MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, Đảng đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước. Tuy nhiên với âm
mưu thâm độc - thực dân pháp với dã tâm xâm lược nước ta, khó khăn trong nước
chưa được giải quyết thì khó khăn về giặc ngoại xâm ập đến. Với tinh thần đoàn kết,
truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất chống ngoại xâm, nhân dân ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã cùng nhau đứng lên để giữ nền độc lập của nước nhà.
Đã hơn 64 năm kể từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẻ vang đầy oai hùng
(7/5/1954), giải thoát dân tộc Việt Nam khỏi 9 năm ròng rã phải sống và kháng chiến
trong địa ngục của thực dân Pháp cùng với sự can thiệp của Mỹ, để đi vào lịch sử của
Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung như một mốc son chói lọi. Thắng lợi hào
hùng đó ln là biểu tượng sáng ngời cho tất cả những con người yêu chuộng hịa
bình trên thế giới về ý chí quật cường không chịu khuất phục của cả một dân tộc. Bác
Hồ - Chủ tịch Hồ Chi Minh vĩ đại cũng đã từng nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử một
nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thuộc dân hùng mạnh. Đó là một
thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của
lực lượng hịa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”. Chiến thắng vĩ đại, ròn
rã trước bè lũ thực dân cướp nước này cũng chính là lời khẳng định, sự hiện thực hóa
về đường lối đúng đắn của Đảng ta trong kháng chiến. Việc xác định chính xác, rõ
ràng và quán triệt đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn điện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính” trong tồn Đảng, tồn dân, tồn qn là yếu tố căn bản cốt lõi dẫn tới
thắng lợi trọn vẹn. Vì vậy đề tài: “vận dụng đường lối kháng chiến chống Pháp (19461954) vào phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện
nay” là trách nhiệm mà chúng ta cần phải đi sâu hơn vào phân tích. Do hiểu biết cịn
hạn hẹp, chưa có được cái nhìn sâu sắc để hiểu hết về đường lối của Đảng và cũng do
đây là lần thứ hai em viết tiểu luận nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm.
Em mong sẽ nhận được sự góp ý thẳng thắn, chân thành từ phía cô và các bạn trong
lớp để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
Phần 1. Cơ sở lý luận và nội dung đường lối kháng chiến chống Pháp (1946-1954)
1.1. Bối cảnh lịch sử của nước ta
Đảng, Chính phủ và nhân dân ta muốn hồ bình nên đã nhân nhượng kí với
Pháp Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9. Chấp hành chủ trương của Chính phủ,
nhân dân ta kiên trì đấu tranh giữ vững hồ bình, tranh thủ thời gian để chuẩn bị lực
lượng, đề phòng khả năng bất trắc phải kháng chiến chống Pháp lâu dài.
Chính phủ Pháp khơng thành thật trong việc kí Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và
Tạm ước 14/9/1946 với Việt Nam, nên kí xong lại tìm cách phá hoại, đẩy mạnh việc
chuẩn bị xâm lược nước ta một lần nữa.
Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tiến đánh các vùng tự do của ta.
Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, hạ tuần tháng 11/1946, thực dân Pháp khiêu khích, tiến
cơng ta ở Hải Phịng và Lạng Sơn. Tháng 12/1946, chúng chiếm đóng trái phép ở Đà
Nẵng, Hải Dương, đưa thêm viện binh đến Hải Phịng.
Ở Hà Nội, tình hình nghiêm trọng hơn. Trong các ngày 15 và 16/12, quân Pháp
bắn súng, ném lựu đạn ở nhiều nơi: đốt Nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm đóng
cơ quan Bộ Tài chính và Bộ Giao thơng cơng chính. Chúng cịn cho xe phá các cơng
sự của ta ở phố Lò Đúc, gây ra những vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún, phố Yên
Ninh, đầu cầu Long Biên, khu Cửa Đông… Trắng trợn hơn, trong các ngày 18 và
19/12/1946, tướng Moóclie gửi tối hậu thư địi ta phá bỏ mọi cơng sự và chướng ngại
trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để quân Pháp làm nhiệm vụ
giữ trật tự ở Hà Nội. Nếu u cầu đó khơng được chấp nhận thì chậm nhất là vào sáng
20/12/1946, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động!
Trước hành động ngang ngược của thực dân Pháp, nhân dân ta chỉ có một con
đường: cầm vũ khí kháng chiến chống thực Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập, tự
do.
Tình thế khẩn cấp đã buộc Đảng, Chính phủ ta phải có quyết định kịp thời.
Ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến.
Ngày 18 và 19/12/1946, Hội nghị bất thường mở rộng Ban Thường vụ Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ toạ của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đã quyết định phát động cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược.
