Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

BÁO CÁO ĐƯỜNG LỐI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAMGIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.19 KB, 34 trang )

BÀI TẬP LỚN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

MỤC LỤC

MỤC LỤC..................................................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 2
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................................5
I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA,
CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................................................5
II. VẬN DỤNG......................................................................................................................... 17
2.1 Đặc điểm, điều kiện tự nhiên, xã hội Lào Cai..................................................................17
2.2 Chủ trương của Lào Cai trong GDĐT..............................................................................20
2.3. Đánh giá thực trạng.........................................................................................................22
2.3.1 Thành tựu, nguyên nhân............................................................................................22
2.3.2. Hạn chế, nguyên nhân..............................................................................................25
2.3.3 Giải pháp................................................................................................................... 30
PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................................................... 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................35


1

PHẦN MỞ ĐẦU

Đại hội VII, VIII, IX, X và những nghị quyết Trung ương đã xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội và coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển”. Đây là một tầm nhìn
mới về văn hóa phù hợp với tầm nhìn chung của thế giới đương đại.(1)
Hiện nay vẫn đang cịn có nhiều định nghĩa về văn hóa, bởi lẽ văn hóa là sản phẩm do lao động
của con người tạo ra mà hoạt động lao động của con người rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác


nhau. “Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do lao động của người sáng tạo ra, được
cộng đồng khẳng định tích lũy lại, tạo ra bản sắc riêng của từng tộc người, từng xã hội”. Trong Nghị
quyết Trung ương 5 ( Khóa VIII) Đảng ta cho rằng:“Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật
chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ
nước,... là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để khơng ngừng
hồn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ
lịch sử vẻ vang của dân tộc”.(2)
Về phạm vi và nội hàm của văn hóa, trước đổi mới, Đảng thường nhấn mạnh hai lĩnh vực: văn
học, nghệ thuật và đời sống văn hóa cụ thể. Phần lớn các văn kiện thường quan tâm đến hai lĩnh vực
đó. Do sự phát triển của thực tiễn xây dựng văn hóa và sự tổng kết về mặt lý luận thực tiễn đó, từ
đổi mới, Đảng cho rằng, cách hiểu trên chưa thật tồn diện, từ đó xác định phạm vi và nội hàm của
văn hóa theo nghĩa rộng và bao quát hơn nhiều. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (tháng 7-1998)
“Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, lần đầu tiên,
văn hóa được hiểu bao gồm tám lĩnh vực rộng lớn, không chỉ là văn học, nghệ thuật, mà cả xây
dựng mơi trường văn hóa, xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống, phát triển giáo dục - đào tạo và
khoa học - công nghệ, hệ thống thông tin đại chúng, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và văn
hóa các dân tộc thiểu số, chính sách văn hóa đối với tơn giáo, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa,
hồn thiện thể chế văn hóa...(3)

1() Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

(Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh). NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2017
2() Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII), 1998
3() />
ky-doi-moi-631714/


2


Đại hội IX của Đảngtiếp tục khẳng định, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa
nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể
chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối
sống có văn hóa, quan hệ hài hịa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Bước phát triển trong quan
điểm của Đảng về văn hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện nhân cách con người và
xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện. Để đạt được mục tiêu đề ra, các chương trình hành động phải
được triển khai đồng bộ, chú trọng việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa”, phong
trào “Người tốt, việc tốt”, làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng
người…
Đến Đại hội X của Đảng, với quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, những yêu cầu
về tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm
sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và việc xây dựng, hoàn thiện giá trị, nhân cách con người
Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập kinh tế quốc tế,… được khẳng định lại, tiếp nối quan điểm về văn hóa từ kỳ đại hội trước.
Đại hội lần này cũng đề ra u cầu đa dạng hóa các hình thức hoạt động của phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa,
nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng, nhà truyền thống…
Đại hội XI khẳng định phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân
chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển, coi “con người là trung
tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” (2).
Đại hội đề ra mục tiêu cho giai đoạn tiếp theo là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất,
năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI

về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước đã khẳng định mục tiêu: xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa
thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm
sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Văn hóa tiếp tục là vấn đề quan trọng, có tính thời sự và dành được sự quan
tâm sâu sắc.(4)
Văn hóa có nhiều lĩnh vực như văn hóa giáo dục, văn hóa nghệ thuật, văn hóa đời sống,.. Nhưng
giáo dục quyết định đến sự biến đổi tư tưởng, tâm lý và nâng cao trình độ nhận thức của con người.
4() />
ve-xay-dung-nen-van-hoa-tu-sau-doi-moi-den-nay---thanh-tuu-va-nhung-van-de-dat-ra.aspx


3

Giáo dục trở thành điều kiện tiền đề cho việc hình thành và phát triển bản chất con người. Nó là vũ
khí rất sắc bén để giúp chúng ta cải tạo con người. Thông qua hoạt động thực tiễn của con người,
giáo dục có vai trị quan trọng tác động vào các hoạt động kinh tế văn hoá và quan hệ xã hội. Vai trò
của giáo dục là cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Khi điều
kiện vật chất được nâng cao tất yếu sẽ tạo cơ sở cho nền giáo dục phát triển. Giáo dục khơng phát
triển thì khơng đủ cán bộ giúp cho kinh tế phát triển. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau. Trong
thực tiễn xây dựng nền kinh tế, văn hoá, xã hội ở nước ta cho thấy nếu không phát triển, mở mang
giáo dục để đào tạo ra đội ngũ những người lao động, những cán bộ có đủ năng lực, chun mơn và
phẩm chất đạo đức chính trị thì sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước sẽ không đạt kết quả cao.
Riêng đối với văn học, nghệ thuật, Đảng ta nhấn mạnh, thứ nhất, đó là lĩnh vực đặc biệt tinh tế của
văn hóa, vai trị của nó được khẳng định mạnh mẽ và sâu sắc hơn “là một trong những động lực to
lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con
người Việt Nam”. Thứ hai, tiếp tục nhấn mạnh phẩm chất nhân văn, dân chủ của nền văn học, nghệ
thuật đương đại, đồng thời, không chỉ yêu cầu “định hướng” (như trước đây), mà còn đòi hỏi phải có
khả năng “đáp ứng” nhu cầu văn hóa - tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Thứ ba, tiếp tục khẳng

định “tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quý của dân tộc’’ và nhấn mạnh hơn thái độ cần thiết của
sự lãnh đạo “tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tính độc lập,
khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ” vừa khẳng định truyền thống là “người chiến sĩ”,
đồng thời yêu cầu “nêu cao trách nhiệm công dân” của đội ngũ sáng tạo văn học, nghệ thuật. Do
vậy, giáo dục được xem là một mặt trận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Cũng vì
thế nhóm em quyết định chọn văn hóa giáo dục là đề tài của bài tiểu luận hôm nay.
Bên cạnh đó, giáo dục và đào tạo ở Lào Cai - một trong những tỉnh của miền núi Tây Bắc còn
nhiều hạn chế. Mạng lưới trường lớp, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học đã được tăng cường
đầu tư, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục.
Chất lượng giáo dục đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi nhìn chung cịn thấp so với yêu cầu.
Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục nhiều nơi còn bất cập, năng lực sư phạm, khả năng tổ
chức các hoạt động giáo dục của một bộ phận giáo viên cịn hạn chế. Chính sách cho người dạy,
người học ở Lào Cai vẫn còn một số bất cập,… Đó là điều chúng ta cần quan tâm và cải thiện, nên
nhóm em chọn đề tài tiểu luận theo hướng nghiên cứu văn hóa giáo dục ở Lào Cai
Trước năm 2011, nước ta nói chung và Lào Cai nói riêng cịn gặp nhiều khó khăn và bất cập
trong việc phát triển giáo dục, cùng nhìn lại xem giai đoạn 2011-2021, Đảng ta đã có những đổi mới
ra sao, đưa ra những chiến lược quan trọng như thế nào để đẩy mạnh giáo dục ở Lào Cai.

