ nhất định là những yếu tố đã thâm nhập sau
cái thời kì đánh dấu một cách quy ước giai đoạn đầu của ngôn ngữ ấy. Thực tế, vấn
đề xác định thời gian hình thành của một ngơn ngữ dân tộc nào đó là rất phức tạp và
khơng phải bao giờ cũng cho một câu trả lời thỏa đáng. Vì vậy, chúng ta vẫn gặp phải
khó khăn trong phân biệt từ bản ngữ và từ ngoại lai. Nội dung của hai khái niệm này
chỉ có thể xác định một cách tương đối khi xét chúng trong những giai đoạn lịch sử
cụ thể nhất định. Các ngơn ngữ thường có các giai đoạn phát triển kế tiếp nhau, và
mỗi giai đoạn thường bao gồm những kiểu loại các yếu tố: (1) Những yếu tố cũ từ
giai đoạn trước để lại; (2) Những yếu tố mới được tạo ra trên cơ sở yếu tố cũ và yếu
tố mới du nhập vào; (3) Những yếu tố mới du nhập vào từ các ngôn ngữ khác trong
giai đoạn ấy.
2.2.1.2. Thực trạng sử dụng ngôn ngữ ngoại lai của giới trẻ Việt hiện nay
Sự giàu có và trong sáng của tiếng Việt không cho phép dung nạp một cách tùy
tiện các yếu tố ngoại lai. Sự tùy tiện và phần nào là sự kém hiểu biết trong vay mượn
các yếu tố ngơn ngữ nước ngồi trong các hoạt động giao tiếp sẽ tạo nên sự pha tạp,
lai căng, thậm chí lố bịch. Hiện nay, chúng ta dễ dàng bắt gặp những người, mà phần
lớn là giới trẻ có những lối diễn đạt kết hợp cách nói hay viết giữa tiếng ta với tiếng
nước ngoài theo kiểu “nửa nạc nửa mỡ”. Có thể dẫn ra một số trường hợp sau:
2.2.1.2.1. Sử dụng ngơn ngữ ngoại lai có nguồn gốc châu Âu
Khơng ít thanh thiếu niên chúng ta đang có tình trạng sử dụng tùy hứng các
ngơn ngữ có nguồn gốc châu Âu trong giao tiếp bằng tiếng Việt, đặc biệt là tiếng
Anh, tiếng Pháp. Có thể nói, gần đây nó đã trở thành trào lưu trong giới trẻ. Sự tùy
tiện, thiếu ý thức, thiếu hiểu biết, trong nhiều trường hợp đã khơng phù hợp với hồn
cảnh giao tiếp mà tạo ra một sự phản cảm. Giới trẻ thường sử dụng tiếng lóng lai
căng, pha giữa tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp) và tiếng Việt. Hành vi này không những
thể hiện “tài năng” ngoại ngữ khơng đúng lúc mà cịn làm mất đi sự trong sáng của
19
tiếng Việt, gây cảm giác khó chịu cho người tham gia giao tiếp. Họ khơng ngần ngại
nói với tất cả các đối tượng tham gia hội thoại bằng các dạng cấu trúc như:“ok
thầy”,“thank-kiu cô”,“sorry bạn”. Trường hợp cấu trúc phức hợp hoặc nhiều yếu tố
tham gia như câu chẳng hạn, họ thường chọn một yếu tố nước ngoài được cho là
trọng điểm thông báo xen vào cấu trúc Việt ngữ. Chẳng hạn, “trông con bé kute quá”;
“anh ấy handsome thật!”, “mình là fan của anh ấy”, “nhóm ấy tồn bọn chuẩn men”;
“các superstar thích xài mobile loại xịn”, “Idol của tao kìa”, rồi nào là hotboy,
hotgirl, hay có người cịn lên facebook đăng dịng tin nhắn: “cơ ấy là Idol của tao
