MỤC LỤC
Trang
MỤC 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gia đình, nói đến gia đình thì ai cũng sẽ nghĩ ngay đến ngôi nhà
mà ta đã lớn lên từ đó, là nơi mà thời thơ ấu chúng ta đã gắn bó, là
nơi sẻ chia tình cảm, an ủi động viên nhau giữa các thành viên trong
gia đình, là nơi chứa chan bao tình cảm thiêng liêng giữa những người
trong gia đình với nhau. tuy rằng “mỗi cây mỗi hao mỗi nhà mỗi
cảnh” nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì đó cũng sẽ vẫn mãi là nơi ta
lui về mỗi khi mệt mỏi ....
Nếu ta ví mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, thì chỉ khi nào
tế bào đó phát triển tốt, vững mạnh thì khi đó xã hội cũng mới có thể
phát triển được. Cũng như vậy mỗi cá nhân là một tế bào của gia đình
và sẽ chẳng bao giờ chúng ta lại khơng nhắc đến vai trị của gia đình
đối với mỗi cá nhân chúng ta, là nơi nuôi dưỡng mỗi con người, có ý
nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của
mỗi con người chính vì thế để làm rõ hơn vấn đề này thì em xin đi
phân tích và lựa chọn đề tài : “Phân tích các chức năng cơ bản của
gia đình. Mối quan hệ của các chức năng gia đình trong việc điều
chỉnh hành vi cá nhân. Liên hệ thực tiễn.” cho bài học kỳ của mình.
Vì đây là đề tài với một thời lượng nghiên cứu hạn hẹp và kiến
thức còn hạn chế nên trong bài sẽ có nhiều chỗ cịn thiếu sót rất mong
được sự góp ý của quý thầy (cơ) để bài làm hay và hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
MỤC 2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1
1.1.
KHÁI QUÁT CHUNG
Xã hội học gia đình
Xã hội học gia đình là nghành xã hội học chuyên biệt nghiên cứu
hệ thống các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài của sự hoạt động,
sự phát triển và sự thay đổi của gia đình với tư cách là hình thức hoạt
động của con người, cơ cấu và chức năng của gia đình trong những
điều kiện kinh tế - xã hội và văn hóa cụ thể của xã hội.
Xã hội học gia đình bản thân nó là khoa học xã hội học chuyên
biệt nghiên cứu về gia đình. Nó có những quy luật đặc thù riêng song
cũng là bộ phận của xã hội học cho nên nó cũng địi hỏi phải nghiên
cứu gia đình một cách tổng thể trong mối quan hệ, sự tác động qua lại
của các yếu tố cấu thành cơ cấu gia đình, chức năng của gia đình đối
với bản thân mối quan hệ nội tại của gia đình và mối quan hệ gia đình
với mọi quan hệ của xã hội tổng thể.
Xã hội học nghiên cứu gia đình như hiện tượng xã hội trên hai
phương diện:
+ Một là các mối quan hệ bên trong gia đình (quan hệ giữa các
thành viên và quan hệ giới tính)
+ Hai là các mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa gia đình và
xã hội (quan hệ gia đình và họ hàng, làng xã, các tổ chức sản xuất, các
tổ chức chính trị và các tổ chức văn hóa…) [ 1 ]
1.2.
Gia đình
3
Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau
bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,
quan hệ nuôi dưỡng hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất
sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Gia đình có những
ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến xã hội.
Từ thời nguyên thủy cho tới nay, không phụ thuộc vào cách kiếm
sống, gia đình ln tồn tại và là nơi đáp ứng cơ bản nhu cầu của các
thành viên trong gia đình. Song để đưa ra được một cách xác định phù
hợp với khái niệm gia đình, một số nhà nghiên cứu xã hội học đã đưa
ra sự so sánh giữa gia đình lồi người với cuộc sống lứa đơi của động
vật, gia đình lồi người ln ln bị ràng buộc theo các điều kiện văn
hóa xã hội của đời sống gia đình ở con người. Gia đình ở lồi người
ln bị ràng buộc bởi các quy định, các chuẩn mực giá trị, sự kiểm tra
và sự tác động của xã hội; vì thế theo các nhà xã hội học, thuật ngữ
gia đình chỉ nên dùng để nói về gia đình lồi người.Thực tế, gia đình
là một khái niệm phức hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm lý, văn
hóa, kinh tế,... khiến cho nó khơng giống với bất kỳ một nhóm xã hội
nào. Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét
về gia đình đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp
với nội dung nghiên cứu phù hợp và chỉ có như vậy mới có cách tiếp
cận phù hợp đến với gia đình.