Tối 19/12/1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến, phát động cả nước đứng lên kháng chiến
chống thực dân Pháp. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã tác động mạnh mẽ đến
toàn thể dân tọc ta. Lời kêu gọi của Người là tiếng gọi của non sông, là mệnh lệnh tiến
công cách mạng, giục giã, soi đường cho nhân dân ta đứng lên đánh giặc, cứu nước.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Xuất phát từ những nguyên lý cơ bản về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa
Mac-Lenin; Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng, của bối cảnh lịch sử lúc
bầy giờ; Xuất phát từ truyền thống yêu nước của nhân dân ta và được kế thừa những
kinh nghiệm đánh giặc ngoại xâm của cha ông. Đường lối kháng chiến của Đẳng đã
được đề ra vơ cùng đúng đắn, sang tạo và kịp thời. Có tác dụng to lớn trong việc đưa
cuộc kháng chiến nhanh chóng vào giai đoạn ổn định và phát triển đúng hướng.
1.3. Các văn kiện hình thành đường lối
Ngày 12-12-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Toàn dân kháng
chiến”. Ngày 19-12-1946, chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến”. Từ tháng 3 đến tháng 9-1947, đồng chí Trường Chinh viết một số bài báo giải
thích cụ thể về đường lối kháng chiến. Tháng 9-1947, được in thành sách với tiêu đề “
Kháng chiến nhất định thắng lợi”.
Từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng sản
Đông Dương được tiến hành tại xã Vinh Quang (Chiêm Hóa, Tuyên Quang). Dự Đại
hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, đã thông qua hai báo cáo
quan trọng:
“Báo cáo chính trị” do chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã tổng kết kinh nghiệm
của Đảng qua các chặng đường lịch sử đấu tranh cách mạng, khẳng định đường lối
kháng chiến chống Pháp của Đảng. Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày báo cáo “Bàn
về cách mạng Việt Nam”:
Xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại là: tiêu
diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập, thống nhất hoàn toàn
dân tộc.
Xóa bỏ những tàn dư phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có
ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Đại hội đã thảo luận và quyết định nhiều chính sách cơ bản trên mọi lĩnh vực
như: củng cố chính quyền, xây dựng quân đội, củng cố mặt trận, phát triển kinh tế, tài
chính, văn hóa…nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến về mọi mặt.
Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập ở Việt Nam,
Lào, Campuchia mỗi nước một Đảng Mác-Lenin riêng. Ở Việt Nam, Đại hội quyết
định đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Đại hội thơng qua Tun ngơn, Chính cương, Điều lệ mới của Đảng và quyết
định xuất báo Nhân dân làm cơ quan ngôn luận của Đảng.
Như vậy Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng là mốc đánh dấu bước phát triển
mới trong quá trình lãnh đạo và sự trưởng thành, lãnh đạo của Đảng ta. Tăng cường
hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, củng cố thêm niềm tin tất thắng vào
cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Toàn quốc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược giai đoạn 1945-1954.
1.4. Nội dung đường lối kháng chiến chống Pháp (1946-1954)
Đảng xác định tính chất của cuộc kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp của nhân dân Việt Nam mang tính chất dân tộc dân chủ nhân dân.
Kế thừa sự nghiệp của cách mạng tháng Tám: Cách mạng tháng Tám là một
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ hang đầu là chống đế quốc
giành độc lập dân tộc, nhiệm vụ chống phong kiến có mức độ nhất định nhằm phục vụ
cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Lực lượng tham gia là cuộc vùng dậy của tồn dân
tộc, được đồn kết trong hình thức mặt trận Việt Minh. Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời ngày 2-9-1945 là nhà nước toàn dân.
Nhiệm vụ của cuộc kháng chiến: Chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền
độc lập cho Tổ quốc, đánh đổ hoàn toàn tàn dư của phong kiến để dành quyền dân chủ
cho người dân.
Thực dân Pháp với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, chúng đã huy động
lực lượng hùng mạnh và sự chuẩn bị kĩ lưỡng để tiến hành âm mưu đó. Đất nước ta
với tư thế vừa giành được chính quyền nên cịn non trẻ, giành được chính quyền đã
khó, nay giữ chính quyền càng khó hơn. Vì vậy, nhiệm vụ hang đầu là toàn dân đứng
dậy đồng long chống thực dân Pháp bảo vệ nền độc lập cho dân tộc. Sau đó đánh đổ
hồn tồn tàn dư của phong kiến để dành quyền dân chủ cho người dân.
Đảng xác định kẻ thù của cuộc kháng chiến là thực dân Pháp.