đấy”, kèm với hình chụp. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, họ còn kết hợp giữa
ngoại ngữ và biệt ngữ nhóm (tiếng lóng) trong cấu trúc lời thoại. Chẳng hạn, “Con
nghiện (điện thoại) lại viêm dạ dày (sắp hết tiền) rồi làm sao gọi cho honey đây”…
Hiện tượng này khơng cịn ở phạm vi giới trẻ mà đã trở thành “hội chứng” của xã
hội. Việc sử dụng từ ngữ ngoại lai theo kiểu vô thức cũng làm cho nhiều đối tượng
“quen” đến mức quên mất cả từ tiếng Việt tương ứng. Chẳng hạn, thay vì nói “tạm
biệt” sẽ là “bye” hoặc “bye bye”; lời xin lỗi đơn giản là “sorry nha!”; cảm ơn cũng
ngắn gọn “thanks”… Ngồi ra, cịn xuất hiện một số “biến chứng” như là hậu phát
minh của song ngữ Anh-Việt. Chẳng hạn việc biến đổi cách phát âm như đe-le-te
(delete), ai-lái-kịt (I like it), cơm-pờ-le-te (complete), thăng-sờ-kiều (thank you),…
hay cách ghép từ có một khơng hai know just die (biết chết liền), like is afternoon
(thích thì chiều), no four go (vô tư đi) hay độc đáo hơn là sugar sugar ajinomoto
ajinomoto (đường đường chính chính)…
Hơn 80 năm bị người Pháp đô hộ, tiếng Việt đã vay mượn nhiều từ gốc Pháp,
đại bộ phận lớp từ này là tên gọi các đối tượng từ Pháp thâm nhập vào mà thường thì
trong tiếng Việt chưa có. Phần lớn các từ đó đã bị thay đổi cả về cách đọc lẫn chữ
viết để phù hợp với đặc trưng của tiếng Việt (ngơn ngữ đơn lập; khơng biến hình).
Các từ mượn tiếng Pháp được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như: ăn uống → cacao
(ca cao), café (cà phê), crème (kem), carotte (cà rốt), gâteau (ga tô), salade (xa lát),
cerise (sơ ri), fromage (pho mát), jambon (giăm bông), moutarde, (mù tạc), saussisse
(xúc xích), vin (vang);... trang phục → maillot (may ô), chemise (sơ mi), veston (vét
20
tông), gilet (gi lê), blouse (bờ lu), manchette (măng sét);... y dược → acide (axít),
lipide (lipit), péniciline (pênixilin), vaccin (vắc xin), vitamine (vitamin),... và nhiều
lĩnh vực khác. Các lớp từ này đã dần đi vào kho từ vựng tiếng Việt, và cơ bản được
người Việt sử dụng một cách phù hợp trong các hồn cảnh giao tiếp. Mặc dù khơng
có tính chất phổ biến như sử dụng tiếng Anh do giới trẻ ít tiếp cận ngơn ngữ này, vả
lại, nhiều từ ngữ của tiếng Pháp đã được người Việt đặt trám vào chỗ tiếng Việt còn
thiếu và lâu ngày được người Việt sử dụng như chính của ngơn ngữ mình (như một
số ví dụ kể trên). Tuy nhiên, cũng như với tiếng Anh, khơng ít người đã chọn một vài
yếu tố Pháp ngữ được cho là trọng điểm thông báo xen vào cấu trúc Việt ngữ. Chẳng
hạn, “thằng ấy bị ocgio (việt vị) rồi” (ý nói là tùy tiện, vượt khỏi phạm vi được phép
và bị phát hiện, bị thổi cịi); “tưởng chừng hắn nuốt trơi, ai ngờ bị penalty” (sự việc
bị phanh phui và bị phạt đền); “muốn vào vườn hồng thì phải húc đổ hai cái
blockhaus (lơ cốt) kia đã” (muốn đến với con gái người ta thì phải được sự đồng ý