PHẦN NỘI DUNG


4

I. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA,
CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn
hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các
đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Ở nơi nào có người Việt Nam thì ở đó có văn hóa
Việt Nam. Văn hóa Việt Nam và con người Việt Nam luôn gắn kết và đi đôi với nhau. (5)

Trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước từ năm 1986, những nhận thức mới của Đảng về
văn hố có bước chuyển quan trọng. Nền văn hóa mà Đảng xác định phải xây dựng là nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với đặc trưng dân tộc, hiện đại, nhân văn. Một hệ thống lý luận văn
hoá được hợp thành với lý luận chung trong quá trình đổi mới tư duy của toàn xã hội.
Toàn bộ tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã làm sáng lên bức tranh của nền văn hố đất nước
trong tương lai. Đó là nền văn hố với vai trị là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực
thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển, gắn với sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, gắn với những vấn đề
nảy sinh trong xu thế tồn cầu hố và nền kinh tế thị trường. Đối với cơng tác lãnh đạo văn hố,
Nghị quyết khẳng định: Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn hoá, phải xây dựng văn hoá từ
trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước như Bác Hồ đã dạy “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Đây là
vấn đề cực kỳ quan trọng, cơ bản và chiến lược không chỉ đối với công tác lãnh đạo mà cả công tác
quản lý văn hố, với mỗi cán bộ, đảng viên.
Vì vậy trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về nội dung xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đảng ta đã đề ra những
quan điểm cho nội dung này:


Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền

vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
+ Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:

5() Bộ

Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành
cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh).
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2017



5

-

Theo Unessco: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của

cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại; nó cấu thành một hệ thống các giá trị,
truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong
mỗi con người và trong cả cộng đồng, được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế hệ, được vật
chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc; đồng thời, nó tác động
hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng mơi trường xã hội –
văn hóa. Tóm lại, văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tồn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức
sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc vượt qua mọi khó khăn để phát triển.
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát
triển kinh tế – xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng mơi trường văn hóa
lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng, văn hóa
phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa,…
+ Văn hóa là một mục tiêu của phát triển:
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh” chính là mục tiêu văn hóa.
Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 1991-2000, Đảng ta xác định: “Mục tiêu và
động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người”. Đồng thời, nêu rõ yêu cầu “tăng
trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ mơi trường”.
Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa – xã hội mới bảo đảm phát triển bền vững, trường tồn.
Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, chúng ta chủ trương
phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển kinh tế – xã hội.
+ Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển:

Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự phát triển
của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới, nhưng lại không thể tách
rời cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn đó của
mỗi quốc gia dân tộc là văn hóa.
Động lực của sự phát triển kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hóa
đang được phát huy (hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao
nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế – xã hội càng hiện thực và bền vững bấy nhiêu).
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt, văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt,
cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay


6

nghề,…mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để hạn
chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ,…
Nền văn hóa Việt Nam đương đại với những giá trị mới sẽ là tiền đề quan trọng đưa nước
ta hội nhập ngày càng sâu hơn, toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới.
Trong vấn đề bảo vệ mơi trường vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn chế lối sống
chạy theo ham muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài ngun, ơ nhiễm
mơi trường sinh thái.
Văn hóa cổ vũ và hướng dẫn cho một lối sống có chừng mực, hài hịa, nó đưa ra mơ hình
ứng xử thân thiện giữa con người với thiên nhiên vì sự phát triển bền vững của hiện tại và tương lai
+ Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội:
Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, chúng ta chủ trương
phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hịa với phát triển kinh tế. Xử lý tốt mối
quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực
phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.
Khi xác định mục tiêu, giải pháp phát triển văn hóa phải căn cứ và hƣớng tới mục tiêu, giải pháp
phát triển kinh tế - xã hội, làm cho phát triển văn hóa trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế.

Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn hóa, hướng
tới xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Phải có chính sách kinh tế trong văn hóa để gắn văn hóa
với hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa. Xây dựng
chính sách văn hóa trong kinh tế để chủ động đƣa các yếu tố văn hóa thâm nhập vào các hoạt động
kinh tế - xã hội, xây dựng văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn minh thương nghiệp; xây
dựng đội ngũ doanh nhân thời hội nhập.

Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất
trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
+ Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu vì con người. Tiên tiến về
nội dung, hình thức biểu hiện và các phương tiện chuyển tải nội dung.
- Đậm đà bản sắc dân tộc
+ Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam được vun đắp trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn,
ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã –


7

Tổ quốc; đó là lịng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao
động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống,…Bản sắc dân tộc còn đậm nét trong cả
hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính
cách, khuynh hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo giúp cho dân tộc đó giữ
được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán trong quá trình phát triển.
+ Bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc thường xuyên tự ý thức,
tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển.
+ Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy, cách sống,

cách dựng nước, cách giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa học, nghệ thuật,…nhưng được
thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của nền văn hóa. Hệ giá trị là những
gì mà nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
+ Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã hội và thể chế chính
trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập kinh tế thế giới, q trình giao lưu
văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích cực văn hóa, văn minh nhân loại.
-Thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
+ Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam:


Hơn 50 dân tộc trên đất nước Việt Nam đều có những giá trị và bản sắc văn hóa riêng, bổ

sung cho nhau

Cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam có nền văn hóa chung thống nhất

Thống nhất cả bao hàm tính đa dạng, đa dạng trong sự thống nhất

Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hịa quyện
bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc sống trên cùng lãnh thổ Việt Nam. Mỗi
thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam có nền văn
hóa chung nhất. Sự thống nhất bao hàm cả tính đa dạng – đa dạng trong sự thống nhất. Khơng có sự
đồng hóa hoặc thơn tính, kỳ thị bản sắc văn hóa của các dân tộc.
- Các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học
-Đặc trưng dân tộc
Đặc trưng thứ nhất: Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả các
khía cạnh, người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có những phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời,
có những lễ hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự
khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tơn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp

truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn học, nghệ thuật.


Đặc trưng thứ hai: Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc, dân cư đã
tạo ra những vùng văn hố có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam. Từ cái nơi của văn hóa Việt



8

Nam ở đồng bằng sông Hồng của người Việt chủ đạo với nền văn hóa Kinh Kỳ, văn hóa làng xã và
văn minh lúa nước, đến những sắc thái văn hóa các dân tộc miền núi tại Tây Bắc và Đông Bắc. Từ
các vùng đất biên viễn của Việt Nam thời dựng nước ở Bắc Trung Bộ đến sự pha trộn với văn
hóa Chăm Pa của người Chăm ở Nam Trung Bộ. Từ những vùng đất mới ở Nam Bộ với sự kết hợp
văn hóa các tộc người Hoa, người Khmer đến sự đa dạng trong văn hóa và tộc người ở Tây Nguyên.
Đặc trưng thứ ba: Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt cùng với những
hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của người Việt cổ từ thời Hồng Bàng đến
những ảnh hưởng từ bên ngoài trong hàng nghìn năm nay. Với những ảnh hưởng từ xa xưa
của Trung Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây trong
thế kỷ 20 và tồn cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt Nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ
lịch sử, có những khía cạnh mất đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền
văn hóa Việt Nam hiện đại.
-Giá trị nhân văn