Sau cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, quân đội các nước
Đồng minh, với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, đã kéo vào nước ta. Ngồi Pháp,
Nhật chưa rút qn thì qn Trung Hoa Dân Quốc, quân Anh đã kéo vào nước ta. Họ
có danh nghĩa hợp pháp, là quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật Bản, nhưng tính
chất chung là chống phá cách mạng Việt Nam.
Tuy trên đất nước lúc này một lúc có nhiều kẻ thù như vậy nhưng Đảng vẫn
xác định kẻ thù nguy hiểm nhất là thực dân Pháp vì: Thực dân Pháp có âm mưu quay
lại xâm lược Việt Nam. Ngay sau khi chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, Chính phủ
Pháp đã thành lập một đội quân viễn chinh do tướng Locolec chỉ huy nhằm chiếm lại
Đông Dương. Được sự ủng hộ của quân Anh, ngày 23-9-1945, Pháp tiến cơng Sài
Gịn, mở đầu cho cuộc xâm lược trở lại nước ta. Lợi dụng tình hình trên, các lực lượng
phản cách mạng như Đại Việt, Torokit, bọn phản động trong các giáo phái ngóc đầu
dậy làm tay sai cho Pháp. Như vậy với ý chí thực dân, cả trong tư duy và hành động,
thực dân Pháp đã bộc lộ rõ dã tâm xâm lược Việt Nam. Phân tích về âm mưu của các
đế quốc đối với Đông Dương, Trung ương Đảng nêu rõ “ kẻ thù chính của ta lúc này
là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
Lực lượng của cuộc kháng chiến: Đảng xác định lực lượng của cách mạng là
các giai cấp công nhâ, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ. Lực
lượng này đoàn kết dưới mặt trận Liên Việt và dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân.
Phương hướng của cuộc kháng chiến: Sau khi làm cách mạng Dân tộc dân chủ
nhân dân sẽ đưa đất nước quá độ đi lên Xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã dự báo được
trước hướng đi của đất nước sau này. Đó là đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, là chế
độ mà người dân được lên làm chủ, quản lí đất nước, để khơng cịn bất cơng như xã
hội Phong kiến - xã hội mà có những con người bị dìm dưới đáy xã hội.
Phương pháp của cuộc kháng chiến: Sử dụng lực lượng chính trị và lực lượng
vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang từng bước tấn cơng sinh
lực địch và lấy quyền làm chủ.
Đồn kết quốc tế: Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam với
các giai cấp tầng lớp công nhân và nông dân trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của
phong trào dân chủ nhân dân trên thế giới và Việt Nam phải giúp đỡ Lào, Campuchia
phát triển chiến tranh du kích. Việc giúp đỡ Lào, Campuchia phát triển chiến tranh du
kích sẽ làm cho quân Pháp phân tán lực lượng trên ba mặt trận. Từ đó, giúp cho ta dễ
dàng hơn trong việc đối phó với chúng.
Phương châm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: Toàn dân, toàn diện,
trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Kháng chiến toàn dân: Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là cuộc
cách mạng nhằm đánh đuổi bọn thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập chủ quyền,
thống nhất đất nước. Xuất phát từ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta, từ
quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của Chủ nghĩa Mác Lê - nin, từ
tư tưởng chiến tranh nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đó lực lượng vũ
trang nhân dân ba thứ quân, cùng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân qn du
kích làm nịng cốt. Để phát huy tối đa sức mạnh của toàn dân tộc, Đảng tổ chức, tập
hợp mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, đảng phái,…. cùng
tham gia một mặt trận dân tộc thống nhất (Mặt trận Việt Minh). Có lực lượng toàn dân
tham gia mới thực hiện được kháng chiến toàn diện và tự lực cùnh sinh. Xuất phát từ
tương quan lực lượng giữa ta và thực dân Pháp. Pháp là đội quân nhà nghề với nhiều
kinh nghiệm trên chiến trường, với vũ khí tối tân hiện đại. Cịn ta, sau cách mạng
thang Tám ta đã tổn hại khá lớn lực lượng cách mạng. Ngồi ra cịn xuất phát từ
truyền thống “toàn dân đánh giặc” của dân tộc ta từ thời dựng nước và giữ nước; từ
quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác - lenin, từ tư
tưởng “chiến tranh nhân dân” của chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ trương “kháng chiến
tồn diện” của Đảng ta.
