Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Thực trạng sử dụng mạng internet của sinh viên” (nghiên cứu trường hơp̣ sinh viên khoa khoa học xã hội – trường đại học quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.6 KB, 42 trang )

MỤC LỤC

1


DANH MỤC BẢNG

2


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh thời đại công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ, Internet đã
có mặt ở Việt Nam và tạo nên nhiều thay đổi lớn trong đời sống kinh tế, chính trị, xã
hội. Đặc biệt hơn nữa, Mạng internet hiện nay không chỉ phổ biến ở khu vực đô thị mà
nó đã lan nhanh phủ sóng rộng khắp ở các khu vực nông thôn và miền núi.
Theo số liệu mới được công bố bởi Tổ chức thống kê số liệu Internet quốc tế
(Internet world stats), tính đến hết tháng 6/2015, Việt Nam đã có 45,5 triệu người dùng
internet, đạt mức thâm nhập/dân số là 48%. Số lượng người dùng nói trên bao gồm
người truy cập internet ở tất cả các phương tiện hỗ trợ (PC, laptop, điện thoại…).
Với con số này, Việt Nam đang được xếp thứ 6 trong khu vực châu Á về số
lượng người dùng, sau Trung Quốc (674 triệu), Ấn Độ (354 triệu), Nhật Bản (114,9
triệu), Indonesia (73 triệu), Philippines (47,1 triệu) và đứng thứ 17/20 quốc gia có
lượng người dùng internet nhiều nhất thế giới. Người Việt Nam online 5 giờ đồng hồ
bằng các thiết bị vi tính để bàn và gần 3 tiếng đối với các thiết bị di động. Trung bình
việc truy cập và sử dụng các trang mạng xã hội chiếm 2 giờ thời gian sử dụng. Với


45% dân số sử dụng internet tức 41 triệu người dùng. Trong đó có khoảng 30 triệu
người sử dụng các trang mạng xã hội và số người đang dùng các mạng này trên di
động là 26 triệu người. Thống kê cho thấy, người Việt Nam tốn tới hơn 5 tiếng mỗi
ngày để lên mạng đối với người dùng máy tính và gần 3 tiếng với người dùng điện
thoại. Hầu hết khoảng thời gian này đều được dùng vào các mạng xã hội. Tổng thời
gian trung bình mà một người Việt Nam truy cập vào mạng xã hội trong ngày là 2
tiếng.
Trong báo cáo mới nhất của Marketer chỉ ra rằng, ở Việt Nam có 40% lượng
người truy cập trực tuyến có độ tuổi từ 15 đến 24. Điều này đặt ra cho chúng ta một
câu hỏi đó là: Việc sử dụng internet có mối liên hệ như thế nào với đời sống của giới
trẻ hiện nay. Đặc biệt, sinh viên là nhóm dân số xã hội đặc thù, là các trí thức trẻ tuổi
trong xã hội, họ là những người năng động và nhạy bén nhất với sự phát triển của công
nghệ, cũng như internet. Nhận thấy Internet có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
của sinh viên hiện nay, tác giả đã chọn vấn đề:“Thực trạng sử dụng mạng internet
của sinh viên” (Nghiên cứu trường hơpp̣ sinh viên Khoa Khoa học xã hội – Trường Đại
học Quảng Bình) làm đề tài thực tập với mong muốn cung cấp những thông tin mới
nhất, những số liệu cập nhật nhất về thực trạng sử dụng internet của sinh viên, để từ đó
đề xuất những định hướng đúng đắn đối với việc sử dụng internet sao cho internet ln
là cơng cụ, người bạn hữu ích của thanh niên nói chung và sinh viên nói chung.

4


2. Tổng quan
Trước sự phổ biến của mạng Internet trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói
riêng, những nghiên cứu về Internet và ảnh hưởng của Internet được quan tâm rất
nhiều trong những năm gần đây:
Những nghiên cứu về mạng Internet và thực trạng sử dụng mạng Internet:
Đề tài: “Nghiên cứu hành vi sử dụng mạng internet của thanh thiếu niên Hà
Nội” Đề án môn học Khoa Maketing (2010) của tác giả Trần Phương Thùy cho thấy

mức độ thường xuyên sử dụng mạng internet của giới trẻ Hà Nội. Đối tượng sử dụng
internet nhiều lần/ngày chiếm tỷ lệ cao nhất 35.9%, đối tượng sử dụng 1 lần/ ngày
chiếm 31.4% điều này cho thấy giới trẻ vào mạng internet với cường độ khá cao.
Trong đó giới trẻ online nhiều nhất vào khoảng thời gian 20h -24h là 33.5% và khoảng
14h – 18h là 21.9%. Tần suất và thời gian online của giới trẻ phụ thuộc rất nhiều vào
thời gian sinh hoạt tại gia đình và nhà trường. Sinh viên đại học được tự lập hơn về
cuộc sống và học tập do đó thời lượng truy cập mạng internet nhiều hơn đáng kể so
với học sinh. Với sự phát triển của cơng nghệ với các loại hình giải trí, tin tức…đã thu
hút được sự quan tâm lớn của giới trẻ vào việc truy cập internet do đó vài năm gần
đây số lượng giới trẻ truy cập một cách thường xuyên tăng lên mạnh mẽ. Hoạt động
của giới trẻ khi truy cập internet, Thanh thiếu niên phần lớn đều biết Internet là một
nguồn thơng tin và giải trí. Họ sử dụng Internet làm phương tiện giải trí nhiều hơn để
tìm kiếm thơng tin. Phần đơng (68,7%) có sử dụng Internet để tán gẫu và 61,4% sử
dụng máy tính/ Internet để chơi trò chơi điện tử trực tuyến và 100% người đang sử
dụng internet được hỏi đều sử dụng internet để liên lạc với người khác (chat và email).
Giới sinh viên quan tâm nhiều hơn tới các tin tức online và khai thác tài nguyên
internet nhiều hơn giới học sinh, bởi họ có trình độ hay sự hiểu biết nhiều hơn. 35%
người tham gia vào các forum, viết blog và các mạng xã hội lớn tại Việt Nam. Đề tài
mới dừng ở việc mô tả thực trạng sử dụng internet của giới trẻ ở Hà Nội mà chưa đi
sâu vào phân tích các nguyên nhân dẫn đến thực trạng này.
Bài viết “Thực trạng sử dụng Internet của thanh thiếu niên Việt Nam” (Nguồn:
Tạp chí VHNT số 407-2017, Nguyễn Thị Lan Hương) tập trung vào thực trạng mục
đích sử dụng internet của giới trẻ sau 10 năm Internet du nhập vào Việt Nam với
những lợi bất cập hại về các hình thức giải trí và liên hệ trên thế giới ảo. Bài viết cho
thấy thanh thiếu niên đang quá thiếu định hướng để biết và thấy cần khai thác những
mặt tích cực của thế giới ảo như thế nào. Qua đó có thể thấy xu hướng tập trung sự chú
ý của giới trẻ là những trị giải trí mới lạ và bắt mắt, những trào lưu trong từng thời
điểm. Đặc biệt một phần lớn giới học sinh bắt đầu tìm đến internet là để trò chuyện,
tán gẫu với bạn bè qua các cửa sổ chat thay vì tìm hiểu về trình duyệt web. Bài viết chỉ
tập trung vào 1 khía cạnh là mục đích sử dụng internet của giới trẻ tại Việt Nam.