Tình yêu thương con người, “lá lành đùm lá rách”


Ngay từ sớm, dân tộc Việt Nam đã hình thành lối sống nhân ái, vị tha, nương tựa, đùm bọc lẫn
nhau, thể hiện ở những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao xưa: “Thương người như thể thương thân”,
“Lá lành đùm lá rách”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”…
Thêm vào đó, trong đời sống hàng ngày, người Việt cũng dành sự khoan dung, độ lượng cho
những người lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, trở về với với chính nghĩa: “Đánh kẻ chạy đi,
khơng ai đánh kẻ chạy lại”.
Giáo sư Hoàng Tuấn Minh, giảng viên bộ mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh trường Cao đẳng y dược
Sài Gịn chia sẻ: “Hồ Chủ tịch vẫn ln nhắc nhở thế hệ sau phải kế thừa và phát huy truyền thống
nhân văn của dân tộc. Cần ln có lịng khoan dung bao la, rộng mở, bởi trong mấy triệu người có
người thế này, có người thế khác, nhưng vẫn là dòng dõi tổ tiên ta.”
Trong chiến tranh, lòng khoan dung ấy vẫn được thể hiện qua việc sẵn sàng “khép lại quá khứ,
hướng tới tương lai”, nhanh chóng trao trả tù binh Mỹ và cùng tìm kiếm thi hài lính Mỹ mất tích.
Chính truyền thống tốt đẹp ấy đã cảm hóa được kẻ thù của chúng ta và thiết lập được mối giao hảo
hữu nghị, giúp Việt Nam có cơ hội hịa nhập với thế giới.


Tơn trọng, đề cao con người và những giá trị tốt đẹp của con người

Nền văn hố Việt Nam ln đặt con người ở vị trí trung tâm, coi con người là kết tinh của những
gì tinh tuý nhất, đẹp đẽ nhất: “Người ta là hoa của đất”, “Người sống đống vàng”, “Một mặt người
bằng mười mặt của”…
Do đó, trong mọi chính sách, chủ trương, mọi thời đại nhà cầm quyền đều “lấy dân làm gốc”, đặt
lợi ích của nhân dân lên hàng đầu.
Đặc biệt, văn hố Việt Nam cịn có một truyền thống rất đáng trân trọng là đề cao người phụ nữ.
Hàng loạt những minh chứng từ thời phong kiến đến nay đã được đưa ra, đủ để chứng minh một
cách đầy thuyết phục cho chủ nghĩa nhân văn trong văn hoá Việt Nam.


9

Người Việt Nam cũng luôn coi trọng đạo đức, nhân phẩm và các giá trị của con người: “Uống
nước nhớ nguồn”, “Người ta sống vì mồ vì mả. Khơng ai sống vì cả bát cơm”, “Bán anh em xa, mua

láng giềng gần”, “Chết vinh cịn hơn sống nhục”, “Đói cho sạch, rách cho thơm”, “Giấy rách phải
giữ lấy lề”…
Ngày nay, trong bối cảnh tồn cầu hố, việc cần thiết của người Việt Nam ta là phải gìn giữ và
phát huy những giá trị nhân văn tốt đẹp mà ông cha đã để lại.
-Hệ thống dân chủ

Một hệ thống chính trị cho việc lựa chọn và thay thế các chính phủ thông qua bầu cử tự do
và công bằng.


Sự tham gia tích cực của cơng dân, trong chính trị và đời sống dân sự.



Bảo vệ quyền con người của mọi công dân.


Pháp quyền, trong đó tất cả mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, khơng ai đứng
trên luật pháp.
-Nền khoa học
-Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ hơn vai trò, vị trí của khoa
học - cơng nghệ và đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển toàn diện đất nước. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) đã khẳng định, khoa học và công nghệ phải trở
thành nền tảng và động lực cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện mục tiêu và
nhiệm vụ chiến lược trên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII, ngày 24-12-1996, “Về định
hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
nhiệm vụ đến năm 2000” đã chỉ rõ, cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc
và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bằng và dựa
vào khoa học - công nghệ; khoa học - công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất

cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tǎng trưởng kinh tế và củng cố an ninh quốc
phòng; phát triển khoa học - công nghệ gắn liền với bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, bảo
đảm phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.

Ba là, phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa.
- Phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người:


10

+Quan điểm chỉ đạo này cho thấy, mối liên hệ bên trong mật thiết, gắn bó chặt chẽ, khơng thể
tách rời giữa văn hóa với con người, giữa con người với văn hóa. Về thực chất, phát triển văn hóa là
phát triển con người, lấy phát triển con người là trọng tâm. Phát triển con người không chỉ tạo ra
chất lượng nguồn nhân lực để phát triển văn hóa mà con người với năng lực sáng tạo, trình độ học
vấn, tiềm lực trí tuệ, phẩm giá đạo đức, lối sống của nó, tựu trung lại là sự phát triển và hồn thiện
nhân cách của con người là tính hướng đích, là mục đích, mục tiêu của phát triển văn hóa. Xét theo
quan điểm giá trị thì hệ giá trị Chân - Thiện - Mỹ của văn hóa cũng chính là hệ giá trị phát triển con
người, con người vừa với tư cách là chủ thể mang nhân cách của chính mình, phản ánh những chuẩn
mực, yêu cầu của mẫu nhân cách xã hội vừa với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, sản xuất ra văn
hóa dưới dạng các sản phẩm, các giá trị đồng thời còn là chủ thể quản lý, cảm thụ, tiêu dùng văn
hóa, thực hiện các hoạt động quảng bá, giao lưu văn hóa, tiếp xúc và tiếp biến văn hóa để phát triển
xã hội, phát triển chính mình. Chỉ có con người mới là chủ nhân đích thực của sáng tạo văn hóa, cả
văn hóa vật chất (vật thể) lẫn văn hóa tinh thần (phi vật thể); cũng chỉ có con người, từ cấp độ cá
nhân - cá thể đến cấp độ xã hội - cộng đồng, dân tộc, rộng nhất là nhân loại, mới tạo dựng nên mơi
trường văn hóa - xã hội để phát triển văn hóa và phát triển xã hội nói chung, để làm cho hiệu ứng xã
hội của văn hóa (nhất là văn hóa tinh thần), lan tỏa, mở rộng, thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống, nhân lên sức sống, sức phát triển của con người, của văn hóa, khơng chỉ những thế hệ người
trong một dân tộc - quốc gia, nền văn hóa của mỗi dân tộc mà còn là sự phát triển của các dân tộc,
của các nền văn hóa trong thế giới nhân loại. Dòng chảy của sáng tạo và phát triển văn hóa là liên