Kháng chiến tồn diện: Vì địch khơng chỉ đánh ta trên mặt trận quân sự mà còn
đánh ta trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao nên ta phải thực
hiện cuộc kháng chiến toàn diện trên tất cả các lĩnh vực ấy. Ngoài ra kháng chiến toàn
diện cũng là điều kiện để thực hiện kháng chiến toàn dân. Do địch đánh ta toàn diện
nên ta phải chống lại toàn diện. Cuộc kháng chiến của ta bao gồm cuộc đấu tranh trên
tất cả các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục ngoại giao,…. nhằm phát
huy khả năng của mỗi người trên từng lĩnh vực, tạo ra sức mạnh tổng hợp. Về quân
sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, phát triển chiến tranh du kích. Về chính trị: Năm
1948, tại Nam Bộ, bầu cử Hội đồng Nhân dân cấp xã đến cấp tỉnh; Ở nhiều nơi, Hội
đồng Nhân dân và Ủy ban Kháng chiến hành chính các cấp được củng cố và kiện
tồn. Về kinh tế: Ta chủ trương phá hoại kinh tế của địch, xây dựng nền kinh tế tự cấp,
tự túc. Về văn hố, giáo dục: Tháng 7-1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo
dục phổ thông. Về ngoại giao: Ngày 14-1-1950, Chủ tịch Hồ Chỉ Minh tuyên bố sẵn
sàng đặt quan hệ ngoại giao với bất cứ nước nào tơn trọng độc lập, chủ quyền, thống
nhất và tồn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Sau đó, Trung Quốc, Liên Xô, lần lượt được
các nước dân chủ nhân dân khác công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta.
Đồng thời ta vừa kháng chiến vừa kiến quốc, tức là xây dựng chế độ mới nên phải
kháng chiến toàn diện.
Kháng chiến trường kì: So sánh lực lượng lúc đầu giữa ta và địch chênh lệch,
địch mạnh hơn ta nhiều về mọi mặt, ta chỉ hơn địch về tình thân và chính nghĩa. Do đó
ta phải có thời gian để chuyển hóa lực lượng làm cho địch yêu dân, phát triển lực
luợng của ta, tiến lên đánh bại kẻ thù. Thơng qua cuộc chiến đấu ở các đơ thị phía Bắc
vĩ tuyến 16 và Chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947 thấy rõ chủ trương đánh bại
kế hoạch “Đánh nhanh thắng nhanh”, buộc thực dân Pháp phải chuyển qua đánh lâu
đài của Đảng ta. Kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc ta là: Lấy ít đánh
nhiều, lấy ít chống mạnh, lấy chính nghĩa thắng hung tàn, truyền thống đánh giặc lâu
dài của dân tộc ta. Trường kỳ kháng chiến - nhằm đánh bại âm mưu đánh nhanh thắng
nhanh của thực dân Pháp và khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội của một số Đảng
viên.
Kháng chiến tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế: Mặc dù rất
coi trọng thuận lợi và sự giúp đỡ từ bên ngoài, nhưng vận mệnh của dân tộc ta phải do
nhân dân ta quyết định, phải dựa vào sức mạnh của ta, sự giúp đỡ bên ngoài chỉ là
điều kiện hỗ trợ Đảng và nhân dân nhận thức được rằng: Xây dựng nền chính trị, kinh
tế, giáo dục.... vững mạnh chính là tiềm lực để thực hiện kháng chiến tự lực cánh sinh.
Mặc dù vậy, Đảng ta luôn tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, sẵn sàng đặt quan hệ ngoại
giao với bất cứ nước nào tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam. Vì ta hiểu rõ mối quan hệ giữa các yếu tố chủ quan và khách quan,
trong đó yếu tố chủ quan giữ vai trị quyết định nhất. Bởi vì có nỗ lực chủ quan mới
phát huy hết sức mạnh của mình, mặc dù ta vẫn coi trọng sự hỗ trợ từ bên ngồi. Phải
đem sức ta mà giải phóng cho ta, tránh ỷ lại vào bên ngoài, đồng thời phải ra sức tranh
thủ sự ủng hộ của quốc tế với tinh thần “cứu bạn là tự cứu mình”, nên cuộc kháng
chiến của ta phải tự lực là chính.
Phải kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính
vì: Tồn dân kháng chiến: Đúng chủ trương sức mạnh tồn dân tộc bằng những hình
thức, biện pháp phong phú phù hợp để tổ chức cả nước thành một mặt trận, tạo nên
thế trận cả nước đánh giặc. Kháng chiến toàn diện nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp
của cuộc kháng chiến chống lại cuộc chiến tranh xâm lược trên tất cả các lĩnh vực,
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao, tạo thành sức mạnh tổng hợp. Kháng
chiến lâu dài nhằm làm cho những chỗ yếu cơ bản của địch ngày càng bộc lộ, chỗ
mạnh của địch ngày càng hạn chế, chỗ yếu của ta từng bước được khắc phục, chỗ
mạnh của ta ngày càng được phát hu. Tự lực cánh sinh là dựa vào sức lực của toàn
dân, và đường lối đúng đắn của Đảng vào các điều kiện thiên thời địa lợi, nhân hoà
của đất nước, đồng thời gia sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để
chiến thắng kẻ thù.