5


Những nghiên cứu về tác động của Internet
Môt trong những nghiên cứu về tác động của mạng internet đến đời sống phải kể
đến Chương:“Tác động của Internet đến lối sống của sinh viên” của Nguyễn Quý
Thanh. (Nguyễn Quý Thanh – Internet-sinh viên-lối sống: Nghiên cứu xã hội học về
phượng tiện truyền thông kiểu mới, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011).
Tác giả đã chỉ ra Internet là một phương tiện truyền thơng kiểu mới, có tác động đa
chiều, thậm chí trái ngược nhau đến hoạt động học tập, giải trí và định hướng giá trị
của sinh viên Viêt Nam hiện nay. Qua Internet nó làm cho lối sống của sinh viên Việt
Nam trở nên năng động, hướng ngoại nhiều hơn, định hướng giá trị mang tính tự do
hơn các thế hệ sinh viên trước kia.
Nghiên cứu “Sinh viên và mạng xã hội Facebook: Một phân tích về sự tiến triển
vốn xã hội” (Khảo sát tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Trường
Học viện Cơng nghệ Bưu chính Viễn thơng) - Luận văn thạc sỹ chuyên ngành xã hội
học năm 2014 của Đoàn Thùy Dương. Luận văn đã chỉ ra một số tác động của
Facebook đến quá trình tiến triển vốn xã hội của sinh viên hiện nay. Thơng qua việc
tìm hiểu mạng xã hội Facebook và tiếp cận các lý thuyết về tương tác xã hội, luận văn
đã phân tích tình hình sử dụng mạng xã hội facebook trong sinh viên, đồng thời chỉ ra
những hiệu quả dương tính, âm tính, ngoại biên của việc sử dụng Facebook đến tương
tác xã hội của sinh viên. Những dẫn chứng từ thực tiễn đã khẳng định sức ảnh hưởng
mạnh mẽ của mạng xã hội này đến thói quen, lối sống của sinh viên. Khi tham gia vào
Facebook, được tiếp xúc, trao đổi, tương tác với các nhóm đối tượng khác nhau sẽ
giúp cho sinh viên thắt chặt thêm các mối quan hệ đối với các đối tượng và trong các
nhóm nhỏ hoặc nhóm lớn mà họ tham gia để cùng nhau chia sẻ các thông tin một cách
hiệu quả và tối đa, giúp tạo ra một mạng lưới quan hệ xã hội vững chắc để quá trình
tiến triển vốn xã hội của sinh viên trên Facebook được hiệu quả hơn. Facebook ảnh
hưởng đến đời sống của sinh viên trong rất nhiều lĩnh vực. Sinh viên thường chịu tác
động của các thông tin trên Facebook về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,

học tập… Tuy nhiên tùy từng thơng tin mà có những mức độ ảnh hưởng và tác động
đến mỗi sinh viên. Sinh viên những năm đầu tiên có mức độ bị ảnh hưởng bởi các
thông tin trên Facebook nhiều hơn sinh viên những năm cuối. Bên cạnh những mặt
tích cực, việc sử dụng Facebook sẽ tạo nên những hệ quả tiêu cực đối với đời sống
thực của sinh viên như: giảm khả năng giao tiếp thực, dễ bị ảnh hưởng bởi những dư
luận trên mạng, giảm khả năng xử lý tình huống, khó chia sẻ các vấn đề của mình
trong thực tế, tương tác trong thế giới ảo có thể làm mờ đi con người thật, ảnh hưởng
đến tâm lý khẳng định mình, khả năng hồn thiện bản thân trong thực tế. Facebook
dần làm thay đổi thói quen tương tác của sinh viên, trong đó có nhiều thói quen tốt bị

6


mất đi và thay vào đó là những thói quen không tốt và ảnh hưởng đến các vấn đề tiêu
cực tới sinh viên.
Một nghiên cứu về hệ quả tiêu cực của mạng xã hội được đề cập trong cuốn sách
The Net Delusion (Ảo tưởng trên mạng) của Evgeny Morozov (2012) đã đưa ra những
lập luận chỉ trích các trang mạng xã hội bằng cách cập nhật “status” hoặc trang hoàng
cho trang cá nhân của mình thay vì tham gia vào các hoạt động thực sự. Theo ông,
mạng xã hội đang khiến con người trở nên chây lười và sống trong sự ảo tưởng rằng
hành vi kích chuột bấm “like” cũng tương đương với việc tham gia một hoạt động
nhân đạo cần đến sự đóng góp tiền bạc và thời gian.
Với cách nhìn nhận từ chiều cạnh mối quan hệ giữa Internet, mạng xã hội với
vốn xã hội, nghiên cứu “social Networking Sites: Their Users and Social ImplicationsA longitudinal Study” (2012) của Petter Bae Bradtzaeg đã khảo sát người sử dụng trực
tuyến tại Na Uy với số lượng mẫu là 2000 người nằm trong độ tuổi từ 15 đến 75 tuổi.
Nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng, có sự khác biệt đáng kể về vốn xã hội giữa nhóm
khơng sử dụng mạng xã hội và nhóm có sử dụng trên ba khía cạnh: giao tiếp mặt đối
mặt, số người quen và vốn bắc cầu.
Nghiên cứu “Computer Networks As Social Networks: Collaborative work.
Telework and Virtual community” (1996) của Barry Wellman và các cộng sự đã đề cập

