VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI
KIỂM TRA HẾT KỲ I
LUẬT HÌNH SỰ PHẦN CHUNG
ĐỀ TÀI
“Phân tích giai đoạn phạm tội chưa đạt và các cách phân loại phạm tội
chưa đạt?”.
Học viên:TẠ MẠNH HƯỞNG
SBD: TKS000007
Lớp: VB2-K2
Hà Nội, năm 2021
MỤC LỤC
Trang
MỤC 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các giai đoạn phạm tội là những bước trong quá trình thực hiện tội phạm do
cố ý. Các giai đoạn phạm tội khác nhau chính là ở những yếu tố khách quan của
hành vi phạm tội - tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thời điểm chấm dứt
của những hành vi đó, cũng như mức độ thực hiện ý định phạm tội của chủ thể. Tội
phạm là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà
nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng
[1].
Cho
nên, để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, Nhà nước đã quy định những hành
vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự (và hình
phạt) đối với những người đã thực hiện các hành vi đó. Tội phạm được quy định
trong Bộ luật hình sự là do có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm không những là một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản, mà
cịn là thuộc tính khách quan, tất yếu và thể hiện bản chất xã hội - pháp lý của từng
hành vi phạm tội cụ thể.
Phạm tội chưa đạt là một vấn đề hẹp và thuộc chế định các giai đoạn phạm
tội, đồng thời nó cũng có liên hệ mật thiết đến nhiều quy phạm và chế định khác
trong luật hình sự như: tội phạm, hình phạt, trách nhiệm hình sự, chuẩn bị phạm
tội, tội phạm hoàn thành, tội phạm kết thúc, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội; v.v... Do vậy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh vấn đề phạm tội
chưa đạt cũng đòi hỏi cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, đầy
đủ và sâu sắc hơn.
Vì đây là đề tài với một thời lượng nghiên cứu hạn hẹp và kiến
thức cịn hạn chế nên trong bài sẽ có nhiều chỗ cịn thiếu sót rất mong
được sự góp ý của q thầy (cơ) để bài làm hay và hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
MỤC 2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1
KHÁI NIỆM PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT
Tội phạm diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho xã hội
cũng khác nhau, việc thực hiện tội phạm do cố ý trong nhiều trường hợp nó là một
q trình thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm cụ thể. Bởi vì,
để thực hiện một tội phạm trong nhiều trường hợp người phạm tội phải tiến hành
từng bước, dần từng bước một, chẳng hạn như: chuẩn bị công cụ, phương tiện
phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi liền kề và dần thực hiện hành vi phạm tội;
v.v...
Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được
đến cùng vì những ngun nhân ngồi ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
Căn cứ quy định trên có thể rút ra các dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội
chưa đạt sau đây:
a. Về mặt khách quan, phạm tội chưa đạt bao gồm các dấu hiệu sau:
Dấu hiệu thứ nhất, phạm tội chưa đạt là một giai đoạn phạm tội chưa hoàn
thành thứ hai trong các giai đoạn phạm tội do cố ý trực tiếp;
Dấu hiệu thứ hai, chủ thể đã bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội được quy
định trong cấu thành tội phạm. Nói một cách khác, hành vi phạm tội chưa đạt đã
xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ [2];
Dấu hiệu thứ ba, chủ thể chưa thực hiện hoặc không thực hiện được hành vi
phạm tội đến cùng, có nghĩa hành vi của người này chưa thỏa mãn đầy đủ các dấu
4
hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm là do ngun nhân khách quan
khác nhau nào đó ngồi ý muốn chủ quan của người phạm tội. Cơ sở để xác định
một người đã thực hiện tội phạm đến cùng (tội phạm hồn thành hay khơng thực
hiện được tội phạm đến cùng (phạm tội chưa đạt) là ở chỗ hành vi của một người
đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể hay chưa.
