NGUYỄN MAI 2K1
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN:
CHỦ ĐỀ
VẤN ĐỀ CHIẾN TRANH VÀ HỊA BÌNH Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI ĐẠI MỚI DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
Hà Nội, tháng 01 năm 2022
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề
tài.............................................................................1
2. Mục đích nghiên
cứu.......................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu..................................................1
4. Phương pháp nghiên
cứu................................................................2
NỘI DUNG.............................................................................................3
1. Vấn đề chiến tranh và hịa bình trong cách mạng giải phóng
dân tộc trước năm 1975, dưới sự lãnh đạo của
Đảng…...............3
1.1.1. Chiến tranh và hịa bình trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của
Đảng…....................................3
1.1.2. Chiến tranh và hịa bình trong cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ dưới sự lãnh đạo của
Đảng….....................................5
2. Vấn đề chiến tranh và hịa bình trong cách mạng XHCN sau
năm 1975, dưới sự lãnh đạo của
Đảng….......................................7
2.1. Các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới dưới sự lãnh đạo của
Đảng….......................................................................................
...7
• Chiến tranh bảo vệ biên giới phía
Bắc….......................................7
• Chiến tranh bảo vệ biện giới phía Tây
Nam….............................8
2.2. Chiến lược “diễn biến hịa bình” trong tình hình
mới…...........9
3. Vai trị của liên hiệp quốc trong việc duy trì hịa bình, an ninh
thế
giới…........................................................................................10
4. Bảo vệ Tổ quốc bằng phương pháp hòa bình là chủ trương
nhất quán của Đảng và Nhà
nước….....................................................11
KẾT LUẬN..........................................................................................15
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề chiến tranh và hịa bình là một chủ đề bất hủ đối với tất cả các
quốc gia và khu vực, dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo. Đây luôn là vấn đề
then chốt trong quan hệ quốc tế. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Trong lịch
sử hàng nghìn năm, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua bao cuộc chiến đấu
chống giặc ngoại xâm để bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc. Vì vậy, cuộc
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đối với dân tộc Việt Nam là “vạn bất đắc dĩ”. Có
lẽ chính vì những đau thương, mất mát của chiến tranh mà dân tộc Việt Nam
ln u chuộng hịa bình, phản đối chiến tranh và bạo lực. Hiện nay, nước
ta đang phát triển trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng vẫn cần đối
phó với những âm mưu, thủ đoạn tinh vi của các thế lực thù địch. Đối với
Việt Nam, âm mưu nhất quán của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trị lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Để thực hiện âm mưu này, chúng tăng cường chống phá trên nhiều lĩnh vực
như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao, ... kết hợp với răn đe quân
sự. Trong một thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục diễn
biến phức tạp và có nhiều biến động. Để hiểu rõ hơn và biết được vai trò
lãnh đạo của Đảng, bài tập lớn lựa chọn đề tài là: “Vấn đề chiến tranh và
hịa bình trong thời đại mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”.
2. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở của những vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề chiến
tranh và hịa bình trong thời đại mới, bài tập lớn đưa ra một số phương
hướng và giải pháp khả thi nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để chống
chiến tranh, giữ gìn nền hịa bình góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Đối tượng nghiên cứ và phạm vi nghiên cứu
5
- Đối tượng nghiên cứu: vấn đề chiến tranh và hịa bình ở Việt Nma
trong thời đại mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: bài tập lớn nghiên cứu vấn đề
chiến tranh và hịa bình dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản từ khi Đảng ra
đời đến nay, chia làm hai giai đoạn trước và sau năm 1975.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử - lơgíc, phân tích, tổng hợp, so sánh, tổng kết
thực tiễn.
NỘI DUNG
6
1. Vấn đề chiến tranh và hịa bình trong cách mạng giải phóng
dân tộc trước năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng
1.1.1 Chiến tranh và hịa bình trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930. Đây là kết quả của
một quá trình vận động cách mạng trong bối cảnh lịch sử cụ thể của Việt
Nam, phù hợp với xu thế phát triển lúc bấy giờ. Sự kiện có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với tồn bộ quá trình phát triển của Cách mạng Việt Nam từ
trước đến nay.