đến mạng máy tính như một mạng xã hội, là khơng gian để hình thành các cộng đồng
ảo, nó làm thay đổi cách thức làm việc, tương tác với nhau giữa các công dân.
Tại Việt Nam, mạng Internet hiện nay khơng cịn là điều xa lạ, hơn nữa những
nghiên cứu về việc sử dụng mạng Internet nói chung và tác động của nó trong đời sống
đã trở thành hướng nghiên cứu của nhiều tác giả, một trong số những cơng trình
nghiên cứu đó phải kể đến như:
Cuốn sách “Mạng xã hội với giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh” do tác giả Nguyễn
Thị Hậu chủ biên đã tập hợp những bài viết và các nghiên cứu dưới góc độ xã hội học
và truyền thơng đại chúng được công bố trong hội thảo “Mạng xã hội với lối sống của
giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh” nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ thành phố Hồ Chí
Minh (2013), cuốn sách được trình bày theo mảng chủ đề sau:
Chủ đề thứ nhất là những vấn đề chung như khái niệm về mạng xã hội, sự ra đời,
phát triển và vai trò của mạng xã hội trong thời đại thơng tin ngày nay. Q trình hình
thành, phát triển và đặc điểm của mạng xã hội ở Việt Nam nói chung và thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng. Một số quan niệm truyền thống về mạng xã hội, về xu hướng mới
của xã hội công nghệ thông tin và đặt ra những câu hỏi khá lý thú nhưng cũng khá
phức tạp về việc quản lý các mạng xã hội ảo như thế nào và làm sao để phát huy được
mặt tích cực của mạng xã hội này.
7


Chủ đề thứ hai đề cập đến ảnh hưởng của mạng xã hội đến lối sống giới trẻ thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay, thơng qua việc tìm hiểu nhu cầu, mục đích và các hình
thức sử dụng mạng xã hội.
Phản ánh mặt tích cực của mạng xã hội, những tiện ích mà nó mang lại cho cộng
đồng người tham gia như nhu cầu sử dụng mạng xã hội trong học tập, giao tiếp và tìm
kiếm cơ hội nghề nghiệp. Những thành viên trong các mạng xã hội liên kết hợp tác với
nhau thành các nhóm thực hiện cơng tác xã hội như làm từ thiện, giúp đỡ trẻ đường
phố, tổ chức những sinh hoạt văn hóa lành mạnh. Hay đơn giản chỉ là chiếc cầu nối để
những người có cùng sở thích, cùng sự quan tâm, cùng ý nguyện có thể gặp gỡ, trao

đổi trên mạng rồi tiến tới sinh hoạt offline, nhiều nhóm cộng đồng có tính chất tích cực
từ "mạng ảo" đã xuất hiện trong "đời thực".... Đây chính là những tác động tốt khơng
thể phủ nhận mà mạng xã hội mang lại.
Tuy nhiên, bên cạnh đó việc sử dụng mạng xã hội cũng có những tác động tiêu
cực cho người dùng đặc biệt là những người trẻ, phổ biến nhất là sự phát triển của
mạng xã hội đã làm nảy sinh biểu hiện "nghiện" mạng xã hội ở một số thành viên. Bên
cạnh đó, mạng xã hội cịn có nguy cơ tiềm ẩn khi những thơng tin, nội dung, hình ảnh
riêng tư được đưa lên mạng nhằm chia sẻ với người thân, bạn bè... nhưng vô tình bị kẻ
xấu lợi dụng, sử dụng nhằm mục đích xấu, hoặc người sử dụng chưa có ý thức hoặc vô
trách nhiệm trong việc đưa thông tin xấu lên mạng gây ảnh hưởng không tốt đến lối
sống, suy nghĩ của một bộ phận cư dân mạng.
Chủ đề thứ ba là những đề xuất, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc sử
dụng mạng xã hội của giới trẻ. Nhấn mạnh tầm quan trọng của sự định hướng của gia
đình, nhà trường, xã hội đối với giới trẻ trong việc sử dụng mạng xã hội hiện nay. Từ
đó đề xuất một số giải pháp quản lý, giáo dục việc sử dụng mạng xã hội cho giới trẻ,
hướng đến những hành vi và lối sống tốt đẹp. Đồng thời nhấn mạnh: Sự hiện diện và
phát triển của mạng xã hội là khách quan nhưng tiếp nhận, tham gia và sử dụng nó như
thế nào lại tùy thuộc và chủ quan người dùng. Trình độ nhận thức về văn hóa xã hội,
nền tảng đạo đức, lối sống của gia đình, ảnh hưởng của môi trường sống... là những
nhân tố quan trọng giúp người sử dụng phân định ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của
mạng xã hội. Từ đó có thể biết tận dụng và phát huy những lợi ích tích cực mà mạng
xã hội đem lại, tự hạn chế và loại bỏ những tiêu cực do số ít người sử dụng gây ra.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về lý luận, đề tài giúp tôi kiểm chứng và vận dụng những kiến thức liên quan
đến các lý thuyết xã hội học vào thực tiễn. Đây sẽ là kinh nghiệm q báu để tơi tích
lũy, hồn thiện thêm kiến thức của mình và thêm vững vàng trong lập luận cho những
nghiên cứu về sau.
8



Nghiên cứu cũng góp phần vào việc tìm hiểu một cách khách quan thực trạng sử
dụng mạng internet của sinh viên hiện nay . Việc nghiên cứu này bổ sung thêm hiểu
biết về những ảnh hưởng của mạng internet trong cuộc sống nói chung và đối với sinh
viên nói riêng. Những nhận thức đúng đắn mang ý nghĩa thực tiễn này sẽ giúp cho gia
đình, nhà trường và xã hội có những điều chỉnh thích hợp để việc sử dụng mạng
internet của sinh viên ngày càng hiệu quả hơn .
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng tới việc tìm hiểu thực trạng sử dụng mạng Internet của sinh viên
Khoa Khoa học xã hội, Trường Đại học Quảng Bình. Đồng thời thấy được những ảnh
hưởng của việc sử dụng mạng Internet trong đời sống của sinh viên và đánh giá các
yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng mạng internet. Từ đó rút ra những khuyến nghị
nhằm nâng cao hiệu qủa của việc sử dụng mạng internet trong học tập của sinh viên.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tìm hiểu thực trạng sử dụng mạng Internet của sinh viên Khoa khoa học xã
hội Trường Đại học Quảng Bình thơng qua các chỉ báo về các mặt như mục đích truy
cập, nơi dung truy cập, địa điểm, cách thức truy cập, thời gian và tần suất sử dụng
Internet.
Chỉ rõ những ảnh hưởng của việc sử dụng mạng internet đến đời sống của sinh
viên trên ba khía cạnh học tập, giải trí và giao lưu kết bạn.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng mạng internet của sinh viên. Từ
đó rút ra những khuyến nghị cụ thể để việc sử dụng mạng internet của sinh viên được
hiệu quả.