1.5. Ý nghĩa và tác dụng của đường lối kháng chiến chống Pháp
Toàn bộ đường lối kháng chiến thấm nhuần tư tưởng chiến tranh nhân dân sâu
sắc. Nó chứng tỏ cuộc kháng chiến của ta là chính nghĩa, nên được nhân dân ủng hộ.
Đường lối kháng chiến có tác dụng động viên, dẫn dắt nhân dân ta tiến hành
cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù phải trải
qua nhiều hy sinh gian khổ nhưng nhất định sẽ giành thẳng lợi.
Phần 2. Vận dụng đường lối kháng chiến chống Pháp (1946-1954) vào phát huy
sức mạnh toàn dân, toàn diện trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay
2.1. Vận dụng của Đảng về đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện trong bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù đất nước ta khơng cịn chiến tranh nhưng
phương châm kháng chiến toàn dân, toàn diện vẫn ln có giá trị và ý nghĩa sâu sắc;
đặc biệt Đảng ta đã kế thừa, vận dụng yếu tố tồn dân, tồn diện trong tiến trình đổi
mới đất nước, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế.
2.1.1. Đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên nền tảng
khối đại đoàn kết dân tộc
Sau mười năm đổi mới đất nước, tại Đại hội VIII (1996), Đảng ta nhận định:
nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu
của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho cơng nghiệp hóa đã cơ bản hồn thành cho
phép nước ta chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Nếu như thời kỳ trước đổi mới, cơng nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch
hóa tập trung của Nhà nước thì sang thời kỳ đổi mới cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường, gắn với phát triển kinh tế thị trường
không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế mà cịn sử dụng
chúng có hiệu quả để đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Điều này đã được khẳng định tại Đại hội IX (2001) của Đảng: “Trong thời kỳ
q độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai
cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã
hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan
hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp cơng
nhân thống nhất với lợi ích tồn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng
lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc
phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp
bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu
cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế
lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Động lực chủ yếu phát triển đất nước ta là đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”.
Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội XII (2016) của Đảng
tiếp tục nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn
lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục
tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn
trọng những điểm khác biệt khơng trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao
tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết
mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân
dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Như vậy, kế thừa truyền thống lịch sử dân tộc về phát huy sức mạnh toàn dân
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm; ngày nay, Đảng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo
về việc khơi dậy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong q trình đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong giai đoạn
mới.
2.1.2. Phát huy sức mạnh toàn dân xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh”, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống
nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu
chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Việc xác định mục tiêu này chính là sự vận dụng và phát triển sáng tạo yếu tố
toàn dân, toàn diện của Đảng ta trong phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới hiện nay.
Đảng xác định mục đích phát triển kinh tế là vì con người, nâng cao đời sống cho mọi
người, mọi người đều được hưởng thành quả của sự phát triển.
Để đạt được mục đích của sự phát triển, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh
tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm
năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền đất nước
nhằm phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế.
Trong quá trình phát triển kinh tế, yếu tố tồn dân, tồn diện cịn được thể hiện
rõ trong chủ trương của Đảng về việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề
xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Như vậy, nếu toàn dân, toàn diện trong kháng chiến chống thực dân Pháp nhằm
mục tiêu cuối cùng là phương châm đánh thắng kẻ thù xâm lược, giải phóng đất nước
thì ngày nay, việc huy động tiềm năng, thế mạnh trong các thành phần kinh tế với
nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh chính là sự vận dụng, kế thừa và phát triển sáng
tạo phương châm toàn dân, toàn diện của Đảng ta nhằm thúc đẩy nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển và thực hiện cho được mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2.2. Đánh giá sự vận dụng đường lối kháng chiến chống Pháp (1946-1954) vào
phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược xuyên suốt của cách
mạng nước ta; là quan hệ có tính quy luật trong truyền thống dựng nước đi đơi với giữ
nước của dân tộc. Vì thế, nhận thức đúng mối quan hệ này trong bối cảnh hội nhập
quốc tế hiện nay, làm cơ sở để chỉ đạo thực tiễn là vấn đề quan trọng, cấp thiết.
Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới về mối quan hệ
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng ta chỉ rõ:
“Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển của
cách mạng nước ta!”. Đây là sự khẳng định hết sức đúng đắn, có tính quy luật, trên cơ
sở lý luận và thực tiễn cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, cũng như trong
suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, xem xét dưới góc độ khoa học, nội dung của
quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không phải là một đại lượng bất biến, mà có
tính lịch sử, cụ thể và được xác định một cách phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của cách mạng. Chính vì thế, trong bối cảnh hiện nay, để tiếp tục thực hiện thắng lợi
trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải
làm sáng tỏ những nội dung mới về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa; trên cơ sở đó, tham mưu giúp Đảng, Nhà nước một số vấn đề phương
pháp luận trong hoạch định chủ trương, chính sách chiến lược, những chỉ đạo thực
tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.
2.3. Giải pháp nhằm nâng cao sự vận dụng đường lối kháng chiến chống Pháp
(1946-1954) vào phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện trong bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam hiện nay
Trước hết, cần nhìn nhận mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc diễn ra
trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, tiềm
ẩn nguy cơ khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và sự chi phối của họ
đối với các nước nhỏ, tạo nên sự xung đột về lợi ích, dẫn đến bất ổn về an ninh đối với
nhiều quốc gia, nhất là những nước có vị trí chiến lược quan trọng như Việt Nam. Ở
trong nước, mặc dù thế và lực, sức mạnh tổng hợp của nước ta tăng lên, uy tín quốc tế
của đất nước ngày càng được nâng cao.... song, vẫn cịn nhiều khó khăn, thách thức.
Những nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại và có mặt cịn trầm trọng hơn, nhất là
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, về “diễn biến hịa bình” và những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” cùng tệ quan liêu, nạn tham nhũng, lãng phí trong một bộ
phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên,….
Trong bối cảnh đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhìn nhận, vận dụng đúng
đắn, sáng tạo quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong kết hợp chặt chẽ giữa
kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế,
văn hóa, xã hội trong điều kiện mới. Để làm được diều đó, trước hết, phải hướng mối
quan hệ này vào để phịng những đột biến có thể xảy ra từ sự thoả hiệp của các nước
lớn, từ kinh tế, chính trị đến quốc phịng, an ninh, dẫn đến đe dọa chủ quyền, lãnh thổ
của Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phải cụ thể hóa nó trong giải
quyết, xử lý thắng lợi các tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ về biên giới trên bộ và trên
biển trước tham vọng của các nước lớn.
Trong tình hình hiện nay, mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải
đảm bảo tính tồn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, nhằm làm thất bại sự chống
phá ngày càng quyết liệt hơn, thâm độc hơn của các thế lực thù địch, nhất là các hoạt
động ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng, đợi thời cơ, xây dựng kế hoạch, chỉ đạo, tung
tiền của, vật chất nhằm xây đựng tổ chức chính trị đối lập để tạo ngọn cờ, nhen nhóm
lực lượng vũ trang phản động, tiến hành các hoạt động phá hoại, có sự tiếp tay của các
thế lực bên ngồi, hịng làm suy yếu Đảng, chờ thời cơ tiến hành bạo loạn, chia cắt đất
nước, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa theo ý đồ của chúng.
Thứ hai, giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nhất thiết
phải đặt trong tổng thể và không tách rời các mối quan hệ lớn khác đã được xác định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011). Đây là vấn đề rất quan trọng, vừa là kết quả, kinh nghiệm
của hơn 30 năm đổi mới vừa qua, đồng thời là phương hướng cơ bản cần thực hiện
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Cương lĩnh 2011 của Đảng xác định.
“phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn”. Chính vì
thế, việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược cần được đặt trong các
mối quan hệ lớn, đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa trong một tổng thể thống nhất.
Điều đó biểu hiện sự trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, thể hiện năng lực nắm chắc quy luật và vận dụng sáng tạo vào đặc
điểm, truyền thống dân tộc, nhiệm vụ cách mạng nước ta trong bối cảnh mới. Đó cịn
là mục tiêu, u cầu có tính sống cịn của cơng cuộc đổi mới và phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nưóc ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng. Theo đó, để giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
trong thời gian tới, chúng ta cần đẩy mạnh phối hợp hoạt động trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh và đối ngoại. Đồng thời, khẩn
trương hoàn thành quy hoạch tổng thể, phân vùng chiến lược trên từng khu vực, địa
bàn và cả nước, nhất là ở các địa bàn trọng diểm về kinh tế và quốc phòng, an ninh.