- Trường hợp thứ nhất, nếu một người thực hiện hành vi thỏa mãn hết các dấu
hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự thì
hành vi của người đó được coi là đã thực hiện đến cùng.
- Trường hợp thứ hai, ngược lại, một người thực hiện hành vi chưa thỏa mãn
hết các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ
luật hình sự do những ngun nhân ngồi ý muốn thì được coi là chưa thực hiện tội
phạm đến cùng. Theo đó, các ngun nhân ngồi ý muốn này có thể là do người bị
hại hoặc những người khác phát hiện thấy hành vi phạm tội chưa đạt đã ngăn cản
việc tội phạm không thực hiện được đến cùng; do thời tiết hoặc những điều kiện tự
nhiên khác cản trở mà tội phạm không thực hiện được đến cùng; do những nguyên
nhân khách quan thuộc về bản thân người phạm tội mà tội phạm không thực hiện
được đến cùng (sai lầm về đối tượng tác động của hành vi tội phạm hay sử dụng
nhầm công cụ, phương tiện phạm tội, sự không thành thạo trong hành động, tính
cẩu thả, hấp tấp, vội vàng khi hành động phạm tội...). Do đó, chưa thực hiện tội
phạm đến cùng có thể xảy ra ở những dạng điển hình mà thực tiễn xét xử vẫn thừa
nhận như sau:
+ Chủ thể của tội phạm chưa thực hiện được hành vi khách quan được mô tả
trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm mà chỉ mới thực hiện được hành vi
đi liền trước hành vi phạm tội (kết quả).
Ví dụ: Người phạm tội hiếp dâm chỉ mới thực hiện được hành vi dùng vũ lực
mà chưa thực hiện được hành vi giao cấu trái ý muốn với nạn nhân đã bị mọi người
xung quanh bắt giữ.
5
+ Chủ thể của tội phạm đã thực hiện được hành vi phạm tội (kết quả) nhưng
chưa gây ra hậu quả của tội phạm như trong điều luật trong Phần các tội phạm của
Bộ luật hình sự quy định.
Ví dụ: Người phạm tội giết người đã đâm được nạn nhân nhưng do có người
phát hiện và đưa nạn nhân đến bệnh viện cấp cứu và do được cấp cứu kịp thời nên
nạn nhân không chết.
+ Chủ thể của tội phạm đã thực hiện được hành vi phạm tội (kết quả) nhưng
chưa thực hiện hết.
Ví dụ: người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm, chỉ khống chế và trói được
nạn nhân nhưng chưa thực hiện được hành vi giao cấu thì bị bắt giữ.
+ Hậu quả thiệt hại tuy đã xảy ra nhưng nó khơng có quan hệ nhân quả đối
với hành vi khách quan mà chủ thể thực hiện nhưng đó khơng phải là hậu quả mà
người phạm tội mong muốn từ trước.
Ví dụ: Người phạm tội giết người đã đâm nạn nhân nhưng trước đó nạn nhân
đã chết vì một lý do khác [3].
Dấu hiệu thứ tư, hậu quả của tội phạm mà người phạm tội mong muốn đạt
được đã khơng xảy ra hoặc nếu có thể xảy ra thì chưa thỏa mãn với hậu quả được
quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm tương ứng trong Phần các
tội phạm Bộ luật hình sự.
b. Về mặt chủ quan, phạm tội chưa đạt bao gồm hai dấu hiệu cơ bản như sau:
Dấu hiệu thứ nhất, lỗi của người phạm tội trong giai đoạn này là cố ý trực
tiếp, vì khoa học luật hình sự đã thống nhất, về mặt lập pháp hình sự đã ghi nhận
trong Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 29 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, đồng
6
thời thực tiễn xét xử đã thừa nhận - chỉ có lỗi cố ý trực tiếp mới tồn tại các giai
đoạn phạm tội;
Dấu hiệu thứ hai, mục đích phạm tội là mong muốn thực hiện hoàn thành
hành vi phạm tội và mong muốn cho hậu quả của tội phạm xảy ra, nhưng hậu quả
không xảy ra đúng theo các dự định của người phạm tội.