của cha mẹ cô ấy); “anh em, chị em kiểu nhà nó canon (súng đại bác) bắn bảy ngày
khơng tới” (chúng nó chẳng là anh em, chị em gì cả); “khơng được đâu, “xếp”nhà tao
culasse (quy lát) lắm”,… Một số trường hợp tiếng Nga cũng được các “chuyên gia”
chế tác theo kiểu; “Hắn ta tỏ ra bôn (bônsêvic) để được cái tặc lưỡi của mấy ông mấy
bà ở Hội búa liềm thôi. Cuối cùng rồi cái đi men (mensêvic) của hắn cũng sẽ lịi
ra”.v.v…
2.2.1.2.2. Sử dụng ngơn ngữ ngoại lai có nguồn gốc tiếng Hán
Trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, nước ta chịu ảnh hưởng sâu văn hóa và
ngơn ngữ Trung Hoa là điều dễ nhận thấy. Theo thống kê của H. Maspero, 1972 thì
có 60% từ Việt có gốc Hán. Lớp từ gốc Hán có mặt ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực, trong
mọi hoạt động của đời sống ngôn ngữ tiếng Việt. Cho đến nay, vẫn chưa có một điều
tra ngơn ngữ nào để có một số liệu chính xác về tỷ lệ các yếu tố gốc Hán trong kho từ
vựng của chúng ta. Trong thực tế, do cùng một loại hình ngơn ngữ, cùng với đó là có
khá nhiều từ Hán được thâm nhập vào nước ta ở thời kỳ đầu, đã chịu sự chi phối bởi
ngữ âm tương đồng giữa hai ngôn ngữ thời kỳ ấy nên dễ dàng được coi như những từ
21
thuần Việt (xe, ngựa, cá, cởi, cả, chén, chém, thuyền, buồm, buồng…). Bởi vậy, một
bộ phận không nhỏ, ranh giới giữa chúng là không thật sự rõ ràng. Và cũng chính vì
thế, việc đánh giá về cách sử dụng phối hợp các yếu tố giữa hai ngôn ngữ này là
không mấy giản đơn. Chẳng hạn, chúng ta thường chấp nhận một số khơng ít các
trường hợp khơng thực sự hợp lí, kiểu: sơng Hồng Hà, cánh chim đại bàng, thuở
thiếu thời, nhà đại gia, ngày sinh nhật,…Tuy nhiên, khơng vì vậy mà có thể sử dụng
một cách tùy tiện khi tiếp nhận một số lượng không nhỏ loại nguyên liệu ngôn ngữ
này. Mặc dù trong nhiều lĩnh vực hoạt động như hành chính, kinh tế, pháp luật,… thì
đại bộ phận từ ngữ được sử dụng đều là từ gốc Hán, nhưng vẫn dễ dàng nhận thấy ở
tiếng Việt có những quy tắc và quy luật riêng, đặc biệt là cấu tạo từ và cấu trúc cú
pháp. Việc sử dụng các yếu tố vay mượn phải chịu sự chi phối của các quy tắc và quy
luật hoạt động của tiếng Việt.
Một số hình thức sử dụng sai từ hán Việt khá phổ biến hiện nay như: Sai vì
khơng hiểu gốc Hán Việt; Sai vì cố ý sửa gốc của từ; Sai vì khơng hiểu văn phạm
giữa Hán Việt và Hán Nơm; Sai vì dùng từ thiếu chính xác ngữ cảnh; Dùng sai nghĩa
của từ thuần Việt lại tưởng từ Hán Việt; Dùng từ Hán Việt vơ nghĩa và lộn xộn; Cóp
y nguyên tiếng Tàu đang sử dụng và coi đó là từ Hán Việt; Đảo ngược ngữ pháp hay
cấu trúc từ Hán Việt; Đảo từ ghép Hán Việt sai và không đúng cách; Ghép từ Hán
Việt bừa bãi hoặc dùng từ Hán Việt cho “sang” với ý nghĩa đao to búa lớn không cần
thiết.