9


5. Khung phân tích

Điều kiện KT – VH – XH


Gia đình

Nhà trường

Người sử dụng

Xã hội

Thực trạng sử dụng mạng internet của sinh viên

Mục đích, nội dung truy cập

Giải trí

Địa điểm, cách thức truy cập

Học tập

Thời gian, tần suất truy cập

Giao lưu, kết bạn

10


PHẦN NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm cơng cụ
1.1.1 Internet

Internet là một hệ thống tồn cầu của các mạng máy tính được kết nối. Các máy
tính và các mạng máy tính trao đổi thơng tin sử dụng TCP/IP (Transmission Control
Protocol/Internet Protocol - Giao thức TCP/IP) để liên lạc với nhau. Các máy tính
được kết nối nhờ mạng viễn thơng và Internet có thể được sử dụng để gửi nhận thư
điện tử (email), truyền các tập tin và truy cập thơng tin trên Mạng Tồn cầu (World
Wide Web - WWW). (www.bioinfohelpdesk.org).
1.1.2 Sử dụng mạng Internet
Theo Từ điển Tiếng việt, nghĩa của từ sử dụng là lấy làm phương tiện để phục vụ
nhu cầu, mục đích nào đó. Theo nghĩa này, sử dụng mạng internet có nghĩa là khai
thác, tìm kiếm các tài nguyên của mạng internet để phục vụ một nhu cầu hay mục đích
nào đó, cụ thể như giải trí, học tập, làm việc...Trong đề tài này, tôi xem xét khái niệm
sử dụng mạng internet trên các khía cạnh mục đích, thời gian sử dụng, địa điểm, cách
thức sử dụng, thời gian và tần suất sử dụng.
1.1.3. Thực trạng sử dụng internet ở trên thế giới và ở Việt Nam
Khi xã hội ngày càng phát triển, internet ngày càng trở thành phương tiện hữu ích
của con người trong xã hội hiện đại. Khơng có một hoạt động nào của đời sống xã hội
lại khơng có ứng dụng của internet. Vì vậy, ứng dụng internet ngày càng phát triển và
số lượng người sử dụng cũng tăng nhanh. Nếu như trong năm 2000 số người sử dụng
internet trên thế giới khoảng 360 triệu người thì đến năm 2012 con số này đã xấp xỉ
2,4 tỷ người chiếm 33.3% dân số thế giới [7]. Trong đó Châu Á là khu vực có số người
sử dụng nhiều nhất trên thế giới và đang tiếp tục tăng nhanh trong những năm gần đây.
Nhóm We Are Social Singapore đã khảo sát các thông tin về Internet ở Đông
Nam Á vào tháng 1 năm 2017, trong đó có Việt Nam và đưa ra nhiều thơng tin đánh
giá khá hữu ích. Việt Nam là nước có dân số đơng, đứng thứ 14 trên thế giới với xấp
xỉ 93.6 triệu dân [1], trong đó tỉ lệ đơ thị hóa là 31%. Tính đến tháng 1 năm 2017, Việt
Nam có 50.05 triệu người dùng Internetchiếm 53% dân số, tăng 6% so với năm 2016.
Số người dùng Internet được xem là ở mức cao trên thế giới, tuy nhiên tỷ lệ người
dùng vẫn ở mức trung bình. Việt Nam có đến 46 triệu người dùng mạng xã hội, chiếm
48% dân số. Tỷ lệ này cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu SAVY 1 (chỉ có 17,3%
thanh thiếu niên sử dụng internet trong đó 50,2% là ở thành thị, 12,85 là ở nông thôn)

và nghiên cứu SAVY 2 (có 61% sử dụng internet nhưng chỉ có 11% đối tượng sử dụng
11


internet tại nhà) được thực hiện trước đó ở đối tượng vị thành niên và thanh niên. Báo
cáo cũng chỉ rằng 5 hoạt động phổ biến của người dùng Việt Nam là đọc tin tức (95%),
tìm kiếm thơng tin (94%), nghe nhạc (77%), nghiên cứu (68%) và tán gẫu (66%). Hầu
hết người dùng Việt Nam vẫn sử dụng máy tính để bàn là phương tiện chính để lướt
web (80%) với thời gian trung bình 16 tiếng /tuần[23]. Tuy nhiên có sự khác nhau về
thời lượng sử dụng internet của các đối tượng. Độ tuổi vị thành niên, thanh niên có số
giờ sử dụng internet cao nhất (từ 14 đến 17 giờ/tuần) so với lứa tuổi thiếu niên (9 đến
11 giờ/tuần) và trung niên (10 đến 12,5 giờ/tuần)[15]. Vì vậy internet đóng vai trị
quan trọng trong cuộc sống của mỗi cá nhân trên thế giới thông qua các ứng dụng
1. 2. Thực trạng sử dụng internet
1.2.1. Thực trạng sử dụng internet ở trên thế giới
Một trong những nhà khoa học tiên phong trong cơng cuộc tìm hiểu về những
ảnh hưởng của internet tới con người, Brenner (1996) đã đưa ra nhận định rằng xã hội
đang chuyển từ công nghiệp sang công nghệ thông tin làm thay đổi cách thức tương
tác giữa con người và trong tương lai thì nghiện internet có thể sẽ là hành vi thường
thấy [27]. Trên thế giới, tỷ lệ sử dụng internet của đối tượng vị thành niên, thanh niên
thường cao nhất nên không ngạc nhiên khi có rất nhiều nghiên cứu về thực trạng sử
dụng internet của đối tượng này. Tuy nhiên, đã có rất nhiều nghiên cứu về thực trạng
sử dụng internet nhưng khơng có sự thống nhất trong khái niệm cùng phương pháp
đánh giá nên tùy thuộc vào các tiêu chuẩn được sử dụng và mẫu nghiên cứu, tỷ lệ sử
dụng internet của vị thành niên, thanh niên dao động từ dưới 1% đến hơn 35% [39].
Theo báo cáo, tỷ lệ sử dụng internet của vị thành niên, thanh niên có sự khác nhau
giữa các châu lục, tỷ lệ sử dụng internet của Châu Á thường cao hơn so với các nơi
còn lại.
Với một số nước châu Á có nền văn hố Phương Đơng giống Việt Nam như Hàn
Quốc và Trung Quốc thì việc sử dụng internet quá mức được coi là một hiện tượng

thực tế đáng lo ngại. Với Hàn Quốc, việc sử dụng internet thậm chí cịn bị xếp thành
một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất về sức khỏe cộng đồng. Theo thống kê, từ
năm 2006, Hàn Quốc đã có 210.000 trẻ tuổi từ 6 - 19 bị mắc chứng nghiện internet và
cần điều trị. Trong số đó, 20 - 24% trẻ này cần phải được điều trị trong bệnh viện.
Ngoài ra, do chơi điện tử nhiều, lên đến 23 giờ/tuần, nên 1,2 triệu học sinh Hàn Quốc
cũng có nguy cơ bị nghiện internet và cần được tư vấn ở cấp độ cơ bản [76].
Báo cáo của tiến sỹ Tao Ran – Giám đốc khoa nghiện của bệnh viện Bắc Kinh
chỉ ra rằng 13,7% thanh niên sử dụng internet có dấu hiệu nghiện internet tương đương
khoảng 10 triệu thanh niên của nước này[13]. Một nghiên cứu khác được thực hiện ở
12