tục từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Con đường đi của phát triển, văn minh, tiến bộ của dân tộc
cũng như của thế giới và thời đại là con đường của sáng tạo, phát triển văn hóa, của hội nhập văn
hóa mà trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay, khơng một nước nào có thể ở bên ngồi tiến trình hội
nhập để phát triển.
- Xây dựng con người để phát triển văn hóa
+Trước hết, phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất, tinh thần từ công sức, mồ hôi nước
mắt, sức sáng tạo của dân mà có được để phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho
người dân, giải quyết nạn thất nghiệp đang nhức nhối trong xã hội hiện nay, bởi tình trạng hàng vạn
thanh niên sinh viên tốt nghiệp, có học thức mà khơng có việc làm. An sinh là cái gốc của ổn định
và phát triển, là tiền đề cho phát triển con người và văn hóa.
+Thực hành triệt để tiết kiệm, chống lãng phí và đẩy lùi tham nhũng để chăm lo cuộc sống cho
người dân, nâng cao chất lượng cuộc sống và trình độ của dân, từ chăm lo dân sinh, nâng cao dân
trí, đảm bảo dân quyền để đi tới dân chủ. Đó là một tổng hợp chương trình, chính sách phát triển
kinh tế, xã hội, đó cịn là chính trị, là đường lối, chính sách chính trị vì dân, cũng là văn hóa trọng
dân trọng pháp rất cần trong lúc này, khi lịng dân khơng n, do khơng ít cán bộ suy thối, hư hỏng.
+Khơng có văn hóa và văn hóa chính trị nào cao q hơn khi thực hiện cho được một nguyên tắc,
một phương châm hành động “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân”, có an dân thì mới đo
được kết quả của việc trị quốc. Có quốc thái thì sẽ có dân an. Từ bài học của ông cha ta trong lịch sử
đến Di sản cao quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà kế thừa, thực hiện và phát triển vào lúc này thì
mọi việc lớn và nhỏ phải ln ln vì dân, phải coi “dĩ cơng vi thượng” là văn hóa đạo đức, văn hóa
chính trị hàng đầu trong giáo dục, rèn luyện cán bộ đảng viên, trong chỉnh đốn Đảng, trong cải cách


11

thể chế, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Giáo dục đạo đức, đặc biệt là giáo
dục liêm sỉ, lương tâm, danh dự, giáo dục ý thức trách nhiệm đi liền với thực hành đạo đức, lối sống
liêm khiết phải được coi trọng trong văn hóa của Đảng, của các tổ chức cơng quyền.
+Cùng với giáo dục phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tính tôn nghiêm luật pháp, áp dụng chế tài
mạnh mẽ để trừng phạt tất cả những người, những việc gây hại tới dân. Đó là sức mạnh của văn hóa,

của chính trị đảm bảo “quang minh chính đại” theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những
người tốt phải được tôn vinh, những kẻ xấu phải bị phê phán, lên án, sàng lọc khỏi bộ máy để dân
tin, dân tự mình bảo vệ Đảng và chế độ. Sức mạnh của văn hóa và giá trị nhân cách con người, nhất
là văn hóa trong Đảng và nhân cách văn hóa của mỗi cán bộ đảng viên, ở các cơ quan Đảng, cơ
quan Nhà nước và các đồn thể ln là chỉ số quan trọng để thuyết phục dân, lấy lại niềm tin của
dân đối với Đảng, với chế độ. Tăng trưởng niềm tin của dân vào lúc này có tác dụng như một động
lực phát triển, nó minh chứng cho sự trong sạch vững mạnh của Đảng từ tác động của văn hóa. Tăng
trưởng niềm tin của dân cịn quan trọng và khó khăn hơn nhiều so với tăng trưởng kinh tế.
+Đẩy mạnh giáo dục đạo đức từ gia đình đến nhà trường và xã hội, giáo dục lý tưởng, lẽ sống và
rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ phải được chú trọng, góp phần quan trọng vào cơng cuộc chấn hưng
đạo đức, phát triển văn hóa ở nước ta.


Bốn là, xây dựng đồng bộ mơi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trị của gia

đình, cộng đồng. Phát triển hài hịa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn
hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trị của gia đình, cộng
đồng. Mơi trường văn hóa là một bộ phận hợp thành của tồn bộ mơi trường xã hội, vì thế, nó
có vai trị to lớn đối với sự ổn định phát triển và tiến bộ của toàn thể xã hội.
+ Thứ nhất, mơi trường văn hóa có ảnh hưởng đến sự hình thành quan điểm giá trị và quan niệm
phân phối xã hội một cách hợp lý, nhân văn, phù hợp với các tầng lớp khác nhau trong xã hội nhằm
bảo đảm sự ổn định.
+ Thứ hai, môi trường văn hóa ảnh hưởng tới ổn định xã hội thông qua quan hệ giữa con người
với con người. Xã hội là do con người tổ chức hợp thành. Cá nhân, gia đình là tế bào của xã hội.
Con người sống trong xã hội tất nhiên sẽ phát sinh nhiều loại quan hệ và những mối quan hệ này ở
những mức độ khác nhau sẽ ảnh hưởng đến ổn định xã hội. Phải tăng cường ý thức đạo đức bao
gồm quan niệm đạo đức xã hội và đạo đức nghề nghiệp. Thông qua dư luận xã hội và hoạt động văn
hóa làm cho các yêu cầu đạo đức trở thành một bộ phận hợp thành ý thức tư tưởng của mọi công
dân.

+ Thứ ba, phải thực hiện công bằng xã hội. Mơi trường văn hóa tạo cơ hội, tạo điều kiện hưởng
thụ văn hóa, hưởng thụ giáo dục. Bên cạnh đó, việc hưởng thụ các giá trị tinh thần khác thông qua


12

sách báo, truyền hình, ca nhạc, triển lãm, du lịch văn hóa và du lịch sinh thái cũng rất quan trọng.
Vấn đề đặt ra với chúng ta hiện nay là song song với việc mở rộng không gian và môi trường văn
hóa, cần chú trọng hơn nữa chất lượng hưởng thụ văn hóa, giảm dần sự cách biệt giữa nơng thôn và
thành thị, giữa vùng phát triển nhanh và vùng phát triển chậm, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa.
-

Phát triển hài hịa giữa kinh tế và văn hóa. Mơi trường văn hóa có tác dụng thúc đẩy

tích cực đối với phát triển kinh tế.
+ Thứ nhất, môi trường văn hóa có tác dụng điều chỉnh hài hịa đối với vận hành bình thường của
nền kinh tế. Các loại giá trị văn hóa khơng những là cơ sở chỉ đạo động cơ tăng trưởng kinh tế mà
cịn quy định tính hợp lý của mục tiêu tăng trưởng.
+Thứ hai, môi trường văn hóa tốt đẹp có thể điều hịa, sửa chữa, uốn nắn tính hẹp hịi của quan
điểm giá trị vì lợi nhuận của kinh tế thị trường. Đặc biệt phải coi trọng vai trị động lực của văn hóa;
phải khơng ngừng nâng cao tỷ trọng văn hóa tinh thần; làm trong sạch thị trường văn hóa, chỉnh đốn
và quy phạm trật tự thị trường văn hóa theo pháp luật; đặt phát triển văn hóa vào vị trí chiến lược
quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước.
Phát triển văn hóa phải hài hịa với phát triển kinh tế, do đó chúng ta cần phát huy tối đa sức
mạnh của văn hóa, làm cho các nhân tố văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, trong mọi phương diện
chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương và mọi quan hệ của con người với tự nhiên, xã hội và
chính mình, biến văn hóa thành một nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
-

Cần chú ý đầy đủ yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế


+Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Văn hóa phát triển sẽ góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động, tạo
lập mơi trường văn hóa tinh thần lành mạnh, nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học cơng nghệ,
nâng cao kỷ cương, kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp, góp phần làm động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển.