Thực tế, do sự thiếu hiểu biết đầy đủ nghĩa của từ cùng với sự biến đổi quá
nhanh của từ ngữ hiện đại khiến nhiều người đôi lúc sử dụng sai nghĩa từ Hán Việt
mà không biết. Đơn cử, các lỗi như: đảo ngược nghĩa từ Hán Việt (điểm yếu thành
yếu điểm); đảo từ Hán Việt sai xót xa thành xa xót); ghép từ bừa bãi (cụm từ “kích
thích nhu cầu tiêu dùng rút thành “kích cầu” – từ này đang dần được chấp nhận-PV);
dùng từ Hán Việt bằng từ Nôm (“trực thăng” lại thay sai bằng “máy bay lên thẳng”;
“thủy quân lục chiến” lại thay bằng “lính thủy đánh bộ”). Điều đáng nói, rất nhiều
thuật ngữ khoa học cơng nghệ chúng ta đang “bí” từ như computer dịch thành máy vi
22
tính” cũng là chưa đủ hết nghĩa. Đặc biệt, rất nhiều từ Hán Việt đã bị chúng ta biến
đổi sai hẳn nghĩa nhưng khơng biết”. Ví dụ, từ niên và từ kỉ thời gian gần đây bị rất
nhiều người dùng sai. Niên là năm, kỉ là thế kỉ (1 thế kỉ là 100 năm) nhưng thay vì
nói/viết thập niên (10 năm), nhiều người lại nói/viết thành thập kỉ.
Khá nhiều trường hợp do không phân biệt được nguồn gốc ngôn ngữ đã dẫn tới
việc sử dụng không phù hợp với cấu trúc. Chẳng hạn, không phân biệt được chủ
nghĩa xã hội và xã hội chủ nghĩa, đa phần và phần đa, khuyến mãi và khuyến mại,
kiểm sát và kiểm soát, luật pháp và pháp luật, quản lí và quản trị, tiền và tiền tệ,
quyền và quyền lợi, quyết nghị và nghị quyết;… hoặc khơng hiểu nghĩa của từ ngữ
mình đang dùng nên ngay cả một số người làm du lịch, làm truyền thông cũng không
hiểu được thế nào là danh lam, thế nào là thắng cảnh, cứ thấy cảnh đẹp thì đều nói là
danh lam thắng cảnh… Cũng vì lí do trên nên nhiều trường hợp sử dụng thừa các yếu
tố trong tổ hợp từ, như: lúc sinh thời, tái lập lại, tái khẳng định lại, tận mắt mục sở
thị, tên địa danh, tên nhân danh…. Lại có trường hợp kết hợp một yếu tố đơn tiết gốc
Hán với một yếu tố đơn tiết gốc Việt, như cát tặc. Họ dựa vào hệ thống các từ như
lâm tặc, thủy tặc,…Tuy nhiên đây là một sự nhầm lẫn các từ đồng âm. Từ có âm cát
trong tiếng Hán khơng mang nghĩa thuật ngữ là một loại sa khoáng được sử dụng
trong xây dựng như trong tiếng Việt, mà từ này thường mang nghĩa của một động từ.
Vì vậy, về cơ bản, các yếu tố đơn tiết của Hán ngữ thường khó kết hợp với một yếu
tố đơn tiết tiếng Việt mà phải kết hợp các yếu tố Hán ngữ với nhau. Chẳng hạn,
khơng nói tân nhà mà phải là tân gia; khơng nói nhà đình mà phải nói là gia đình;
khơng nói thủy cuối mà phải nói thủy chung; khơng nói sau phương mà phải nói hậu
phương,…Ngay cả những trường hợp từ gốc Hán nhưng đã được Việt hóa đến mức
khó phân biệt được nguồn gốc của chúng thì khi kết hợp khó có thể chấp nhận đi
cùng với một yếu tố Hán -Việt. Chẳng hạn, khơng thể nói là thuyền phàm mà phải
nói là thuyền buồm; khơng thể nói là ngựa đáo mà phải nói là mã đáo,…Việc khơng
hiểu một cách thấu đáo về bản chất của hai ngôn ngữ này và mối quan hệ giữa chúng
trong bối cảnh số từ ngữ gốc Hán chiếm tỷ lệ lớn hơn từ ngữ bản địa sẽ rất dễ dẫn tới
những nhầm lẫn và sai lệch đáng tiếc. Nhiều người cho rằng, tiếng Hán trang trọng
23
và súc tích về nghĩa nên thường lạm dụng chúng trong giao tiếp. Điều đó dẫn tới việc
trong nhiều trường hợp người tham gia hội thoại cảm thấy khó chịu hoặc bị xúc
phạm. Những từ như soái ca, đại ca, tỷ muội, huynh đệ, sư phụ,… được nhiều người
trong giới trẻ xưng hô với mọi người, với mọi lứa tuổi và các vai giao tiếp khác nhau.