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội.
Vì vậy, có thể xem xét gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời
như một thiết chế xã hội mà có vai trị đặc biệt quan trọng trong q
trình xã hội hóa con người. Có nhiều định nghĩa gia đình khác nhau
như:
+ Gia đình là thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ
ruột thịt (hoặc đặc biệt cùng chung sống). Gia đình là phạm trù biến
4
đổi mang tính lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tộc và thời đại. Gia
đình là trường học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã
hội.
+ Gia đình – đơn vị xã hội (nhóm xã hội nhỏ), là hình thức tổ chức
xã hội quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các
quan hệ huyết thống, tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và mẹ, giữa
anh chị em và người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế
chung [ 2 ] .
Chức năng của gia đình: gia đình có rất nhiều chức năng song có
3 chức năng chính chi phối tồn bộ các chức năng cịn lại: Chứ c năng
kinh tế; Chức năng tái sinh – duy trì nịi giống ; Chức năng giáo dục.
2.
CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC ĐIỀU
CHỈNH HÀNH VI CÁ NHÂN
Từ lâu gia đình đã được coi là tế bào của xã hội. Tế bào gia đình
khỏe mạnh, xã hội sẽ lành mạnh, mọi người đều có cơ hội phát triển và
hưởng hạnh phúc. Nếu tế bào gia đình lỏng nẻo, khơng đảm đương tốt
các vai trị chức năng của mình thì xã hội có nguy cơ bị xáo động làm
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần và vật chất của mọi thành
viên trong xã hội. Vì thế để củng cố nền tảng gia đình thì cần phải
thực hiện tốt các chức năng cơ bản và đó ln là mối quan tâm của các
quốc gia trên thế giới. Để thực hiện tốt thì chúng ta cần hiểu rõ trong
xã hội, gia đình có chức năng cơ bản như thế nào?
2.1.
Chức năng kinh tế
2.1.1. Khái niệm
Đây là chức năng đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi gia
đình, góp phần vào sự phát triển của tồn xã hội. Lao động của mỗi
thành viên trong gia đình hoặc hoạt động kinh tế của gia đình nhằm
5
tạo ra nguồn lợi đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất (ăn, ở, đi lại) lẫn
nhu cầu tinh thần (học hành tiếp cận thơng tin, vui chơi giải trí). Gia
đình cịn là đơn vị tiêu dùng, việc tiêu dùng sản phẩm hàng hóa dịch
vụ trong xã hội đã tác động vào sản xuất, tiền tệ, thúc đẩy kinh tế phát
triển.
Chức năng kinh tế biểu hiện trên cả hai phương diện: sản xuất và
tiêu dùng. Tức là mỗi gia đình vừa là một đơn vị sản xuất của xã hội,
vừa là nơi tiêu thụ sản phẩm nền kinh tế của xã hội. Trong điều kiện
hiện nay, nhiều gia đình có thành viên làm ở các cơng ty, nhà nước...
chính vì vậy, chức năng kinh tế của gia đình được giảm nhẹ ở khâu tổ
chức, sản xuất, nhưng với tư cách là đơn vị tiêu dùng thì tính tốn thu
chi hàng tháng, hàng năm vẫn là nỗi lo của các chủ gia đình.
Như đã nói ở trên, mỗi gia đình là một đơn vị sản xuất của xã hội.