13

+ Các giá trị con người, giá trị xã hội thể hiện ở quyền, nghĩa vụ, lợi ích và cuộc sống của con
người được xem xét và đặt vào vị trí như thế nào trong trọng tâm của các mục tiêu và chính sách
phát triển kinh tế, vào việc hình thành các mục tiêu đó trong thể chế - cơ chế phát triển kinh tế. Điều
này được thể hiện rất rõ trong tư duy và chính sách phát triển kinh tế hướng tới như thế nào trong
việc thực hiện các giá trị con người và giá trị xã hội. Khi nhận thức rõ tầm quan trọng của việc
hướng tới thực hiện các gia trị con người và các giá trị xã hội, coi đó vừa là mục tiêu vừa là động
lực phát triển (đương nhiên là cần phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của từng giai
đoạn cụ thể), thì trong mục tiêu, cơ chế và chính sách phát triển kinh tế sẽ có sự kết hợp một cách
hữu cơ với phát triển các vấn đề xã hội, mà trọng tâm là các giá trị con người, giá trị văn hóa.


Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng lãnh đạo,

Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng.
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, nhà
nước quản lý
+Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh đều tham
gia xây dựng và phát triển văn hóa nước nhà. Cơng nhân, nơng dân, trí thức là nền tảng của khối đại

đồn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của nhà nước.
+ Văn hoá là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hố) mà ở đó người cộng sản phải hoạt
động, phải lãnh đạo cách mạng chính trị và cách mạng văn hoá. Những quan điểm tư tưởng chỉ đạo
cách mạng văn hố ở Việt Nam đó là phải hồn thành cách mạng văn hố mới hồn thành được cuộc
cải tạo xã hội; Cách mạng văn hố muốn hồn thành phải do Đảng cộng sản lãnh đạo (6).
+ Đảng đặc biệt quan tâm đến việc phân tích những đặc điểm mới, vấn đề mới đang đặt ra trong
đội ngũ văn hóa để từ đó xác định những cơng việc phải làm nhằm thực hiện được mục tiêu tiếp tục
phát triển đội ngũ đó trong thời kỳ mới. Nổi bật là những vấn đề sau cần hết sức quan tâm: chăm lo
cho sự hình thành và phát triển nhân tài trong các lĩnh vực văn hóa; sự xuất hiện thế hệ trẻ với nhiều
đặc trưng rất mới, nhiều biểu hiện khác xa với các thế hệ trước; sự tác động mạnh, nhiều chiều, phức
tạp của các khuynh hướng tư tưởng, văn hóa quốc tế đối với đội ngũ văn hóa Việt Nam, nhu cầu tự

6() Đảng Cộng sản Việt Nam. Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 – Giá trị lịch sử và hiện thực. Nhà xuất bản quân đội nhân
dân.


14

do tư tưởng, tự do sáng tạo, tìm tịi, thể nghiệm ngày càng trở nên mạnh mẽ, sự tăng cường và đổi
mới công tác đào tạo đội ngũ trước yêu cầu mới.
-

Nhân dân là chủ thể sáng tạo trong xây dựng và phát triển văn hóa

Xuất phát từ những điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt, văn hóa Việt Nam, con
người Việt Nam có những giá trị, phẩm chất độc đáo. Ðó là tinh thần nồng nàn yêu nước và nhân
văn; đó là anh hùng trong chiến đấu, nhưng tinh tế trong ứng xử; đó là sáng tạo trong lao động,
nhưng giản dị trong lối sống; đó là tinh thần cố kết cộng đồng, là lòng khoan dung, cởi mở, giàu
năng lực tiếp biến...

+ Chú trọng tính đặc thù của văn hóa, vừa bảo đảm để văn hóa, văn học, nghệ thuật phát triển
đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm tự do sáng tạo của cá nhân trên cơ sở
phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn. Khắc phục tình trạng bng lỏng sự lãnh đạo hoặc
mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.
+ Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người Việt Nam có
thế giới quan khoa học, có nhân cách, lối sống đẹp với các đặc tính cơ bản “u nước, nhân ái, nghĩa
tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
+ Tăng cường giáo dục thẩm mỹ, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng xã
hội cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Xây dựng lối sống tuân thủ pháp
luật, tôn trọng đạo lý “uống nước nhớ nguồn," “đền ơn đáp nghĩa,” “tương thân tương ái."
-

Đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng trong xây dựng và phát triển văn hóa.

+ Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa. Đội ngũ trí thức là trụ cột để xây dựng và phát triển văn hóa, là lực lượng then chốt
trong cách mạng khoa học kỹ thuật và văn hóa. Xây dựng và phát huy vai trị của đội ngũ trí thức để
phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
+ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy khóa X đã ban hành Nghị quyết số 27
(6/8/2009) về Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã xác định rõ những mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí
thức hiện nay. Trong đó đã nhấn mạnh: “Trí thức Việt Nam là lực lượng sáng tạo đặc biệt quan trọng


15

trong tiến trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng
kinh tế tri thức phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc xây dựng đội ngũ trí thức
vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là

đầu tư cho phát triển bền vững” (7)
II. VẬN DỤNG
2.1 Đặc điểm, điều kiện tự nhiên, xã hội Lào Cai
2.1.1 Vị trí địa lý:
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới, nằm chính giữa vùng Đơng Bắc và vùng Tây Bắc của Việt Nam,
cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 265 km theo đường bộ. Phía đơng giáp tỉnh Hà Giang; phía tây
giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu; phía nam giáp tỉnh Yên Bái, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc)
với 203 km đường biên giới. Cách ngày nay hơn vạn năm, con người đã có mặt tại địa bàn Lào Cai.
Diện tích tự nhiên: 6.383,88 km2 (chiếm 2,44% diện tích cả nước, là tỉnh có diện tích lớn thứ 19/64
tỉnh, thành phố cả nước).

7() Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 khóa, tr.91


16

Bản đồ hành chính tỉnh Lào Cai. Nguồn: laocai.gov.vn

2.1.2 Điều kiện tự nhiên:
Địa hình: Địa hình Lào Cai rất phức tạp, phân tầng độ cao lớn, mức độ chia cắt mạnh. Hai dãy
núi chính là dãy Hồng Liên Sơn và dãy Con Voi cùng có hướng Tây Bắc - Đơng Nam nằm về phía
đơng và phía tây tạo ra các vùng đất thấp, trung bình giữa hai dãy núi này và một vùng về phía tây
dãy Hồng Liên Sơn. Ngồi ra còn rất nhiều núi nhỏ hơn phân bố đa dạng, chia cắt tạo ra những tiểu
vùng khí hậu khác nhau.
Do địa hình chia cắt nên phân đai cao thấp khá rõ ràng, trong đó độ cao từ 300m - 1.000m chiếm
phần lớn diện tích tồn tỉnh. Điểm cao nhất là đỉnh núi Phan Xi Păng trên dãy Hoàng Liên Sơn có
độ cao 3.143m so với mặt nước biển, Tả Giàng Phình: 3.090m.
Dải đất dọc theo sơng Hồng và sơng Chảy gồm thành phố Lào Cai - Cam Đường-Bảo Thắng- Bảo
n và phần phía đơng huyện Văn Bàn thuộc các đai độ cao thấp hơn (điểm thấp nhất là 80 m thuộc
địa phận huyện Bảo Thắng), địa hình ít hiểm trở hơn, có nhiều vùng đất đồi thoải, thung lũng, là địa

bàn thuận lợi cho sản xuất nông lâm nghiệp hoặc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng.