Gần đây, ngành công nghiệp giải trí Hàn Quốc đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến
giới trẻ Việt Nam. Nhiều người trong số họ đang phát cuồng với những thần tượng
Hàn Quốc bởi ngoại hình đẹp, giọng hát hay; những bộ phim tình cảm lãng mạn;
những ca khúc “Kpop” sôi động cùng những vũ đạo cuốn hút. Và cũng vì thế mà
ngơn ngữ Hàn cũng bắt đầu đi vào trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của các bạn trẻ,
chẳng hạn như: oppa, omani, appa, salanghae, aniyo,…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Trung(2009). Một số hiện tượng lai tạp trong ngơn ngữ văn chương
Việt Nam,Tạp chí sông Hương số 178(Tháng 12)
2. Nguyễn Thiện Giáp (Chủ biên) (2012), Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo
dục Việt Nam
3. Tiểu luận “Từ Thuần Việt và từ vay mượn trong Tiếng Việt”, nguồn:
/>4. Trần Văn Dũng, Trần Thị Tú (2021), “Hiện tượng lạm dụng ngôn ngữ
ngoại lai trong giao tiếp của giới trẻ hiện nay”, bài đăng trên tạp chí
KHXH – NV Nghệ An, nguồn: />
tra-xa-hoi/hien-tuong-lam-dung-ngon-ngu-ngoai-lai-trong-giao-tiep-cuagioi-tre-hien-nay
Contents
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ.......................................................................................................3
CHƯƠNG 1:...........................................................................................................................................4
HIỆN TƯỢNG GIAO THOA NGÔN NGỮ TRONG TIẾNG VIỆT...............................................4
1.1. Khái niệm của giao thoa ngôn ngữ...........................................................................................4
1.2. Các bình diện nghiên cứu giao thoa ngơn ngữ........................................................................4
1.2.1. Bình diện cấu trúc - hệ thống:...............................................................................................4
1.2.2. Bình diện giao tiếp:................................................................................................................6
1.2.3. Bình diện ngơn ngữ văn hóa của giao thoa ngôn ngữ:.........................................................6
1.3. Hệ quả của sự giao thoa.............................................................................................................7
1.3.1. Sự sai lệch so với chuẩn mực................................................................................................7
1.3.2. Chuyển di...............................................................................................................................9
1.3.3. Lỗi do giao thoa ngôn ngữ trong tiếng việt.........................................................................10
1.3.4. Từ lệch chuẩn dẫn đến biến thể cộng đồng.........................................................................12
CHƯƠNG 2:.........................................................................................................................................14
TIẾNG VIỆT TRONG VIỆC TIẾP NHẬN VÀ ĐỒNG HĨA CÁC TỪ NGỮ NƯỚC NGỒI.14
2.1. Hiện tượng từ vay mượn trong tiếng việt...............................................................................14
2.1.1. Nguồn gốc của từ vay mượn trong tiếng Việt.....................................................................14
2.1.2. Vai trò của từ vay mượn trong tiếng Việt...........................................................................14
2.1.3. Phân loại từ mượn trong tiếng Việt.....................................................................................15
2.2. Tiếng việt trong việc tiếp nhận và đồng hóa các từ ngữ nước ngồi...................................19
2.2.1. Hiện tượng đồng hóa trong tiếng việt.................................................................................19
2.2.1. Hiện tượng tiếp nhận ngôn ngữ nước ngoài trong tiếng việt..............................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................26
25