Chính vì vậy, sự phát triển của xã hội phụ thuộc trực tiếp vào sự phát
triển kinh tế mỗi hộ gia đình. Vì vậy sự phân hóa giàu nghèo ln là
vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
2.1.2. Kinh tế gia đình trong việc điều chỉnh hành vi cá nhân
Trong tiêu dùng chúng ta khơng thể mua hết thứ muốn có, và
khơng thể ăn hết thứ mình muốn ăn. Mặc dù thỏa mãn nhu cầu tiêu
dùng nhưng khơng phải có thể hưởng được cuộc sống hạnh phúc. Để
nhận lấy hạnh phúc là mục đích sau cùng của cuộc sống thì hãy làm
việc nhà một cách chắt chiu là quan trọng hơn. Nếu xảy ra tình huống
như mâu thuẫn giữa thành viên gia đình vì sự khác biệt do giá trị quan
về kinh tế, nỗi khổ của cuộc sống hoặc phá sản do chi tiêu lãng phí thì
gia đình hạnh phúc cũng sẽ trở nên xa rời.
Nếu thiếu đối thoại giữa gia đình hoặc một người quản lý tài chính
một cách độc đốn và khơng cơng khai thì sẽ gặp tình huống ở trên.
Khi gia đình cùng chia sẻ rằng tình hình tài chính gia đình là thế nào,
6
chi tiêu tiêu dùng là bao nhiêu thì kinh tế gia đình sẽ được thuận lợi và
ý thức cộng đồng giữa gia đình rằng cùng lên một thuyền cũng sẽ được
vững chắc.
Theo kết quả của Cổng thông tin điện tử việc làm, nơi đã thực thi
điều tra dư luận với đối tượng là 178 nhân viên công ty lập gia đình,
thì ngun nhân thứ nhất trong bất hịa vợ chồng là “vấn đề kinh tế
(25,5%)”. Lý do vợ chồng cãi nhau do tiền là vì có nhiều trường hợp
khác nhau về quan niệm kinh tế, hơn là thu nhập thấp. Chẳng hạn như,
nếu người chồng thích tiết kiệm nhưng người vợ thích dùng tiền thì
mỗi khi trơng thấy hàng hóa mới trong nhà, người chồng sẽ bất mãn
còn người vợ thì cảm thấy buồn lịng vì người chồng như thế. Mỗi khi
cuộc cãi vã xảy ra vì quan niệm kinh tế khác nhau, thì phải tìm ra điểm
thỏa hiệp bởi nỗ lực và đối thoại nhờ tôn trọng xu hướng cá nhân và
môi trường sống hơn là chê trách nhau.
Thường trong gia đình, người nào có thu nhập cao, là kinh tế
chính của gia đình thường cho mình cái quyền làm chủ gia đình. Họ
hay áp đặt, tự quyết định vấn đề kinh tế của các thành viên khác.
Kinh tế của trẻ em bắt đầu từ lúc còn nhỏ, khi cịn nhỏ tuổi thì
biết rằng tiền là một phương tiện có thể mua cái gì đó. Quan niệm kinh
tế của con cái phải được gieo trồng từ lúc đó. Quan niệm kinh tế có
quan hệ mật thiết với tính cách. Thói quen kiềm chế và chi tiêu biết
điều làm cho dễ thích ứng với hồn cảnh, nhưng nếu có thói quen sinh
hoạt lấy bằng được hết thảy mọi thứ bản thân mình muốn thì dù chỉ
gặp tình huống khó khăn một chút nhưng cũng khơng chịu nổi. Dù bản
thân mình không ăn không uống nhưng muốn làm cho con cái được
hưởng cuộc sống đầy đủ và khơng nản chí là tấm lòng của cha mẹ. Tuy
nhiên, tấm lòng thể ấy mà q mức thì có thể ảnh hưởng xấu đến ý
7
thức chi tiêu lành mạnh của con cái bởi sự biểu hiện lịng u thương
bị bóp méo.