Trước sự Cách mạng Tháng Tám, chính quyền cách mạng còn trứng
nước, trước nguy cơ cực kỳ nghiêm trọng do thù trong giặc ngồi gây ra,
tình hình đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tình hình đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh, người có nhiều năm kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, chỉ
muốn mọi người được sống trong hịa bình, đã tìm mọi giải pháp để đạt
được hịa bình cho dân tộc Việt Nam. Bất chấp những nỗ lực và đề nghị đàm
phán của Hồ Chí Minh, các nước đế quốc đã sử dụng các chiến lược khác
nhau để đẩy nhân dân Việt Nam vào một cuộc kháng chiến kéo dài. Chúng ta
quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, tự do của Tổ quốc, đồng thời tận dụng
mọi cơ hội hịa bình để xây dựng lại đất nước, ngăn chặn chiến tranh và duy
trì nền hịa bình ở Việt Nam.
Ngày 3-10-1945, trong Bản Thơng cáo đầu tiên nói về chính sách đối
ngoại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, khẳng định mục tiêu của dân tộc Việt Nam là tham gia giữ gìn
hịa bình thế giới: “Đối với các nước Đồng minh, Việt Nam mong muốn duy
trì hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ, để xây
dựng nền hịa bình thế giới lâu dài”.
7
Đối với quan hệ ngoại giao của Việt Nam với nước Pháp, cũng như
các nước trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln xác định nhất qn quan
điểm hịa bình, hữu nghị và hợp tác: “Nếu có những người Pháp muốn qua
đây điều đình một cách hịa bình (từ trước tới nay chưa có một cuộc điều
đình như vậy, nhưng giả sử có, lẽ tất nhiên chúng ta sẽ hoan nghênh)….”.
Trên tinh thần hịa bình, hữu nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đại diện Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký thỏa thuận dự kiến với đại diện
Chính phủ Pháp (ngày 6/3/1946, Pháp cơng nhận hợp pháp Việt Nam là một
nước tự do, có chính phủ., quốc hội, qn đội và tài chính).
Khi cơ hội hịa hỗn giảm đi và nguy cơ xung đột tồn quy mơ tồn
cục gia tăng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại diện của chính phủ Pháp là M.
Mounet đã nỗ lực cuối cùng để cứu vãn nền hịa bình bị đe dọa vào năm
1946 bằng việc ký bản “Tạm ước”. Nhằm hạn chế khả năng xảy ra cuộc
chiến tranh mà các thế lực thực dân Pháp phản động tích cực triển khai.
Sau những nỗ lực và cố gắng to lớn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, khơng phải tất cả các giải pháp đàm phán vì hịa bình ở Việt Nam đều
có thể thành hiện thực. Thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam một lần
nữa, và người dân Việt Nam khơng cịn cách nào khác là phải tự vũ trang
mình để bảo vệ đất nước. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời
kêu gọi tồn dân kháng chiến: “Chúng ta muốn hịa bình, chúng ta phải nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì
chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi
đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!” Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến
chính là sự kế thừa và tiếp nối tinh thần yêu nước của Việt Nam, ý chí bất
khuất đương đầu với mn vàn thế lực ngoại xâm, “cả nước đánh giặc”,
8
“trăm họ là binh” trong truyền thống lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm
của dân tộc.
Quân và dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, dựa vào sức mình là chính” giành được thắng lợi rực rỡ, khi có
sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ
“vang dội năm châu, chấn động địa cầu”, giải phóng miền Bắc, tạo điều
kiện cơ bản để tạo điều kiện cơ bản để thực hiện sứ mệnh của cách mạng
dân chủ nhân dân. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã buộc thực dân Pháp
phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấp nhận rút qn khỏi nước ta, tơn trọng nền
hịa bình, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và Đông
Dương.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa khơng chỉ với nước ta mà cịn đối với
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra:
“Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một
nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt
Nam, đồng thời, cũng là một thắng lợi của các lực lượng hịa bình, dân chủ
và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”(1).