Tóm lại, căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và kết hợp
với thực tiễn áp dụng, cũng như dựa trên các đặc điểm (dấu hiệu) thể hiện trên các
mặt khách quan và mặt chủ quan: Phạm tội chưa đạt là giai đoạn tiếp sau chuẩn bị
phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp, khi một người đã bắt
đầu thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ nhưng khơng thực hiện được hành vi đó đến cùng vì những ngun nhân
khách quan ngồi ý muốn của người đó ngăn cản.
2
PHÂN LOẠI PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT
Phân loại các trường hợp phạm tội chưa đạt được hiểu là chia tất cả các
trường hợp phạm tội chưa đạt thành các nhóm khác nhau dựa trên cơ sở một căn cứ
xác định nhằm vào những mục đích nhất định, cũng như để phân hóa trách nhiệm
hình sự và cá thể hóa hình phạt, bảo đảm hình phạt được áp dụng đối với người
phạm tội tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ở
từng thời điểm khác nhau trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý.
Mặt khác, phân loại các trường hợp phạm tội chưa đạt cịn có ý nghĩa lớn
trong việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ
thể hiện ý định phạm tội từ đó đưa ra những biện pháp xử lý phù hợp. Các trường
hợp phạm tội chưa đạt có thể được phân chia bằng nhiều cách khác nhau dựa trên
các căn cứ khác nhau tùy theo mục đích của sự phân loại chứ khơng nhất thiết phải
dựa trên cơ sở của một căn cứ nhất định.
a. Căn cứ vào mục đích thực hiện
7
Căn cứ vào mục đích thực hiện ý định phạm tội mà người phạm tội dự định
thực hiện phạm tội chưa đạt. Theo căn cứ này, có thể được chia thành phạm tội
chưa đạt thành hai dạng như sau: Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội
chưa đạt đã hoàn thành.
+ Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành
Là trường hợp phạm tội chưa đạt trong đó người phạm tội chưa thực hiện hết
tất cả các hành vi thuộc mặt khách quan trong cấu thành tội phạm và hậu quả của
tội phạm chưa xảy ra.
Ví dụ: A muốn B chết, A dùng dao đâm vào ngực, đầu B nhưng B đã kịp thời
tránh được và chỉ bị thương nhẹ ở vai.
Như vậy, trong trường hợp này, người phạm tội nhận thức được rằng mình đã
khơng thực hiện được tất cả những hành vi cần thiết để hoàn thành tội phạm. Đây
là trường hợp chưa hoàn thành về hành vi và cũng chưa đạt được hậu quả.
+ Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành
Là trường hợp phạm tội chưa đạt nhưng người phạm tội đã thực hiện hết các
hành vi mà họ tin chắc rằng đó là hành vi cần thiết để gây ra hậu quả nhằm đạt
được mục đích của họ, đã có sự tính tốn trước khi thực hiện hành vi phạm tội và
thực tế họ đã thực hiện đầy đủ hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội
phạm.
Ví dụ: C muốn giết D nên quyết tâm dùng dao chém liên tiếp vào đầu và ngực
của D, thấy D ngã nằm bất động, C nghĩ là D đã chết nên không chém nữa và bỏ đi
nhưng do D được cấp cứu kịp thời nên không chết.
Trong trường hợp này, người phạm tội tin là hành vi của mình đã gây ra hậu
quả chết người như mình mong muốn. Như vậy, người phạm tội đã hành động như
ý muốn và tin là hậu quả sẽ xảy ra nhưng hậu quả không xảy ra, trường hợp này
8
người phạm tội dừng lại hành vi của mình mặc dù khơng có gì ngăn cản nhưng
cũng khơng được coi là tự nguyện nửa dừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm và
người phạm tội đã hoàn thành về hành vi nhưng chưa hoàn thành về hậu quả.
Trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là người phạm tội đã kết thúc hành vi
phạm tội của mình và cho rằng những hành vi đó đã đủ và cần thiết để gây ra hậu
quả của tội phạm, ý thức chủ quan của người phạm tội cũng tin rằng hậu quả tội
phạm tất yếu sẽ xảy ra. Trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, người
phạm tội chưa kết thúc hành vi của mình, trong trường hợp ý thức chủ quan của họ
cũng biết rằng hành vi của mình chưa đủ để gây ra hậu quả của tội phạm. So với
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt chưa hồn thành thì phạm tội chưa đạt đã
hồn thành có mức độ thực hiện tội phạm gần nhất với tội phạm hồn thành. Vì
vậy, phạm tội chưa đạt đã hồn thành có mức độ nguy hiểm nhất trong các trường
hợp phạm tội chưa đạt. Bởi lẽ, một người đã thực hiện hết hành vi mặt khách quan
của cấu thành tội phạm mà hậu quả vẫn không xảy ra hoặc hậu quả xảy ra nhưng
đó khơng phải là ý muốn của người phạm tội. Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành bao
giờ cũng nguy hiểm cho xã hội hơn trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hồn
thành, vì người phạm tội chưa thực hiện hết hành vi mà mình có ý định thực hiện.
Do đó, trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành
phải nghiêm khắc hơn đối với phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.
b. Căn cứ nguyên nhân dẫn đến phạm tội
Căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến phạm tội chưa đạt, khoa học luật hình sự
cịn phân chia thành phạm tội chưa đạt vô hiệu với các trường hợp chưa đạt do các
nguyên nhân khác.
+ Phạm tội chưa đạt vô hiệu
Là trường hợp phạm tội chưa đạt mà nguyên nhân khách quan dẫn đến chưa
đạt gắn liền với công cụ, phương tiện phạm tội chưa đạt và đối tượng tác động của
tội phạm phạm tội chưa đạt vô hiệu được thể hiện ở hai trường hợp sau:
9
Trường hợp thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi nhằm gây thiệt hại cho khách
thể nhưng thực tế không gây thiệt hại được vì khơng có đối tượng tác động.
Ví dụ: đột nhập vào nhà người khác để ăn trộm nhưng khi vào thì khơng có đồ
gì giá trị để lấy.
Hoặc đối tượng tác động của tội phạm không có tính chất mà người phạm tội
mong muốn.
Ví dụ: đưa hối lộ cho người tưởng là có chức vụ, quyền hạn nhưng thực tế
người đó khơng có chức vụ, quyền hạn; v.v...
Trường hợp thứ hai, người phạm tội đã sử dụng nhầm cơng cụ, phương tiện
mà người đó muốn. Trường hợp này, phương tiện mà người đó sử dụng lại khơng
có khả năng gây ra hậu quả của tội phạm đó.
Ví dụ: A đầu độc B nhưng do thuốc độc là giả (hoặc kém chất lượng) nên B
không chết.
Tuy nhiên, trường hợp này cũng cần được phân biệt với những trường hợp mà
chủ thể sử dụng những phương tiện rõ ràng là không thể gây thiệt hại được, như
trường hợp một người vì mê tín nghe lời thầy bói mà đã bỏ bùa để giết người khác.
Nguyên nhân dẫn đến phạm tội chưa đạt vô hiệu là nguyên nhân khách quan,
khơng phụ thuộc vào ý chí của người phạm tội, trách nhiệm hình sự đối với phạm
tội chưa đạt vơ hiệu được xác định như trong những trường hợp phạm tội chưa đạt
khác trên những cơ sở chung. Ngoài ra, cịn trường hợp chưa đạt do các ngun
nhân khác khơng thuộc các trường hợp trên. Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối
với người thực hiện hành vi trong giai đoạn phạm tội chưa đạt vô hiệu được xác
định như trong những trường hợp phạm tội chưa đạt khác trên những cơ sở chung.