Con cái trơng thấy và học theo y nguyên hành động cha mẹ làm
một cách vô ý thức. Nếu cha mẹ coi trọng tiền q mức thì con cái coi
trọng tiền là thứ có giá trị nhất, và nếu con cái trơng thấy hình ảnh cha
mẹ phán đoán người khác theo tiền hoặc sử dụng tiền như là một vũ
khí khơng nhìn thấy được thì con cái cũng sẽ làm theo một cách vơ ý
thức. Cha mẹ phải cho con cái thấy hình ảnh cha mẹ trao đổi và quyết
định một cách lý trí, dạy dỗ từng bước một về những nội dung như:
Tiền khơng phải là thứ mà cứ mở ví tiền của cha mẹ là có nhưng đó là
kết quả mà cha mẹ kiếm được bởi làm việc vất vả; sự thật rằng khơng
ai có thể có được tất cả dù là bất cứ ai; phương pháp phân biệt thứ
muốn có và thứ cần thiết; chi tiêu luôn đi kèm với trách nhiệm v.v…
Nếu con cái xin xỏ cái gì đó mình muốn có thì hãy hiểu biết tấm
lịng mong muốn đó và làm cho con hiểu lý do tại sao không thể mua
được hơn là nói khơng được vơ điều kiện. “Đồ chơi này khác nhau gì
với xe ơtơ đồ chơi ở nhà?”, “Nếu con mua cái này thì khơng thể mua
cái khác.” Hãy đối thoại với con thế này và cho thấy tấm gương thực
tiễn lập nguyên tắc không mua vật phẩm khác trong mục lục đã ghi
trước. Hãy nghi nhớ rằng mua sắm là một hành vi dựa theo sự cần
thiết, chứ không nên trở thành một phương tiện bồi thường.
Có thể dễ thấy trường hợp đánh mất người rất quan trọng vì tấm
lịng tham về tiền hoặc sử dụng một cách tuỳ tiện. Tiền làm cho cuộc
sống được tiện lợi hơn là sự thật khȏng còn nghi ngờ gì nữa. Tuy nhiên
điều đó phải được sử dụng vì cần thiết trong khn khổ kinh tế gia
đình chứ khơng được bị cai trị bởi đó. Phương pháp khơng bị cai trị
bởi tiền là có tấm lịng tự thỏa mãn và tấm lịng cảm tạ. Dù là lương
bằng cái đi chuột nhưng chớ phàn nàn người bạn đời, và nếu không
8
có món ăn kèm thì hãy cảm tạ vì có thể ăn cơm, nếu khơng có xe hơi
thì hãy cảm tạ vì có thể khỏe lên nhờ đi bộ, nhờ đó hãy làm việc nhà
một cách có kế hoạch. Khi làm như thế thì hạnh phúc tràn đầy và kinh
tế gia đình cũng sẽ trở thành “trong xanh”.
2.2. Chức năng tái sinh – duy trì nịi giống
2.2.1. Khái niệm
Tái sinh – duy trì nịi giống là một chức năng cơ bản và riêng có
của gia đình. Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sinh,
duy trì nịi giống, ni dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản
xuất nguồn lao động và sức lao động cho xã hội.
Hoạt động sinh con đẻ cái của con người trước hết xuất phát từ
nhu cầu tồn tại của chính con người, của xã hội. Chức năng này đáp
ứng một nhu cầu rất tự nhiên, chính đáng của con người. Nhưng tốc độ
gia tăng dânsố, mật độ dân cư... và nhiều yếu tố khác liên quan đến
các vấn đề chiến lược và trình độ phát triển kinh tế, xã hội...Vì vậy
sinh đẻ của mỗi gia đình khơng chỉ là việc riêng của gia đình mà cịn
là một nội dung quantrọng của mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Chiến
lược về dân số hợp lý sẽ trực tiếp tạo ra một cách có kế hoạch nguồn
nhân lực mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, là mục
tiêu, động lực quan trọng nhất của phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội [ 3 ] .
2.2.2. Chức năng tái sinh - duy trì nịi giống trong việc điều chỉnh hành
vi cá nhân.
Từ bao đời nay, chuyện phải đẻ bằng được một cậu con trai để nối
dõi tông đường hay để có thằng đứng chống gậy bên linh cữu lúc ra đi
là vấn đề vô cùng quen thuộc. Tưởng chừng, trong cuộc sống hiện đại
ngày nay, khi quan niệm ‘trọng nam khinh nữ’ khơng cịn thì câu
chuyện trên sẽ dừng lại nhưng khơng, nó cịn được truyền từ đời này
đến đời khác, hiện hữu trong tâm thức của các đấng mày râu, nhất là
9
con trưởng hoặc con trai độc đinh trong nhà càng mong muốn làm
bằng được điều này.
Theo các nhà nghiên cứu, quan niệm này bắt nguồn sâu xa từ
phong tục, tập quán, truyền thống Nho Giáo, Phật Giáo cách đây hàng
nghìn năm chứ hồn tồn khơng dựa vào bất cứ cơ sở khoa học nào.