1.2 Chiến tranh và hịa bình trong cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng
Tuy nhiên, ngay sau Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đế quốc Mỹ đã
trực tiếp vào xâm lược nước ta, dựng nên “ngụy quyền” và “ngụy quân”
(đây là chính quyền và quân đội làm tay sai cho đế quốc Mỹ ở miền Nam),
buộc chúng ta phải bước vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
9
Vào thời điểm đó, Đảng đã mở đường với giải pháp đúng đắn để giải
phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước khỏi kẻ thù mới là
đế quốc Mỹ. Đồng thời với việc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, Đảng đã đề ra mục tiêu toàn diện chung là đánh Mỹ, cứu nước,
giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc ở hai miền,
thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng. Đây là ngọn cờ chính nghĩa
duy nhất đã tập hợp được sức mạnh to lớn nhất của cả hai miền Nam - Bắc
để kháng chiến cứu nước.
Ngồi ra, Đảng có đường lối quốc tế phù hợp, luôn ủng hộ tinh thần
quốc tế cao cả của chuyên chính vơ sản. Xác định cách mạng Việt Nam ln
là một bộ phận của cách mạng thế giới, gắn bó mật thiết với nhân dân Lào
và Campuchia, đó là sự gắn bó mật thiết với ba dịng thác cách mạng. Cuộc
chiến đấu chống đế quốc Mỹ được coi là nghĩa vụ dân tộc thiêng liêng cũng
là nghĩa vụ quốc tế cao cả. Tất cả hoạt động chống lại Mỹ đều nhằm phục vụ
lợi ích của cả hai cuộc cách mạng Việt Nam và thế giới, do đó nhận được sự
ủng hộ to lớn của những người u chuộng hịa bình trên toàn thế giới.
Trên ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kết hợp
sức mạnh to lớn của tiền tuyến và hậu phương, huy động sức mạnh của toàn
dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cuộc kháng chiến này
đã thể hiện truyền thống cách mạng và sức sáng tạo của Đảng ta được kết
tinh, tổng hợp và phát triển ở trình độ cao, đưa đến đại thắng mùa Xuân năm
1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, kỷ nguyên độc lập, tự do
và chủ nghĩa xã hội trên đất nước của chúng ta. “Năm tháng sẽ trôi qua,
nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang
chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh
10
hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến
công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và
có tính thời đại sâu sắc”(2).
2. Vấn đề chiến tranh và hịa bình trong cách mạng XHCN sau
năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng
2.1 Các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới dưới sự lãnh đạo của
Đảng
Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc
Trong những ngày đầu Việt Nam thống nhất, Trung Quốc đã gia tăng
các hoạt động quân sự, khiêu khích vũ trang, xâm lược trên bộ, tạo nên tình
hình căng thẳng và phức tạp trên tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam. Họ
tuyên bố đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế rằng họ sẽ chỉ sử dụng sức
mạnh của lực lượng “Bộ đội biên phòng” để thực hiện cuộc “phản kích tự
vệ” đối với cuộc xung đột, “lấn chiếm đất đai” và “quấy rối biên cương” của
Việt Nam. Sự thật là cuộc tranh chấp biên giới Việt-Trung không có qn
đội Việt Nam và chúng ta cũng khơng gây sức ép như vậy để Trung Quốc
“tự vệ”, mà chỉ có phía Trung Quốc đang chuẩn bị một lực lượng lớn cho
một cuộc tấn
cơng vào Việt Nam.
Trước tình hình căng thẳng của biên giới phía Bắc, Đảng và dân tộc ta
khẩn trương củng cố, vừa thực hiện chủ trương giải quyết hịa bình, vừa đẩy
nhanh việc thành lập các Qn khu 1 và 2 để tăng cường lực lượng.
Trước cuộc tấn cơng ồ ạt của Trung Quốc, Chính phủ ta đã tun bố
rằng: Chính phủ Trung Quốc đã có hành động đi ngược lại lợi ích của nhân
dân, làm tổn hại nghiêm trọng đến tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân
hai nước “Qn và dân Việt Nam khơng có còn con đường nào khác là phải
dùng quyền tự vệ chính đáng của mình để đánh trả”.
11
Với tinh thần “khơng có gì q hơn độc lập, tự do”, quân và dân ta
kiên cường tiếp nối truyền thống cách mạng, nhất là ở các vùng Việt Bắc và
vùng Tây Bắc, sát cánh với với bộ đội chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
thiêng liêng của quê hương đất nước.
Chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam
Từ năm 1975 đến năm 1978, tập đồn Pơn Pốt phản bội sự nghiệp
cách mạng Campuchia, phá hoại truyền thống đoàn kết, hữu nghị giữa nhân
dân hai nước Việt Nam và Campuchia, thực hiện chính sách diệt chủng ở đất
nước Campuchia. Ngồi hành vi gây hấn, tập đồn Pơn Pốt cịn bơi xấu hình
ảnh Việt Nam bằng cách khơi gợi tâm lý kích động chống Việt Nam và coi
Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”, “kẻ thù muôn thuở”, “kẻ thù số một”.
Trước những hành động khiêu khích của quân Pôn Pốt và cuộc tiến
công xâm phạm vào biên giới Tây Nam của Việt Nam, Đảng và dân tộc ta
quyết giành độc lập trong hịa bình bằng việc ký hiệp ước biên giới. Hiệp
ước giữa Việt Nam - Campuchia nhằm phát triển tình đồn kết, hữu nghị và
chúng ta ln nhất trí tơn trọng chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ. Tại cuộc gặp
đại diện Việt Nam-Campuchia tại Phnôm Pênh tháng 4 năm 1976, chúng ta
và nước bạn đã thực hiện nghiêm túc hiệp định.
Thực hiện chủ trương xây dựng đường biên giới hịa bình, hữu nghị
với Campuchia, Qn ủy Trung ương Đảng ta đã tăng cường tình đồn kết
hữu nghị với nhân dân Campuchia và quân khu có đường biên giới giáp
Campuchia, tránh các hành động khiêu khích, chống phá nhà nước. Bất chấp
mọi nỗ lực ngoại giao hòa bình của Việt Nam, tập đồn Pơn Pốt vẫn tung tin
thất thiệt về lịch sử, tích cực kích động xung đột và âm mưu xâm lược biên
giới Tây Nam của Việt Nam.
Sự xâm lược và tàn sát dã man của Tập đồn Pơn Pốt là khơng thể
dung thứ. Đáp lại lời kêu gọi khẩn của “Mặt trận thống nhất cứu quốc
12
Campuchia” và nhân dân Campuchia, Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện
quyền tự vệ hợp pháp và thiêng liêng để bảo vệ chủ quyền và tồn vẹn lãnh
thổ của mình. Bảo vệ đất nước của bạn và quốc gia đó, đồng thời đảm bảo
an tồn tính mạng và tài sản của mọi người. Cùng nhau, chúng ta sẽ lật đổ
chế độ diệt chủng và giúp những người cách mạng chân chính của
Campuchia xây dựng lại cuộc cách mạng bị phản bội.
2.2 Chiến lược “Diễn biến hịa bình” trong tình hình mới
Cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hịa bình” của Đảng trong cơng cuộc
đổi mới tồn diện đất nước ln diễn ra trong một mơi trường phức tạp và
khó khăn. Qn địch luôn mạnh tay, chống phá ta bằng hàng loạt luận điệu,
thủ đoạn mới, tinh vi, lợi dụng khó khăn, vướng mắc, nổi cộm.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta tích cực đấu tranh phịng, chống
về tư tưởng chính trị, lối sống, những biểu hiện suy thoái lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các đảng, thì các thế lực thù
địch đang tìm cách cản trở cách mạng. Chúng xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm suy yếu đảng và chính quyền, làm suy yếu
mối quan hệ gắn bó giữa Đảng ta với nhân dân.
Không thể tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản bằng vũ lực, nên cuộc kháng
chiến chống phá cách mạng Việt Nam chuyển sang đấu tranh bất bạo động
với nhiều thủ đoạn ngày càng thâm độc, những hành động thù địch do các
thế lực mạnh thực hiện từ trước đến nay khơng nằm ngồi âm mưu, tức là
đẩy mạnh phá hoại từ bên trong, gây chia rẽ nội bộ, nhất là phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại sự gắn bó của nhân dân với đảng, kích động
nhân dân biểu tình mỗi khi có cơ hội, bạo loạn gây mất ổn định chính trị.
Đại dịch Covid-19 hoành hành ở Việt Nam trong thời gian qua như là một
trong những điều kiện để các thế lực thù địch nhen nhóm mưu đồ đen tối,
nhằm thực hiện “diễn biến hịa bình” tại Việt Nam.