sinh viên các trường đại học Trung Quốc được thực hiện bởi Huanhuan Li đã chỉ ra
trong số 13,6% sinh viên có dấu hiệu với việc sử dụng internet có 53,9% học ngành xã
hội (kinh tế, giáo dục, luật…) còn lại học các ngành tự nhiên (toán, hoá, sinh…). Thời
gian sử dụng internet trung bình của 654 đối tượng này là 19,39 giờ/tuần[77].
Tại Châu Âu, theo báo nghiên cứu năm 2012, trong 11956 vị thành niên, thanh
niên của 11 nước Châu Âu tham gia nghiên cứu, 6731 là nam chiếm 56,3%. Trong
nghiên cứu sử dụng thang đo nghiện internet của Young, qua đó cho thấy tỷ lệ nghiện
internet là 4,4%, nam cao hơn nữ (5,2% và 3,8%). Thời lượng sử dụng internet ở nhóm
nghiện thường cao hơn so với nhóm khơng nghiện. Các hoạt động trực tuyến có thứ
hạng cao nhất là xem video, chat và mạng xã hội. Có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê
của tình trạng nghiện giữa các nước (p < 0.001)[64]
Vì vậy nghiện internet ở những người sử dụng đặc biệt là đối tượng vị thành
niên, thanh niên là một vấn đề sức khoẻ tâm thần mới nổi đang được nhiều nước quan
tâm.
1.2.2. Thực trạng sử dụng internet ở Việt Nam
Việt Nam là một nước có tỷ lệ người sử dụng internet tăng nhanh chóng. (khoảng
50%), tập trung chủ yếu vào người trẻ tuổi. NetCitzens Việt Nam cho biết, độ tuổi
trung bình sử dụng Internet tại Việt Nam là 29, thấp hơn mức trung bình của thế giới

(36 tuổi). Theo Điều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm 2013,
tỷ lệ thanh niên sử dụng Internet đạt 73%, trong đó 50,2% thanh niên đô thị. Hơn 60%
thanh thiếu niên truy cập mạng để tán gẫu và chơi game.Tuy nhiên chưa có nhiều
nghiên cứu đi sâu về tình trạng nghiện internet, đặc biệt là đối tượng vị thành niên,
thanh niên. Các nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở thống kê thực trạng sử, mục đích sử
dụng internet của vị thành niên, thanh niên hoặc nghiện game online ở đối tượng này.
Ngay trong SAVY 2 [14]– một nghiên cứu tổng quan về vị thành niên, thanh niên cũng
chỉ tìm hiểu tỷ lệ sử dụng, mục đích sử dụng bao gồm chơi game, chát.
1.3. Tác hại của sử dụng internet quá mức
Internet mang lại rất nhiều lợi ích cho người dùng, giúp cho xã hội phát triển
hơn, giúp mọi người trên thế giới gần nhau hơn, giúp con người dễ tiếp cận với các
nguồn kiến thức ở mọi nơi trên thế giới chỉ thơng qua một cái kích chuột. Có thể ví
internet giống như một kho kiến thức khổng lồ mà người dùng có thể truy cập sử dụng
bất cứ nơi đâu, bất cứ thời điểm nào thông qua các ứng dụng của nó. Tuy nhiên bên
cạnh những lợi ích mà internet mang lại cho người sử dụng cũng không thể phủ nhận
những khía cạnh tiêu cực mà internet ảnh hưởng với những người quá lạm dụng
internet/sử dụng internet quá mức hay nghiện internet. Với việc lạm dụng quá mức
13


internet cũng như game sex, game bạo lực sẽ dẫn đến một sự rối loạn cơ bản là sự
chuyển hóa cơ thể do tác nhân ánh sáng gây nên. Khi tốc độ ánh sáng quá lớn thì sẽ tác
động đến hồng điểm. Hồng điểm sẽ kích thích các võng mạc bắt buộc phải hoạt
động vượt công suất. Khi việc lạm dụng internet cứ kéo dài và cơ thể đã quen với việc
kích thích ánh sáng đó sẽ gây một trạng thái lệ thuộc vào sự kích thích ánh sáng liên
tục. Lúc này các ham muốn sẽ kích thích người bệnh muốn tiếp tục chơi và bản thân
những người đang rơi vào hội chứng đó khơng hề biết trong cơ thể sẽ sinh ra một số
rối loạn, không chỉ về trao đổi chất mà cả tâm thần [16]. Nghiên cứu của Yong (1996)
có khoảng 53% người nghiện internet hoặc game online có vấn đề thực sự nghiêm
trọng trong các mối quan hệ thực tế như hơn nhân, mối quan hệ tình cảm, mối quan hệ

cha mẹ - con cái và những mối quan hệ thân thiết được nhận thấy bị phá huỷ nghiêm
trọng do say sưa game[72].

14


CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn:
Là sinh viên, năm hai, năm ba, năm tư đang học tại trường Đại học Quảng Bình.
Là sinh viên có sử dụng internet trong vịng 3 tháng trở lại cho đến thời điểm
nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Phát vấn đã loại trừ năm thứ 1 (khoá 60) bởi vì sinh viên năm thứ 1của trường
trong học kỳ 2018 – 2019 chưa đến nhập học.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khơng gian: Trường Đại học Quảng Bình
Phạm vi thời gian: 1/8 – 30/10/2018
2.3. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu
2.3.1 Câu hỏi nghiên cứu
-

Thực trạng sử dụng mạng Internet của sinh viên Khoa khoa học xã hội Trường Đại học
Quảng Bình?

-

Việc sử dụng mạng Internet có ảnh hưởng như thế nào đến sinh hoạt đời sống học tập
của sinh viên?


-

Các yếu tố nào liên quan ảnh hưởng đến việc sử dụng mạng internet của sinh viên?
2.3.2 Giả thuyết nghiên cứu

-

Sử dụng mạng Internet đang ngày càng phổ biến đối với sinh viên hiện nay.

-

Sinh viên truy cập mạng internet với nhiều mục đích và nội dung khác nhau. Đồng
thời họ cũng dành nhiều thời gian và tần suất cho việc truy cập mạng internet.

-

Việc sử dụng mạng Internet ảnh hưởng nhiều trong đời sống của sinh viên trên các
khía cạnh học tập, giải trí và giao lưu kết bạn .
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp phân tích tài liệu:
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích tài liệu trên các sác, báo, tạp chí , các đề
tài, bài viết đã nghiên cứu có liên quan với vấn đề hoạt động sử dụng mạng internet và
cách thức, mục đích sử dụng internet. Thơng qua viêc tìm hiểu các tài liệu liên quan
đến việc sử dụng mạng internet trong cuộc sống để đi vào nghiên cứu sâu hơn vấn đề
15


thực trạng sử dụng mạng internet của sinh viên. Các tài liệu sẽ cung cấp cho nghiên
cứu về cách tiếp cận, các số liệu có liên quan để giúp cho nghiên cứu có thêm những
thơng tin cơ sở và hồn thiện hơn.