Nên mới hình thành quan điểm ‘trọng nam khinh nữ’ và có bài ví về
con gái như sau:
“Chúng con là lũ vịt giời ”; “trẻ cậy cha, già cậy con” mà bé trai
được coi trọng hơn bé gái. Hơn thế, gia đình khơng có con trai chắc
chắn sẽ ‘tuyệt tử tuyệt tơn’, con gái khơng có tiếng nói cũng như chỗ
đứng trong gia đình. Ngày lễ tiết, giỗ chạp chỉ có đàn ơng mới được ra
vào nhà thờ họ cịn đàn bà thì phải quanh quẩn nhà bếp.
Thậm chí, cịn vì chuyện đẻ con trai, con gái mà nhiều gia đình ly
tán. Người vợ chỉ ‘biết’ sinh con gái, không biết sinh con trai mà
chồng sẵn sàng lấy vợ 2 để tìm kiếm thằng cu nối dõi tơng đường.
Điều này dẫn đến mất cân bằng giới tính nghiêm trọng.
2.3.
Chức năng giáo dục
2.3.1. Khái niệm
Có thể nói đây là chức năng rất quan trọng, quyết định nhân cách
con người. Gia đình là cái nơi của mỗi con người, là nơi dưỡng dục về
thể chất, tinh thần, hình thành nhân cách cho mỗi con người trong xã
hội. Nội dung của giáo dục gia đình tương đối tồn diện, cả giáo dục
tri thức và kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân
cách, thẩm mỹ, ý thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình
cũng rất đa dạng,
song
chủ
yếu
là
phương
pháp
nêu
gương,
thuyết phục, chịu ảnh hưởng khơng ít của tư tưởng, lối sống,
tâm lý, gia phong của gia đình truyền thống. Dù giáo dục xã hội
10
đóng vai trị ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định, nhưng có
những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu quả
lớn khơng thể thay thế. Giáo dục gia đình cịn bao hàm cả tự giáo dục.
Do đó, chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha
mẹ, ông bà đối với con cháu.
Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung
hồn thiện thêm cho giáo dục nhà
trường và xã hội. Do đó, dù
giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội có phát triển lên trình độ nào,
giáo dục gia đình vẫn được coi là một thành tố của nền giáo dục xã hội
nói chung. Giáo dục gia đình ln trở thành bộ phận quan trọng, hợp
thành giáo dục nói chung phục vụ các lợi ích cơ bản của giai cấp thống
trị trong bất cứ thời đại nào, khi xã hội còn giai cấp và phân chia giai
cấp [ 4 ] .
Chức năng giáo dục của gia đình cũng chịu sự tác động trực tiếp
từ các yếu tố chủ quan và khách quan.
Yếu tố khách quan: chính sách của nhà nước; văn hóa, xã hội;
điều kiện vật chất; các hiện tượng xã hội; sự phối hợp giữa nhà trường
và gia đình; …
Yếu tố chủ quan: phương pháp giáo dục của mỗi gia đình; tầm
hiểu biết của cha mẹ; kinh nghiệm ni dậy con; lối sống của bố mẹ ;
…
2.3.2. Giáo dục gia đình trong việc điều chỉnh hành vi cá nhân
Từ cái nơi gia đình, mỗi cá nhân được trang bị cho mình kiến
thức, kỹ năng sống để có thể thích ứng, hòa nhập vào cộng đồng. Như
khoa học đã xác định rõ ràng, cơ sở trí tuệ và tình cảm cá nhân thường
hình thành ngay từ thời ấu thơ. Gia đình trang bị cho đứa trẻ những ý
niệm đầu tiên để lý giải thế giới sự vật, những ý niệm về cái thiện và
cái ác, dạy cho con trẻ hiểu rõ đời sống và con người, đưa trẻ con vào
11
thế giới của những giá trị mà gia đình thừa nhận và thực hiện trong đời
sống của nó. Nêu gương là cách giáo dục tốt nhất trong mỗi gia đình
(cha mẹ yêu thương chân thành, tôn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông
bà nghiêm khắc nhưng cũng vừa yêu thương, bao dung với con cháu).