13
Tây Nguyên là địa bàn có tầm quan trọng đặc biệt về an ninh quốc
phòng và chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Các thế lực thù địch, phản động từ lâu
đã rất quan tâm đến vùng đất này và đang âm mưu đục khoét đất nước ta. Họ
đã chỉ huy thành lập “Nhà nước Đề Ga độc lập” từ bên ngồi, sử dụng nhóm
“Tin lành Đề Ga” như một cơng cụ để phát triển lực lượng phản động phá
hoại trong nước. Gần đây, việc khôi phục và thành lập các cơ sở phản động
trong nước do nhóm người FULRO lưu vong tổ chức càng nổi lên làm bàn
đạp cho các hoạt động chống phá nước ta. Đảng, nhà nước và nhân dân các
dân tộc đã nhân hậu đối với kẻ lầm đường lạc lối. Hơn 44 năm qua, cấp ủy,
cơ quan, quân và dân tỉnh Gia Lai - nơi từng trở thành vùng đất “nóng” nhất
Tây Nguyên do các vấn nạn như FULRO, “Tin lành Đề-ga”, và các tệ nạn
mới nổi… đã nỗ lực hết mình thể hiện sự sáng tạo, nhân văn, thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng đã khiến hàng nghìn người cảm động, yên
tâm lao động, sản xuất, đóng góp tích cực cho gia đình, q hương Gia Lai.
3. Vai trò của liên hiệp quốc trong việc duy trì hịa bình, an ninh
thế giới
Sự ra đời của Liên hợp quốc phản ánh nhiệm vụ chung vì hịa bình, an
ninh, hợp tác và phát triển của thế giới. Liên hợp quốc đã triển khai hơn 70
phái bộ và hoạt động gìn giữ hịa bình trên khắp thế giới nhằm giải quyết
nhiều cuộc xung đột, lập lại hòa bình và hỗ trợ tái thiết ở nhiều quốc gia và
khu vực.
Liên hợp quốc đã đóng góp to lớn vào việc thúc đẩy và củng cố luật
pháp quốc tế, đưa ra các khuyến nghị để định hướng cho việc thiết lập tiêu
chuẩn chung, tạo ra “luật chơi” chung trong nhiều lĩnh vực. Dưới sự điều
phối và trung gian của Liên hợp quốc, hơn 500 điều ước quốc tế và đa
14
phương quan trọng đã được ký kết, trở thành “trụ cột” của luật pháp quốc tế,
tạo khuôn khổ chung để duy trì hịa bình, an ninh và thúc đẩy kinh tế - xã hội
tồn cầu. Hoạt động gìn giữ hịa bình là một cơ chế đặc biệt do Liên hợp
quốc triển khai, bao gồm cả các hoạt động quân sự và dân sự, nhằm thiết lập
sự hiện diện của Liên hợp quốc (với sự đồng ý của các bên liên quan) tại các
quốc gia bị chia rẽ và xung đột để thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ chính trị và
an ninh cần thiết; khơi phục và tạo ra hịa bình và ổn định lâu dài.
4. Bảo vệ Tổ quốc bằng phương pháp hịa bình là chủ trương
nhất qn của Đảng và Nhà nước ta
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội
thông qua ngày 28/11/2013, đã tạo cơ sở pháp lý nền tảng cho việc cử lực
lượng tham gia hoạt động Giữ gìn hịa bình Liên hợp quốc khi xác định:
“Lực lượng vũ trang nhân dân… cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực
hiện nghĩa vụ quốc tế.” (Điều 65) và “Hội đồng Quốc phòng và An ninh…
quyết định việc lực lượng vũ trang nhân dân (LLVT) tham gia hoạt động góp
phần bảo vệ hịa bình ở khu vực và trên thế giới” (Điều 89).
Từ diễn biến của thực tiễn thế giới, khu vực và trong nước, cùng một
số những hạn chế, thiếu sót cả trong lãnh đạo chỉ đạo và tổ chức thực hiện
nhiệm kỳ qua đã được chỉ ra trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Để thực
hiện thắng lợi quan điểm của Đảng đã xác định “Có kế sách ngăn ngừa các
nguy cơ chiến tranh, xung đột “từ sớm, từ xa”, theo chúng tôi cần chú trọng
thực
hiện
tốt
một
số
giải
pháp
sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến
lược. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm kịp thời để Đảng, Nhà
nước, Quân ủy Trung ương (QUTƯ), Bộ Quốc phòng (BQP) đề ra quyết
15
sách, phương án ngăn ngừa hiệu quả nguy cơ xảy ra chiến tranh, xung đột,
nhất là trong bối cảnh quốc tế, khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng,
phức tạp, khó lường. Để thực hiện giải pháp này, trên cơ sở nhận thức sâu
sắc nghị quyết Đại hội XIII và Đại hội XI của Đảng bộ Quân đội, cần nghiên
cứu kỹ hệ thống quân sự, chiến lược quốc phòng, BVTQ mới ban hành; tích
cực nghiên cứu chiến lược QPAN của các nước có ảnh hưởng trực tiếp đến
nước ta, từ đó chỉ ra những nguy cơ, thách thức, xây dựng phương án, kế
hoạch, chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra hiện nay và
tương lai.