Bên cạnh đó, dưới góc độ khoa học, GS.TSKH. Lê Văn Cảm (Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội) còn chỉ ra ba trường hợp phạm tội chưa đạt thường gặp
trong thực tiễn xét xử là [4]:
10
Trường hợp thứ nhất, trường hợp phạm tội chưa đạt với lỗi cố ý khơng xác
định - trong đó căn cứ vào hậu quả thực tế đã xảy ra đến đâu thì phải chịu trách
nhiệm hình sự đến đó, vì hậu quả xảy ra dù đến mức độ nào cũng là do sự cố ý của
người phạm tội mong muốn đạt được (đây là trường hợp phổ biến nhất).
Trường hợp thứ hai, trường hợp phạm tội chưa đạt với lỗi cố ý xác định (lựa
chọn) - trong đó trách nhiệm hình sự chỉ có thể có khi nào người phạm tội gây nên
hậu quả ít nghiêm trọng hơn trong số hai (hoặc nhiều hơn) hậu quả do người này
mong muốn đạt được.
Ví dụ: A mong muốn giết B mà nếu khơng giết được thì gây thương tích cho
B cũng được, và thực tế là do những nguyên nhân khách quan xảy ra ngoài ý muốn
của A (cái chết của B) nên hậu quả thứ hai đã xảy ra - B chỉ bị gây thương tích
nặng và trong trường hợp này A vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi
phạm tội giết người (chưa đạt) - là tội phạm thứ nhất mà hắn dự định thực hiện
(nhưng chưa hoàn thành).
Trường hợp thứ ba, trường hợp phạm tội chưa đạt với lỗi cố ý xác định, trong
đó đã xảy ra hậu quả ít nghiêm trọng hơn hậu quả nghiêm trọng mà người phạm tội
mong muốn đạt được, nhưng người này phải chịu trách nhiệm hình sự đối với cả
hành vi phạm tội chưa đạt để gây nên hậu quả nghiêm trọng.
Ví dụ: A đốt nhà của B và mong muốn giết B đang nằm ngủ trong đó, nhưng
B được những người hàng xóm cứu khỏi ngọn lửa đang bén đến gần giường ngủ
nên còn sống, trong trường hợp này A phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành
vi phạm nhiều tội, tức là không những chỉ đối với tội thứ nhất - tội cố ý hủy hoại
tài sản, mà còn đối với cả tội thứ hai nữa - tội giết người (nhưng chưa đạt).
11
MỤC 3
KẾT LUẬN
Việc xác định giai đoạn phạm tội và phân loại phạm tội chưa đạt theo các tiêu
chí này hay tiêu chí khác có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc xác
định đúng đắn và chính xác trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm cá
thể hóa trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với họ có căn cứ, cơng
minh và đúng pháp luật. Đặc biệt, việc phân biệt phạm tội chưa đạt chưa hoàn
thành và phạm tội chưa đạt đã hồn thành cịn có ý nghĩa xác định các điều kiện
12
của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Trên cơ sở đó, các nhà làm luật sẽ có
những biện pháp đấu tranh phịng, chống có hiệu quả đối với mọi hành vi phạm tội
được thực hiện dù đã hồn thành hay chưa hồn thành, qua đó bảo vệ các quan hệ
xã hội không để cho tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1,4] Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần
chung), Sách chuyên khảo Sau đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội –
Tr 287; Tr 444,445;
[2] Trịnh Tiến Việt (2009), "Về phạm tội chưa đạt và các hình thức phạm tội khác
trong quá trình thực hiện tội phạm" – Tr 127;
13
[3] ng Chu Lưu (Chủ biên) (2008), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999, tái bản có sửa chữa, bổ sung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – Tr
58;
14