Nêu gương cũng là cách tốt để dạy con người cách ứng xử với họ
hàng, láng giềng và cộng đồng (trọng nhân nghĩa, làm điều thiện, sống
chan hịa, ghét điều giả dối) qua đó giúp con cháu tiếp thu một cách tự
nhiên, nhẹ nhàng những bài học cuộc đời nhưng lại tác động mạnh mẽ
đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Mỗi gia đình đều
hình thành tính cách của từng thành viên trong xã hội.
Giáo dục gia đình chủ yếu được thực hiện bằng tình cảm và đó là
nền giáo dục vừa tồn diện, vừa cụ thể và mang tính cá biệt cao. Tồn
diện là bởi giáo dục gia đình hướng tới thúc đẩy sự phát triển đầy đủ
mọi phẩm chất con người. Cụ thể là vì giáo dục gia đình khơng mang
tính chung chung, trừu tượng mà nhằm vào mỗi cá nhân cụ thể và
nhằm xây dựng, phát triển những phẩm chất, năng lực cụ thể của từng
người. Giáo dục gia đình mang tính cá biệt là do đối tượng là những cá
thể đặc thù, riêng biệt. Đối với mỗi cá nhân cụ thể đó thì phải có
phương pháp, cách thức và nội dung giáo dục riêng, cụ thể, cá biệt mới
phù hợp và chỉ có như thế mới mang lại hiệu quả của giáo dục gia
đình. Như thế, có thể nói giáo dục gia đình là một dạng giáo dục đặc
biệt của xã hội loài người. ( 1 )
Đứa con là hình thưởng hay hình phạt cho cha mẹ là tùy thuộc
vào sự giáo dục của họ. Thông qua việc thực hiện chức năng giáo dục,
gia đình thực sự trở thành cầu nối khơng thể thay thế được giữa gia
đình và cá nhân.
Song hiện nay có nhiều bậc cha mẹ chỉ quan tâm đến việc cho
con ăn no, ăn ngon, mặc đẹp hợp thời trang hơn là việc giáo dục tính
cách cho con cái mình. Họ phó mặc sự giáo dục đó cho nhà trường,
12
cho ơng bà hay người giúp việc. Có những ơng bố bà mẹ cấm không
cho con tham gia hoạt động gì, khơng được chơi với ai, khơng được
làm việc gì khác ngoài việc học và học, bắt con cái họ học đến phát
bệnh. Đến khi thấy con cái vô lễ, hư hỏng, không hiếu thảo với ông bà
cha mẹ, sống ích kỷ thì lại than thân trách phận mình vơ phước và
mắng chửi con cái. Thật ra tất cả đều có ngun nhân của nó, gia đình
muốn hạnh phúc thì cha mẹ cần bỏ thời gian, công sức, tiền bạc để
giáo dục con em mình, đừng phó mặc trách nhiệm giáo dục cho kẻ
khác.
MỤC 3
KẾT LUẬN
Qua bài làm trên đây ta thấy được tầm quan trọng của gia đình
đối với mỗi chúng ta và đối với tồn xã hội đó là những vai trị mà mỗi
chúng ta khơng thể phụ nhận được.
Gia đình là một thực thể xã hội. Sự tồn tại của nó được xã hội
thừa nhận. Như vậy bản thân gia đình đã mang một giá trị xã hội.
Chính các chức năng của gia đình mới đem lại cho nó một giá trị đích
thực. Cho đến nay các chức năng cơ bản của gia đình vẫn cịn giữ
ngun giá trị. Sự thừa nhận các chức năng của gia đình tức là đã thừa
nhận gia đình là một giá trị trong xã hội. Gia đình có liên quan đến
nhiều vấn đề của xã hội và các mối quan hệ trong xã hội cho nên cần
nhận thức đầy đủ mối quan hệ của gia đình vì đó là chỗ dựa tinh thần
cho con người. Đó là cái cốt yếu dẫn đến thành công cho mỗi chúng
ta .
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1,2] Tập bài giảng Xã hội học, trường Đại học Luật Hà Nội, chủ biên
TS.Ngọ Văn Nhân, NXB Công an Nhân dân, trang 333,336;
[3,4] ;
[5] />
14