Như vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tổng thể
các mối quan hệ lớn khác sẽ có tác động chi phối đến mọi lĩnh vực của sự phát triển
đất nước, nhằm thực hiện mục tiên: bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội và dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển bền vững trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Trong đó, phát triển bền vững sẽ đáp
ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu
đó của các thế hệ tương lai, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh
tế, bảo đảm tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ
xa là sử dụng linh hoạt các kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ
sớm, từ xa; chủ động triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể
gây ra đột biến. Về khơng gian là bảo vệ từ bên ngoài biên giới lãnh thổ: về thời gian
là bảo vệ từ trước, phòng ngừa từ trước, chủ động chuẩn bị các điều kiện bảo vệ ngay
trong thời bình, khi đất nước chưa nguy, lấy việc phòng ngừa từ trước, chuẩn bị từ
trước làm chủ yếu.
Để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển bền vững trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, trước hết cần không ngừng nâng cao chất
lượng, hiệu quả sự tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá, giáo dục - đào tạo, khoa
học - công nghệ, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm cho đất nước và con
người Việt Nam phát triển một cách toàn diện, thể hiện tính ưu việt của sự nghiệp đổi
mới, của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đồng thời, cần
chủ động định hướng nhu cầu và sự lựa chọn giá trị văn hoá, phát triển các thiết chế
văn hố xứng đáng với vai trị là nền tảng tinh thần, động lực phát triển kinh tế - xã
hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Quan điểm bảo vệ
Tổ quốc từ sớm, từ xa địi hỏi có tầm nhìn chiến lược mới về quốc phòng - an ninh;
xây dựng lực lượng vũ trang với số lượng hợp lý, chất lượng tổng hợp cao khơng chỉ
để đối phó với chiến tranh, mà còn hướng tới mục tiêu cao hơn là ngăn ngừa và đẩy
lùi mọi nguy cơ dẫn đến chiến tranh. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi cấp ủy, tổ
chức Đảng cần nhận thức rõ và thấu suốt quan điểm đó.
Trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thời cơ và thách
thức đan xen, các thách thức về an ninh truyền thông và phi truyền thông,... đã, đang
và sẽ tác động nhiều chiều, diễn biến phức tạp, đòi hỏi mọi hoạt động liên quan đến
quá trình xây dựng, củng cố, phát triển bền vững phải đồng thời là q trình triển khai
các biện pháp phịng ngừa, bảo vệ, tự bảo vệ từ trước. Do đó, đi liền với các chiến
lược xây dựng, phát triển của mỗi lĩnh vực, ngành, vùng, tổ chức, con người cần triển
khai các chiến lược bảo vệ, tự bảo vệ bên trong phòng, chống, ngăn ngừa, triệt tiêu
các nhân tố phá hoại, mất ổn định bên trong lẫn bên ngoài, đảm bảo cho đất nước phát
triển nhanh, bền vững.
Thứ tư, giải quyềt tốt mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ về
quốc phòng, an ninh. Đây là vấn đề rất quan trọng, thể hiện sự phát triển mới về tư
duy lý luận của Đảng trong giải quyết mối quan hệ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
điều kiện mới. Đồng thời, đó cịn là cơ sở, nền tảng trực tiếp để chúng ta triển khai và
hồn thành thắng lợi nhiệm vụ cơng tác đối ngoại quốc phòng, an ninh trong giai đoạn
phát triển mới của cách mạng. Chúng ta biết, trên bình diện quốc gia, độc lập, tự chủ
về quốc phòng, an ninh là khi năng lực tự quyết định những vấn đề liên quan đến quốc
phòng, an ninh; là năng lực tự bảo vệ của đất nước trước các hành động xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, các quyền, lợi ích quốc gia, khả
năng chống lại sự can thiệp từ bên ngồi vào cơng việc nội bộ của đất nước,…. Trong
khi đó, q trình hội nhập quốc tế là quá trình tham gia và mở rộng các mối liên kết
quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, có nhiều cơ hội và thách thức đối với độc lập, tự chủ
của đất nước trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Vì thế, hội nhập quốc tế và độc lập, tự
chủ về quốc phòng, an ninh là hai mặt, lĩnh vực có quan hệ biện chứng với nhau; là
tiền đề cơ sở của nhau, tác động thúc đẩy cũng như phát triển. Trong đó, hội nhập
quốc tế tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, làm tiền đề vật chất cho việc tăng
cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đến lượt nó, độc lập, tự chủ về quốc
phòng, an ninh sẽ thúc đẩy hội nhập quốc tế đi đúng hướng, sâu rộng và đạt hiệu quả
thiết thực, bền vững. Q trình này khơng chỉ tăng cường niềm tin chiến lược đối với
các quốc gia, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, mà còn làm cho bất kỳ thế
lực nào muốn gây tổn hại đến độc lập, chủ quyền của Việt Nam đều gặp khó khăn, vì
khó lơi kéo các quốc gia vào các mưu toan chống Việt Nam cũng như gây tổn hại cho