2.4.2. Phương pháp trưng cầu ý kiến:
Phương pháp trưng cầu ý kiến là phương pháp chính nhằm thu thập các thông tin
định lượng trong nghiên cứu này. Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu có chủ
đích. Đây là phương pháp chọn mẫu phù hợp với người nghiên cứu, thuận tiện về mặt
thời gian, chi phí,…. Tổng số phiếu phát ra là 130 phiếu, số phiếu thu về 121 phiếu xử
lý thông tin hợp lệ.
Cơ cấu mẫu như sau:
Stt

Tên lớp

Khóa học

Số phiếu

1

Đại học sư phạm Lịch sử

K57

23

2

Đại học sư phạm ngữ văn

K57

49


3

Đại học sư phạm ngữ văn

K58

29

5

Đại học sư phạm ngữ văn

K59

17

5

Đại học Địa lý Du lịch

K57

12

6

Tổng số phiếu

130


Các phiếu trưng cầu thu về được làm sạch và xử lý bằng phần mềm thống kê xã
hội SPSS 22.0.
2.4.3. Quy trình tiếp cận đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu viên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm các lớp, gặp gỡ các bạn ban cán
sự các lớp cần thu thập thông tin để được tạo điều kiện trong quá trình thu thập thông
tin. Nghiên cứu viên thông báo cho các bên liên quan về mục đích và nội dung nghiên
cứu sau đó thống nhất về mặt thời gian, đến lớp hướng dẫn cách điền thơng tin và hồn
thành phiếu thu thập thông tin. Những bạn đồng ý tham gia sẽ được phát phiếu để điền
phiếu sau đó điều tra viên sẽ thu phiếu lại theo yêu cầu.
2.4.4. Quy trình tiến hành thu thập số liệu
Ban đầu nghiên cứu chọn ra 3 bạn trong mỗi khóa để thử nghiệm bộ câu hỏi.
Cách chọn 3 bạn này là chọn mẫu thuận tiện. Khi tiến hành nghiên cứu chính thức thì
những sinh viên tham gia thử nghiệm bộ câu hỏi đã được loại. Trước khi phát phiếu
phỏng vấn, nghiên cứu viên chính sẽ trình này vắn tắt về mục đich của nghiên cứu và
hướng dẫn trả lời phiếu hỏi cho người được chọn.
Khi phiếu hỏi được phát ra, nghiên cứu viên chờ ở bàn phát vấn và sẵn sàng trả
lời bất cứ một câu hỏi nào về phiếu hỏi do sinh viên đưa ra.
16


2.5. Biến số
Nhóm yếu tố cá nhân: Tuổi, giới tính, cận thị, năm học, dân tộc, thành tích học
tập, hài lịng thành tích học tập, ngành học, thâm niên sử dụng internet, thiết bị vào
mạng, địa điểm truy cập, địa điểm truy cập nhiều nhất, thời điểm truy cập, thời điểm
truy cập nhiều nhất, thời lượng truy cập internet, thời lượng dành cho ngủ, loại hình
mạng hay sử dụng, chi phí cho internet, thu nhập, mục đích sử dụng, mục đích sử dụng
nhiều nhất, thời lượng dùng cho mục đích nhiều nhất, bỏ bữa, loại bữa bỏ, bỏ hoạt
động ngoại khố, sử dụng chất kích thích, nghiện internet.
Nhóm yếu tố gia đình, bạn bè: Sống cùng, liên lạc với gia đình, mối quan hệ của

bố mẹ, phụ thuộc gia đình, tỷ lệ bạn bè quen trên mạng, số lượng bạn chưa gặp ngoài
đời, liên lạc với bạn bè, rủ rê của bạn bè.
Nhóm các yếu tố khác: Áp lực học tập, bao phủ mạng ở nhà, bao phủ mạng ở
trường, chất lượng đường truyền, ấn phẩm đồi truỵ/trò chơi bạo lực, lừa đảo qua mạng,
luật sử dụng internet.
Trong đó, các biến số về các yếu tố liên quan đến tình trạng nghiện internet của
sinh viên được tham khảo từ các nghiên cứu đã thực hiện trước đây trong nước và trên
thế giới theo khung lý thuyết đã xây dựng.
2.6. Khía cạnh đạo đức của nghiên cứu
Tuân thủ những quy định về đạo đức trong nghiên cứu và chỉ tiến hành khi được
sự chấp thuận của Hội đồng khoa học và Hội đồng đạo đức Trường Đại học Quảng
Bình.
Trước khi tiến hành thu thập thông tin bằng bộ câu hỏi phát vấn, tất cả các đối
tượng nghiên cứu đều được giải thích cụ thể về mục đích và nội dung nghiên cứu. Sau
đó, đối tượng có quyền từ chối tham gia, chỉ tiến hành trên những người tình nguyện
tham gia nghiên cứu.
Các thông tin cá nhân của đối tượng tham gia nghiên cứu sẽ chỉ phục vụ cho mục
đích nghiên cứu. Kết quả của nghiên cứu sẽ được công bố trên hội đồng nhà trường, và
các ban ngành liên quan đến nghiên cứu nhằm đảm bảo tính khách quan.
2.7. Hạn chế của nghiên cứu:
Việc đo lường tình trạng lạm dụng internet, xác định mục đích sử dụng internet
và các yếu tố liên quan chỉ thông qua bộ câu hỏi phát vấn nên có thể gặp phải những
sai số của bộ cơng cụ này.
Nghiên cứu được thiết kế là nghiên cứu định lượng, bộ câu hỏi được thiết kế cho
đối tượng trả lời những phương án đã định sẵn nên không thể khai thác hết được thông
17


tin mà nhóm nghiên cứu muốn tìm hiểu trong vấn đề phân tích một số yếu tố liên
quan.

Nghiên cứu được thực hiện tại thời điểm sinh viên năm 1chuaw nhập học nên
nghiên cứu không thu thập thông tin về đối tượng này vì vậy các kết luận trong nghiên
cứu cũng khơng suy luận cho những đối tượng này. Vì do hạn chế một số nguồn lực
như kinh phí và thời gian nghiên cứu chỉ tiến hành được trên một khoa.