17

Khí hậu: Lào Cai có khí hậu nhiệt đới gió mùa, song do nằm sâu trong lục địa bị chia phối bởi
yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời tiết có phần thay đổi, khác biệt theo thời gian và không
gian. Đột biến về nhiệt độ thường xuất hiện ở dạng nhiệt độ chênh lệch trong ngày lên cao hoặc
xuống thấp quá (vùng Sa Pa có nhiều ngày nhiệt độ xuống dưới 00C và có băng hoặc tuyết rơi).
Khí hậu Lào Cai chia làm hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô bắt đầu từ
tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng cao từ 15độ C – 20 độ C (riêng Sa
Pa từ 14 độ C – 16 độ C và khơng có tháng nào lên quá 200C), lượng mưa trung bình từ 1.800mm >2.000mm. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng thấp từ 23 độ C – 29 độ C, lượng mưa trung bình từ
1.400mm - 1.700mm.
Sương mù thường xuất hiện phổ biến trên toàn tỉnh, có nơi ở mức độ rất dày. Trong các đợt rét đậm,
ở những vùng núi cao và các thung lũng kín gió cịn xuất hiện sương muối, mỗi đợt kéo dài 2 - 3
ngày.
Khí hậu Lào Cai rất thích hợp với các loại cây ơn đới, vì vậy Lào Cai có lợi thế phát triển các đặc
sản xứ lạnh mà các vùng khác khơng có được như: hoa, quả, thảo dược và cá nước lạnh.
Thổ nhưỡng: Đất có độ phì cao, màu mỡ, đa dạng bao gồm 10 nhóm, 30 loại đất, phù hợp với
nhiều loại cây trồng khác nhau.

2.1.3 Dân cư:
Dân số toàn tỉnh: 674.530 người (số liệu năm 2016). Mật độ dân số bình quân: 106 người/km2,
trong đó:
- Thành phố Lào Cai : 110.2018 người, mật độ 484 người/km2. Các huyện: Bát Xát: 75.757 người,
mật độ 72 người/km2; Mường Khương: 58.593 người, mật độ 106 người/km2; Si Ma Cai: 35.766
người, mật độ 153 người/km2; Bắc Hà: 60.529 người, mật độ 89 người/km2; Bảo Thắng: 106.989
người, mật độ 156 người/km2; Bảo Yên: 82.817 người, mật độ 101 người/km2; Sa Pa: 59.172
người, mật độ 87 người/km2; Văn Bàn: 84.709 người, mật độ 60 người/km2.
- Dân tộc: Có 25 nhóm ngành dân tộc cùng chung sống hồ thuận, trong đó dân tộc thiểu số chiếm

64,09% dân số toàn tỉnh. Dân tộc Kinh chiếm 35,9%, dân tộc Mông chiếm
22,21%, Tày 15,84%, Dao 14,05%, Giáy 4,7%, Nùng 4,4%, còn lại là các dân tộc đặc biệt ít
người Phù Lá, Sán Chay, Hà Nhì, La Chí,... Các dân tộc thiểu số phân bố, cư trú trên địa bàn 9/9
huyện, thành phố của tỉnh.


18

Tỉnh Lào Cai được chia làm 3 khu vực:
- Khu vực I: Là các xã có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội thuận lợi. Chủ yếu là các xã ở vùng
thấp, gần trung tâm các huyện, thành phố, giao thông và các dịch vụ xã hội thuận lợi.
- Khu vực II: Là các xã có điều kiện phát triển kinh tế- xã hội khó khăn, phần lớn các xã này nằm ở
vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại cịn tương đối khó khăn; các dịch vụ xã hội cơ bản đã được đáp
ứng tương đối tốt.
- Khu vực III: Là các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, các xã ở vùng sâu vùng biên
giới, xa các trung tâm huyện, thành phố; địa hình bị chia cắt mạnh, giao thơng đi lại cịn rất nhiều
khó khăn; các dịch vụ xã hội còn hạn chế.8

2.1.4 Hoạt động kinh tế- xã hội:
-

Tỉnh Lào Cai tuy là tỉnh biên giới, song hoạt động kinh tế công nghiệp khá phát triển,

đáng chú ý là ngành khai thác chế biến khống sản, chế biến nơng lâm sản và xây dựng.
-

Theo thống kê hiện có 52 điểm, mỏ khoáng sản đã được cấp phép khai thác; song do

nhiều nguyên nhân khác nhau đến năm 2013 chỉ có 27 khai trường khai thác vẫn đang hoạt động.
Trong số đó có các khai trường khai thác với quy mô lớn và lâu dài như:



Các khai trường khai thác quặng apatit Mỏ Cóc, Làng Cáng, Làng Mơ, Cam Đường,

Ngịi Đum;


Các khai trường khai thác quặng sắt Quý Xa, Kíp Tước



Các khai trường khai thác quặng đồng Sin Quyền



Các khai trường khai thác quặng vàng gốc Minh Lương; felspat, kaolin Sơn Mãn,

Làng Mạ, Thái Niên; nguyên liệu xi măng Cam Đường.

8 />

19

2.2 Chủ trương của Lào Cai trong GDĐT
Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục vùng DTTS, miền núi.
Chỉ đạo các cơ sở giáo dục rà soát, đánh giá thực trạng và tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ,
năng lực chun mơn, nghiệp vụ cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý vùng DTTS, MN và các
trường PTDTNT, PTDTBT. Tổ chức bồi dưỡng hè cho 100% cán bộ quản lý, giáo viên; tăng cường
các hoạt động bồi dưỡng thường xuyên trong năm học, đặc biệt là hoạt động sinh hoạt chuyên môn
dựa trên nghiên cứu bài học cấp tỉnh, cấp huyện, cụm trường, sinh hoạt chuyên môn khối các trường

PTDTNT; phân công giáo viên cốt cán hỗ trợ, giúp đỡ giáo viên cịn hạn chế. Chú trọng bồi dưỡng
nâng cao trình độ tin học, năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục đặc thù, hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp, công tác quản lý học sinh nội trú, bán trú, đặc điểm tâm lí học sinh DTTS, văn
hóa dân tộc và tri thức địa phương...
Đẩy mạnh công tác phân luồng và định hướng nghề nghiệp cho học sinh DTTS.
Sở GD&ĐT Lào Cai tăng cường chỉ đạo các đơn vị, nhà trường tổ chức các hoạt động GDHN
theo hướng thiết thực, hiệu quả, gắn với hoạt động xây dựng mô hình trường học gắn liền với thực
tiễn…; chú trọng liên kết giữa các trường THCS, THPT với các trung tâm đào tạo nghề, doanh
nghiệp,… Hoạt động tư vấn hướng nghiệp được các trường quan tâm tổ chức dưới hình thức Ngày
hội tuyển sinh và tư vấn hướng nghiệp.
Nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt tạo điều kiện dạy học ngoại ngữ ở vùng DTTS, miền
núi.
Xác định chất lượng tiếng Việt chính là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng giáo dục
vùng cao. Chính vì vậy năm học 2016-2017 là năm đột phá về tổ chức các hoạt động nhằm kiểm
soát chất lượng và tăng cường tiếng Việt cho học sinh, trẻ em DTTS, đặc biệt ở các điểm trường lẻ.
Chú trọng nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực người DTTS
Sở GD&ĐT Lào Cai đã triển khai quyết liệt các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục trẻ em,
học sinh DTTS ở các cấp học. Quán triệt các cơ sở giáo dục xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo
dục nhà trường theo định hướng phát triển năng lực học sinh, coi đây là hoạt động chuyên môn quan
trọng được tập trung chỉ đạo để thay đổi nhận thức, tư duy quản lý, năng lực tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các nhà trường.