nước ta mà không đụng chạm đến quyền lợi của các quốc gia khác.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế có thể bị các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề
về: “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, cùng sự “xâm lăng” văn hóa,... để
chống phá cách mạng nước ta, làm mất ổn định chính trị, gây bạo loạn lật đổ, ly khai
tại một số khu vực quan trọng của đất nước. Còn độc lập, tự chủ về quốc phòng, an
ninh nếu khơng có tầm nhìn chiến lược và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo sẽ dễ
dẫn tới xu hướng “cực đoan”, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Chính vì thế, việc
giải quyết tốt mối quan hệ này, địi hỏi chúng ta, một mặt, phải tích cực, chủ động hội
nhập quốc tế theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng, nhưng phải cảnh giác không
để bị kẻ địch lợi dụng hội nhập để chống phá, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”. Mặt khác, phải đẩy mạnh cơng tác đối ngoại quốc phịng theo chiều sâu, thực
chất cả trên bình diện song phương và đa phương, nhất là phát huy vai trò của các cơ
chế hợp tác đa phương về quốc phịng, an ninh. Trong tình hình mới, cơng tác đối
ngoại về quốc phịng, an ninh không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế xã hội, mà cịn phải đấu tranh giữ vững
mơi trường hịa bình, đồng thời, đáp ứng yêu cầu cho hợp tác quốc phòng, an ninh
ngày càng đa dạng với mức độ ngày càng cao trong quá trình đất nước hội nhập ngày
càng sâu, rộng vào khu vực và quốc tế. Chỉ có như vậy, chúng ta mới đạt hiệu quả cao
trong hội nhập mà vẫn đảm bảo độc lập, tự chủ của đất nước.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự biểu hiện
sâu sắc quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã
hội. Đó là mối quan hệ chiến lược, chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong
tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc và giải quyết
thành công mối quan hệ ấy. Nhờ đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ
và nỗ lực của các tầng lớp nhân dân mới và phát triển đất nước đã đạt được những
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, khẳng định con đường tất yếu đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta; lấy phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát
triển văn hóa - nền tảng tinh thần cùng xã hội, củng có quốc phòng, an ninh là nhiệm
vụ trọng yếu, thường xuyên. Theo đó, khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì khơng một lúc nào được lơ là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Điều đó phù
hợp với thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong xu thế phát triển của thế giới đương
đại.
KẾT LUẬN
Như vậy có thể nói, Đường lối kháng chiến chống Pháp đã thể hiện sự lãnh đạo
tài tình, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, bám sát tình hình thực tiễn,
nắm vững thời cơ, chọn đúng mặt trận chính, tính tốn thời điểm nổ súng chính xác,
biến bị động thành chủ động, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện
giam chân quân địch hai tháng, để nhà nước chuyển vào kháng chiến thường kỳ.
Đường lối ấy đã thấm nhuần tư tưởng chiến tranh nhân dân, mang tính chất chính
nghĩa nên được nhân dân ủng hộ. Nó cịn là ngọn cờ đoàn kết, động viên toàn dân
đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Với con đường cứu ước là con đường Cách mạng vô sản, quyền lợi dân tộc gắn
liền với quyền lợi giai cấp, những lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng được
hưởng ứng mạnh mẽ, dấy lên cao trào thi đua yêu nước, phục vụ tiền tuyến, một sức
mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân Việt Nam đánh giặc lập cơng. Do tầm hiểu
biết của em cịn hạn chế và chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc viết tiểu luận nên
khó có thể tránh khỏi có những sai sót trong bài. Một lần nữa em kính mong cô và các
bạn trong lớp sẽ thẳng thắn chỉ ra những lỗi sai để em có cơ hội tiến bộ hơn, rút kinh
nghiệm trong những lần tới. Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản
Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009.
2. Hội đồng biên soạn giáo trình quốc gia các mơn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà
Nội, 2004.
3. ThS. Trương Ngọc Thơi, Bồi dưỡng học sinh giỏi lịch sử lớp 12, Nxb ĐHQG
Hà Nội.
4. “Chỉ thị của BCH trung ương Đảng về kháng chiến - kiến quốc, ngày
25/11/1945”, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8 (tr. 21 - 34), Nxb. CTQG, Hà Nội,
2000.
5. “Chỉ thị hoà để tiến” của Ban thường vụ BCH trung ương Đảng ngày 9/3/1946,
Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8 (tr. 48 - 56), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.
6. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946”, Văn kiện Đảng toàn
tập, Tập 8 (tr.160 - 161), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.