18


CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1.1. Yếu tố cá nhân
Tuổi của người trả lời
Đặc tính

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Dưới 20 tuổi

6

5%

Từ 20 tuổi trở lên

115

95%


Tổng

121

100%

Nam

11

9,1%

Nữ

110

90,9%

Tổng

121

100%

Kinh

120

99,2%


Khác

1

8%

Tổng

121

100%

Giới tính

Dân tộc

Kết quả nghiên cứu cho thấy độ tuổi dao động của sinh viên tham gia nghiên cứu
trong khoảng từ 19 – 23 tuổi. Độ tuổi dưới 20 tuổi chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 5%, từ 20 tuổi
trở lên chiếm tỷ lệ đến 95%. Nghiên cứu chỉ tập trung đến đối tượng là sinh viên Khoa
Khoa học xã hội nên tỷ lệ sinh viên nữ chiếm tỷ lệ rất cao 90,9%. Đa phần sinh viên
thuộc dân tộc Kinh, các dân tộc khác chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ 8%.
3.1.2. Đặc điểm các vấn đề liên quan học tập của đối tượng nghiên cứu
Đặc tính

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Năm hai


12

9.9

Năm ba

27

22.3

Năm bốn

82

67.8

Total

121

100.0

Nhớ

49

40.5

Không nhớ


72

59.5

Total

121

100.0

Sinh viên năm

Tổng điểm học kỳ gần nhất

19


Mức độ hài lòng của người trả lời
Rất hài lòng

10

8.3

Hài lịng

76

62.8


Khơng hài lịng

34

28.1

Rất khơng hài lịng

1

.8

121

100.0

Total

Nghiên cứu thực hiện thu thập thông tin trong thời gian cuối tháng 8 đến giữa
cuối tháng 9 nên tại thời điểm đó sinh viên năm nhất chưa nhập học, sinh viên được
khảo sát phiếu nghiên cứu thu thập thông tin chủ yếu là sinh viên năm hai, ba, bốn. Tỷ
lệ sinh viên năm bốn tham gia nghiên cứu chiếm tỷ lệ cao 67,8%. Lượng sinh viên
tham gia khảo sát chủ yếu học các ngành học sư phạm ngữ văn, sư phạm lịch sử và địa
lý du lịch. Có 59,5% sinh viên khơng nhớ điểm tổng kết của mình trong học kỳ gần
nhất, mức độ hài lịng với kết quả học tập của mình chiếm 62,8%.
3.1.3. Thực trạng sử dụng internet của sinh viên
Ngày 1/12/1997 Internet chính thức được cung cấp dịch vụ tại Viêt Nam. Sau gần
20 năm phát triển, Internet đã chuyển mạnh từ hình thức quay số sang băng rộng và
liên tục đạt tốc độ tăng trưởng ở mức bùng nổ. Ngày nay, Internet đã trở thành một
phần không thể thiếu trong đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội của hầu hết mọi tầng

lớp nhân dân.
Trong những năm qua, hạ tầng kết nối inteternet đã có nhiều tiến bộ. Qua khảo
sát đối tượng là sinh viên Khoa khoa học xã hội Trường Đại học Quảng Bình, 100% số
sinh viên khảo sát đều có sử dụng mạng internet. Việc sử dụng mạng internet của sinh
viên diễn ra như thế nào sẽ được trình bày trong nghiên cứu dưới đây:
3.1.3.1 Mục đích và nội dung truy cập mạng internet của sinh viên :
Mục đích sử dụng là nhân tố quan trọng chi phối việc sử dụng Internet của sinh
viên. Mục đích càng đa dạng thì nơi dung truy câp càng phong phú. Mục đích sử dụng
chi phối sự lựa chọn các hoạt động trên mạng của sinh viên. Với việc truy cập Internet
của sinh viên có thể chia thành các nhóm mục đích cơ bản như sau: tìm kiếm thơng tin,
giao lưu kết bạn, kinh doanh và giải trí.
Biểu đồ 1: Mô tả các ứng dụng thường sử dụng của sinh viên

Qua biểu đồ cho thấy, những ứng dụng mà các bạn sinh viên thường truy cập
nhất là tìm kiếm các thông tin liên lạc(chát, tham gia các diễn đàn mạng xã hội, kiểm
20


tra thư điện tử,….) chiếm tỷ lệ 37%. Truy cập ứng dụng để tìm kiếm thơng tin tài liệu
học tập chiếm tỷ lệ khơng cao chỉ 29%, có 24% dùng các ứng dụng để giả trí như chơi
game, xem phim và nghe nhạc. rất ít các bạn dùng ứng dụng để kinh doanh online(mua
bán các mặt hàng trực tuyến trên mạng)chỉ chiếm tỷ lệ là 10%.
Từ kết quả trên cũng cho thấy, khơng có nhiều sự khác biệt giữa sinh viên các
lớp trong việc đánh giá các hoạt động ưu tiên hàng đầu khi sử dụng mạng internet. Đa
số sinh viên vẫn ưu tiên và đánh giá cao hoạt động tìm kiếm các thơng tin liên
lạc(chát, tham gia các diễn đàn mạng xã hội, kiểm tra thư điện tử,….).Như vây, đối với
sinh viên Khoa Khoa học xã hội thì nhu cầu tìm hiểu những kiến thức bên ngồi
chương trình học chưa lớn.
Ngồi ra có rất nhiều nội dung để các em tìm kiếm khi truy cập sử dụng mạng
internet, đó khơng chỉ là tìm kiếm các thơng tin liên quan đến học tập mà cịn tìm kiếm

thơng tin về bạn bè, người thân trên mạng xã hội, các hoạt động giải trí xem phim,
nghe nhạc, và đặc biệt hơn đó là chơi game điện tử online,… Mục đích truy cập
internet sẽ quyết định nội dung việc truy cập, nhưng cũng có thể cùng một mục đích
truy cập với nhiều nội dung khác nhau. Ví dụ, cùng một mục đích là giải trí nhưng nội
dung mà các em sinh viên truy cập có thể là nghe nhạc, xem phim, xem clip hài, chơi
game online, luyện nghe tiếng anh, lên facebook,….hay với mục đích học tập các em
có thể tìm kiếm tài liệu trên mạng, học trực tuyến,….khi được tiếp xúc trò chuyện
ngồi cơng việc với các bạn sinh viên thì được biết hầu hết các bạn tham truy cập
mạng để vào facebook để chát với bạn bè, vô thông tin tường của một bạn nào đó để
xem ảnh, comment, hoặc đơn giản là để đăng status về tâm trạng, hay hôm nay có gì
đó hay hay lại đăng lên tường hoặc có bạn nào đăng status thì sẽ vào bình luận. Như
vây, có thể thấy Facebook đã được các em sử dụng như một kênh giao tiếp, môt kênh
để các em nói lên những suy nghĩ của mình.
Số năm sử dụng internet của người trả lời
Số năm sử dụng