20

Tham mưu UBND tỉnh ban hành các chính sách của tỉnh đối với giáo dục và đào tạo.
Đầu tư xây dựng phòng học bán trú cho học sinh và nhà công vụ cho giáo viên (Quyết định số
2570/QĐ-UBND ngày 10/8/2016); chính sách hỗ trợ tiền ăn, thuê cấp dưỡng nấu ăn cho học sinh
DTTS học THPT ở tại trường PTDTNT huyện, hỗ trợ tiền ăn cho học sinh bán trú (những học sinh
không được hưởng theo Nghị định 116/2016/NĐ-CP), hỗ trợ giáo viên trực tiếp quản lý học sinh

bán trú, hỗ trợ cấp dưỡng cho học sinh bán trú (đối tượng không được hưởng theo Nghị định
116/2016/NĐ-CP), hỗ trợ học phẩm và sách giáo khoa cho học sinh (Quyết định số 13/2017/QĐUBND ngày 15/3/2017); học bổng cho học sinh người DTTS học trong trường THPT Chuyên
(Quyết định số 75/2016/QĐ-UBND ngày 24/8/2016). Các chính sách đó đã góp phần quan trọng
thực hiện mục tiêu củng cố, duy trì phổ cập giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc
biệt là nâng cao tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần ở các xã vùng cao, vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn.
2.3. Đánh giá thực trạng
2.3.1 Thành tựu, nguyên nhân
2.3.1.1 Thành tựu
Trong những năm qua Lào Cai đã phát triển được một mạng lưới trường, lớp mầm non và phổ
thông để đáp ứng nhu cầu cũng như quyền học tập của trẻ em. Tuy nhiên mạng lưới cơ sở đào tạo
chủ yếu là hệ thống cơng lập, ngồi cơng lập chưa đầu tư vào giáo dục phổ thông và đào tạo (Bảng
2.12).
Học sinh Lào Cai tiếp tục đạt thành tích cao trong các kỳ thi, cuộc thi: Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp toàn
tỉnh đạt 99,37 % (Cao hơn tỷ lệ đỗ tốt nghiệp năm 2019 của tỉnh: 3,18%; cao hơn tỷ lệ đỗ tốt nghiệp
THPT tồn quốc: 0,9%). Điểm thi trung bình các mơn đạt 6,311 điểm (tăng so với năm 2019 là
0,797 điểm) xếp thứ 28/62 tỉnh trong kỳ thi tốt nghiệp đợt 1 năm 2020. Điểm đối sánh giữa điểm
học bạ và điểm thi tốt nghiệp năm 2020, Lào Cai trong top 5 tỉnhcó điểm vênh ítnhất tồn
quốc(điểm vênh của Lào Cai là 0,64 điểm).(9)
Tỷ lệ học sinh trung học đi học chuyên cần tiếp tục được nâng cao, đặc biệt là cấp THCS: Tính
đến hết tháng 11/2020, tỷ lệ học sinh đi học chun cần trung bình tồn tỉnh cấp THCS là 97,8%,
tăng 0,4% so với cùng kỳ năm 2019 (97,4%). Tỷ lệ học sinh bỏ học giảm (cấp THCS là 0,49% (năm
trước 0,74%), cấp THPT 0,82% (năm trước 1,68%). Đây là hiệu quả của việc thực hiện các chế độ
9() />

21

chính sách của Nhà nước, của tỉnh đối với HS và là kết quả của sự thành công trong công tác tham
mưu của các nhà trường để chính quyền và toàn thể nhân dân địa phương vào cuộc cùng với ngành.
(6)


Trong những năm gần đây, Lào Cai đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để nâng cao chất
lượng giáo dục.
Phát triển hệ thống trường dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú và công tác giáo dục
dân tộc là một giải pháp. Năm học 2014-2015, toàn tỉnh có 104 trường phổ thơng dân tộc bán trú,
trong đó có 36 trường tiểu học và 68 trường THCS thực hiện mơ hình Trường Phở thơng dân tộc
bán trú góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vùng cao, vùng đồng bào DTTS. Lào Cai là tỉnh
đứng thứ 2 tồn quốc về số lượng trường phổ thơng dân tộc bán trú, chỉ đứng sau tỉnh Hà Giang.
Trong đó, địa phương có số lượng trường phổ thơng dân tộc bán trú nhiều nhất của tỉnh là huyện
Bắc Hà (35 trường), tiếp đó là các huyện: Si Ma Cai (25 trường), Sa Pa (14 trường), Mường
Khương (10 trường).
Đối với giáo dục mầm non: thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới và học 2 buổi/ ngày kể
cả các trường vùng cao. Thực hiện tốt chuyên đề “tăng cường tiếng Việt”, đặc biệt là cho trẻ em 5
tuổi vùng DTTS trước khi vào lớp 1. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thơng tin giúp trẻ mạnh dạn, tự
tin, ham thích đi học.
Đối với giáo dục tiểu học: dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng; điều chỉnh nội dung dạy học và
đánh giá, xếp loại phù hợp đặc điểm tâm lý, sinh lý học sinh; giáo dục song ngữ: tiếng mẹ đẻ và
tiếng phổ thông và nhiều phương pháp ứng dụng khác đã giúp các em học sinh DTTS mạnh dạn, tự
tin hơn.
Đối với giáo dục THCS: đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu lực công tác chỉ đạo, quản lý giáo dục
trung học cơ sở của phịng GDĐT, cơng tác quản lý chuyên môn của hiệu trưởng trường trung học
cơ sở; tiếp tục chỉ đạo, thực hiện chuyên đề “Kiểm soát, bảo đảm và nâng cao chất lượng giáo dục
trung học cơ sở”; chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá, thực hiện giảm
tải nội dung dạy học trên cơ sở chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học và phù hợp với đối tượng
học sinh. tiếp tục nâng cao chất lượng dạy học, bồi dưỡng, giúp đỡ học sinh yếu, phát hiện, bồi
dưỡng học sinh giỏi; triển khai Đề án trường chất lượng cao; tích cực triển khai, tổ chức các hoạt


22


động mới, các phương pháp, biện pháp giáo dục tiên tiến như: tổ chức thi khoa học kĩ thuật, thi sử
dụng kiến thức liên môn để giải quyết vấn đề thực tiễn, thi dạy học theo chủ đề tích hợp, áp dụng
phương pháp dạy học “bàn tay nặn bột”... Tích cực thực hiện và đổi mới các hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp, giáo dục tập thể, chú trọng giáo dục kĩ năng sống, thực hiện các biện pháp giáo
dục tích cực.
Đối với giáo dục THPT: dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng, giảm tải nội dung dạy học; tiếp
tục thực hiện phương châm “Dạy thực, học thực, thi thực, chất lượng thực chất”; thực hiện các giải
pháp nâng cao chất lượng dạy học, đặc biệt là củng cố, nâng cao kiến thức cho học sinh lớp 12 dự
thi tốt nghiệp; nâng cao chất lượng giờ dạy chính khóa cùng với nâng cao hiệu quả dạy thêm, học
thêm theo yêu cầu. Tiếp tục điều chỉnh nội dung dạy học theo hướng tinh giản; xây dựng và triển
khai dạy học các chủ đề tích hợp liên mơn. Tích cực đổi mới công tác quản lý, phương pháp dạy
học, kiểm tra đánh giá bảo đảm khách quan và nâng cao ý thức học tập của học sinh giỏi toàn quốc.
Quy mô giáo dục - đào tạo, mạng lưới trường, lớp học tiếp tục phát triển phù hợp với phân bố dân cư
và địa hình của tỉnh, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân và nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo
nguồn nhân lực cho tỉnh:

Đến năm 2020, toàn tỉnh đã sáp nhập 135 trường thành 65 trường đạt 100% mục tiêu, gộp
266/192 điểm trường lẻ mầm non và tiểu học đạt 138%, đưa 15.000/8.300 học sinh ở điểm trường lẻ
về trường chính đạt 172%, xóa 54/42 điểm trường đạt 128%, nâng cấp 04 trường PTDT nội trú
THCS&THPT đạt 100%. Tồn tỉnh có 618 trường học giảm 65 trường so với năm học 2015-2016,
8.115 lớp học với 55.800 học sinh; công tác giáo dục dạy nghề được quan tâm, hiện tồn tỉnh có 43
cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Hoàn thiện việc sáp nhập trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai vào Đại
học Thái Nguyên. Tỉnh tập trung cho phát triển cơng tác giáo dục dân tộc. Tồn tỉnh có 9 trường
PTDT nội trú, các trường này đều có bậc học THPT với 4.445 học sinh. Giáo dục dân tộc thiểu số đã
thực sự trở thành nòng cốt phát triển giáo dục vùng cao.
-

Những phản hồi tích cực: Trong năm 2018-2019, Lào Cai đã đạt những kết quả tồn

diện, hiệu quả giáo dục tiếp tục có nhiều chuyển biến đồng bộ, toàn diện và rỏ nét ở cả vùng thấp

lẫn vùng cao, công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu được chú trọng.
Điển hình, tại kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia tỉnh Lào Cai đạt 44 giải, tại cuộc thi khoa học và kỹ
thuật cấp quốc gia dành cho học sinh trung học Lào Cai có 5/6 dự án đoạt giải. Những kết quả trên


23

đã góp phần đưa giáo dục Lào Cai tiếp tục giữ vững vị trí dẫn đầu trong 15 tỉnh trung du và miền
núi phía Bắc về phong trào giáo dục; được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận là điển hình tiên tiến
về giáo dục vùng cao, địa phương thí điểm thực hiện đổi mới giáo dục
Đảng đã xem việc giáo dục là vấn đề chiến lược trong việc phát triển dân tộc. Với những Chủ
Trương, Chính Sách của Đảng chú trọng vào phát triển giáo dục các tỉnh miền núi đã đem lại kết
quả tốt đẹp, giúp thu hẹp khoảng cách giáo dục giữa các tỉnh miên núi với các tỉnh miền xuôi. Vấn
đề giáo dục vẫn sẽ tiếp tục được xem trọng trong những Chủ Trương và Chính Sách của Đảng.
2.3.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu này:
- Sự lãnh đạo của Đảng, quan tâm của Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và chính
quyền các cấp; sự quan tâm, tham gia đóng góp của các đoàn thể, tổ chức xã hội trong và ngoài
nước, của toàn dân đối với giáo dục đã quyết định sự thành công của sự nghiệp giáo dục.
- Sự ổn định chính trị, những thành quả phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân được cải
thiện và hội nhập quốc tế trong thời kỳ đổi mới đã tạo môi trường thuận lợi cho phát triển giáo dục.
Đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân sách nhà nước đã liên tục tăng qua các năm.
- Lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề, ý thức trách nhiệm, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo và
quyết tâm đổi mới của ngành giáo dục đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện tốt nhiệm vụ giáo
dục. Các thế hệ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục công tác ở mọi miền Tổ quốc, đặc biệt ở vùng
núi, vùng sâu, vùng xa đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đóng góp cơng sức to lớn cho sự
nghiệp trồng người.
- Truyền thống hiếu học của dân tộc được phát huy mạnh mẽ, thể hiện trong từng gia đình, từng
dịng họ, từng địa phương, từng cộng đồng dân cư.
2.3.2. Hạn chế, nguyên nhân
2.3.2.1. Những hạn chế về văn hóa giáo dục vùng dân tộc thiểu số ở Lào Cai trong năm

2011-2019:


Cơ sở vật chất cịn nhiều khó khăn:

- Năm 2017, toàn tỉnh đưa vào sử dụng 263 cơng trình nhà ở cho học sinh bán trú và nhà cơng vụ
giáo viên với gần 750 phịng bán trú, trên 1 nghìn 130 phịng cơng vụ. Tính đến nay, tồn tỉnh có
trên 8 nghìn 200 phịng học thơng thường (tỷ lệ kiên cố là 63%); trên 1 nghìn 600 phòng phòng chức
năng (tỷ lệ kiên cố chiếm trên 80%. Đối với phịng ở cơng vụ giáo viên, với trên 2 nghìn 300 phịng,


24

tuy nhiên, tỷ lệ kiên cố mới chỉ đạt 17%; phịng ở học sinh bán trú với trên 2 nghìn 500 phòng (tỷ lệ
kiên cố trên 45%). Như vậy, mặc dù tỉnh đã dành sự quan tâm đầu tư khá lớn về cơ sở vật chất cho
giáo dục, tuy nhiên, tỷ lệ phòng học, phòng ở cho học sinh bán trú, đặc biệt là phịng cơng vụ giáo
viên chưa được kiên cố vẫn còn khá lớn, tập trung chủ yếu tại các địa bàn khó khăn, rất cần sự quan
tâm hơn của Nhà nước và cộng đồng.
- Hạn chế công tác bồi dưỡng giáo viên tiếng Anh: Với các vùng miền núi thì gặp nhiều khó khăn
về đội ngũ giáo viên, mạng lưới trường lớp khơng hợp lý do có nhiều điểm trường, khơng bố trí 10
được giáo viên tại các điểm trường lẻ. Đặc biệt là chất lượng giáo dục và nhu cầu học ngoại ngữ của
học sinh vùng dân tộc thiểu số còn thấp. Một bộ phận học sinh vùng cao, học sinh người dân tộc
thiểu số, tiếng Việt còn hạn chế nên cũng ảnh hưởng đến chất lượng học ngoại ngữ.
- Theo Sở GD&ĐT tỉnh Lào Cai vừa báo cáo công tác bồi dưỡng giáo viên tiếng anh các cấp
năm 2019. Kết quả sau bồi dưỡng cho thấy tỷ lệ giáo viên giữ nguyên bậc đạt khá cao với 74,2%.
Tuy nhiên, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn sau khảo sát so với 02 năm trước còn thấp, chỉ khoảng 14,8%,
công tác bồi dưỡng giáo viên tiếng Anh các cấp năm 2019 đã gặp những hạn chế khó khăn nhất định
như: Tổ chức bồi dưỡng trong thời gian năm học, trong khi giáo viên tiếng anh ở các trường đang
thiếu nên rất khó khăn cho các nhà trường khi sắp xếp kế hoạch dạy học.
- Trong quá trình bồi dưỡng giáo viên xin nghỉ do ốm, chuyển vùng, bỏ nghề (25/200; 12,5%). Nguyên nhân của những hạn chế khó khăn được chỉ ra bởi một bộ phận giáo viên chưa nghiêm túc

chấp hành nội quy lớp bồi dưỡng; nhận thức chưa đầy đủ về yêu cầu đổi mới dạy và học ngoại ngữ;
một số giáo viên qua bồi dưỡng chuyển biến còn chậm.
Nạn mù chữ đang xảy ra với tỷ lệ lớn:



- Lào Cai là tỉnh có hơn 20 dân tộc, chủ yếu là đồng bào: Mông, Dao, Tày, Nùng..., tỷ lệ chưa
biết chữ còn cao, tập trung tại các huyện: Mường Khương, Văn Bàn, Bát Xát,...
- Dân cư sống phân tán, xa trường học, giao thông không thuận lợi, các lớp xóa mù chữ và giáo
dục tiếp tục sau biết chữ chủ yếu vào buổi tối, nên rất khó khăn trong huy động người học ra lớp.

10

/>

×