Số lượng

Tỷ lệ

Không nhớ

75

62.0

10

5


4.1

11

1

.8

12

1

.8

2

1

.8

3

5

4.1

4

6


5.0

5

11

9.1
21


6

5

4.1

7

4

3.3

8

6

5.0

9


1

.8

121

100.0

Total

Bảng 1: Số năm sử dụng internet của sinh viên
Qua bảng số liệu cho thấy, có 62% sinh viên đều khơng nhớ cụ thể tổng số năm
mình đã sử dụng internet là bao nhiêu năm. Có khoảng 20 % sinh viên cho rằng mình
đã trải qua thời gian sử dụng internet trên 10 năm. 18% số sinh viên cho rằng mình sử
dụng internet dưới 10 năm.
Các thiết bị phương tiện dùng để truy cập mạng internet của sinh viên cụ thể
được biểu hiện thể hiện rõ dưới đây:

Các thiết bị dùng để truy cập mạng internet
Đặc trưng

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Máy tính bàn

33

27.3


Máy tính bảng

21

17.4

Máy tính laptop

68

56.2

Điện thoại

116

95.9

Khác,…..

1

.8

121

100.0

Total


Bảng 2:Các thiết bị dùng để truy cập mạng internet
Có rất ít sinh viên dùng máy máy tính bàn với máy tính bảng để truy cập ứng
dựng internet. Các thiết bị thường dùng của các bạn sinh viên truy cập internet chủ yếu
là máy tính laptop chiếm tỷ lệ 56,2%. Dùng máy điện thoại truy cập internet chiếm tỷ
là rất cao lên đến 95,9%. Các bạn sinh viên chọn dùng máy tính laptop với điện thoại
là các thiết bị thong minh chạy với tốc độ nhanh, các thiết bị đó lại được thiết kế nhỏ
gọn để bỏ túi áo quần hoặc túi xách tay nên rất thuận tiện cho viện mang theo bên cạnh
lúc nào cần thiết cũng có thể truy cập được. Ngồi các thiết bị trên thì có một bộ phận
rất nhỏ khoảng 0,8% dùng các thiết bị khác để để tuy cập mạng internet.
Địa điểm thường truy cập mạng internet trong 1 tháng trở lại đây
Đặc trưng

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Ở nhà/ký túc xá

78

64.5

Ở trường học

87

71.9
22



Ở nhà bạn bè

66

54.5

Ở quán Internet

9

7.4

Ở các nơi khác

1

.8

121

100.0

Total

Bảng 3:Địa điểm thường truy cập mạng internet của các bạn sinh viên

23



Địa điểm thường truy cập mạng internet nhiều nhất của các bạn sinh viên
Địa điểm thường truy cập mạng internet nhiều nhất trong 1 tháng trở lại đây
Đặc trưng

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Ở nhà/ký túc xá

62

51.2

Ở trường học

21

17.4

Ở nhà bạn bè

36

29.8

Ở quán Internet

2


1.7

121

100.0

Total

Bảng 4:Địa điểm thường truy cập mạng internet nhiều nhất của các bạn sinh viên
Những địa điểm các bạn sinh viên thường dùng để truy cập mạng internet đó là
các nơi như ở nhà/ký túc xá 64,5%, ở trường học 71,9%, ở nhà bạn bè là 54,5%. Quán
nét và các nơi cơng cộng khác là rất ít. Có 51,2% số sinh viên cho rằng ở ký túc xá/nhà
là nơi mình thường truy cập mạng internet nhiều nhất trong 1 tháng trở lại đây, các bạn
sinh viên khác cho rằng mình thường truy cập mạng internet nhiều nhất trong 1 tháng
trở lại đây là ở trường học là 17,4% và ở nhà bạn bè là 29,8%.
Thời điểm tuy cập internet của người trả lời
Thời điểm truy cập internet
Đặc trưng

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Sáng (6h-11h)

4

3.3

Chiều (13h-18h)


7

5.8

Tối (18h-22h)

82

67.8

Đêm (sau 22h...)

24

19.8

Khác

4

3.3

Total

121

100.0

Bảng 5:Thời điểm tuy cập internet của người trả lời

Thời điểm truy cập internet nhiều nhất
Đặc trưng

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Sáng (6h-11h)

2

1.7

Chiều (13h-18h)

6

5.0

Tối (18h-22h)

85

70.2

Đêm (sau 22h...)

26

21.5


Khác

2

1.7

Total

121

100.0

Bảng 6:Thời điểm tuy cập internet của người trả lời
24


Các bạn sinh viên cho biết thường thì thời gian rãnh rỗi các bạn đều lên mạng
để truy cập internet với nhiều mục đích và cơng việc khác nhau. Thời điểm để các bạn
truy cập thường là ngoài giờ học lên lớp. Bảng số liệu cho thấy thời điểm truy cập
internet cao nhất là vào khoảng khoảng thời gian từ 18h – 22h chiếm tỷ lệ 67,8%. Truy
cập mạng đêm khuya sau 22h là 19,8%. Trong khi đó thời điểm truy cập internet nhiều
nhất của các bạn sinh viên cũng rơi vào khoảng thời gian tối từ 18h – 22h chiếm tỷ lệ
70,2% và đêm khuya sau 22h là 21,5%. Cịn các thời điểm khác mặc dù có truy cập
nhưng với tỷ lệ khơng cao.
Thời gian trung bình trong ngày sử dụng ứng dụng khơng phục vụ cho mục
đích học tập/cơng việc.
Số thời gian trung bình trong ngày sử dụng internet của người trả lời
Số thời gian trung bình trong ngày sử dụng internet


Số lượng

Tỷ lệ

Không nhớ

82

67.8

1

3

2.5

16

1

.8

2

11

9.1

3


7

5.8

4

7

5.8

5

5

4.1

6

1

.8

7

3

2.5

8


1

.8

121

100.0

Total

Bảng 7: Số thời gian trung bình trong ngày sử dụng internet của sinh viên
Bảng số liệu cho thấy có 67,8% số sinh viên khơng nhớ rõ là trung bình trong
ngày dùng khoảng bao nhiêu giờ cho hoạt động sử dụng internet không phục vụ cho
học tập và cơng việc. Trung bình trong ngày khoảng từ 3h – 6h sử dụng internet không
phục vụ cho mục đích học tập/cơng việc là khoảng 7%. Các bạn sinh viên lên mạng sử
dụng internet nguyên ngày không có, cũng khơng tìm thấy dấu hiệu có nghiện internet
đối với các bạn sinh viên.
Đường dây mạng internet thường dùng nhất
Thường dùng internet nhiều nhất bằng đường dây mạng
Đặc trưng
Mạng dây/wifi tại nhà

Số lượng

Tỷ lệ (%)

90

74.4
25



×