Thứ hai, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân về quan điểm BVTQ “từ sớm, từ xa”. Một trong những vấn đề còn
hạn chế mà Đại hội XIII của Đảng chỉ ra là “việc quá triệt nghị quyết Đảng
và pháp luật Nhà nước về QPAN, BVTQ chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao,
dẫn đến những biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác”(3). Vì thế quan điểm “Có
kế sách ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột, BVTQ “từ sớm, từ xa”
cần phải được quán triệt sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Việc
quán triệt này phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu và là trách nhiệm
của mọi tổ chức đảng, các đoàn thể, các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị,
nhất là vai trò cấp ủy, người đứng đầu. Để thực hiện cần xác định rõ trách
nhiệm, đa dạng các hình thức, mở rộng đối tượng, phạm vi; phối hợp chặt
chẽ giữa các thành phần, lực lượng, phát huy vai trò nòng cốt của cơ quan
thông
tin,
phương
tiện
truyền
thông.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cấp, các ngành, các
thành phần, lực lượng của hệ thống chính trị nhằm thực hiện quan điểm quốc
phịng “từ sớm, từ xa”. Thực hiện khái niệm phòng thủ “xa” nhằm nâng cao
hiệu quả phối hợp giữa các cấp, các ngành, các thành phần, đơn vị trong hệ
16
thống chứ khơng chỉ theo quan điểm nhất thời. Nó không chỉ nâng cao nhận
thức, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cấp, các ngành của tồn hệ thống chính
trị, mà cịn bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của các hoạt động và q trình
phát
triển
QPAN.
Thứ tư, xây dựng LLVT, nịng cốt là Quân đội nhân dân sẵn sàng
chiến đấu BVTQ trong mọi tình huống. Ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh,
xung đột vũ trang, BVTQ “từ sớm, từ xa” là trách nhiệm của tồn Đảng,
tồn dân, tồn qn, trong đó Qn đội nhân dân, Cơng an nhân dân là lực
lượng nịng cốt. Với chức năng và nhiệm vụ được giao, thời gian tới, cần
quán triệt và thực hiện hiệu quả quan điểm Đại hội XIII về: “Xây dựng Quân
đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Là lực
lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phịng, BVTQ, vì
thế để ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột, trước hết quân đội phải tiếp
tục nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần cảnh giác cao, ý chí chiến đấu,
tuyệt đối khơng mơ hồ, bị động; nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập;
đồng thời thực hiện đồng bộ, toàn diện định hướng và các giải pháp đã xác
định trong định hướng 2021-2025 xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh”,
phấn
đấu
từ
năm
2030
xây
dựng
quân
đội
hiện
đại.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và đối ngoại quốc phòng.
Đây là giải pháp rất quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, nhằm phát huy sức mạnh ngoại lực BVTQ “từ sớm, từ xa”. Cần
quán triệt thực hiện hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị và QUTƯ về hội nhập quốc tế, về đối ngoại quốc
phịng. Theo đó, phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng, các cơ quan
ngoại giao, các diễn đàn đa phương, song phương để nắm, phát hiện, đề ra
các biện pháp ngăn ngừa, triệt tiêu mâu thuẫn, bất đồng. Nắm vững quan
17
điểm đối tác, đối tượng, giữ vững nguyên tắc chiến lược, khôn khéo, linh
hoạt về sách lược, chủ động phối hợp với các nước trong xử lý an ninh phi
truyền thống, tăng cường phối hợp tuần tra chung trên biển, biên giới với các
quốc gia láng giềng; tham gia tích cực lực lượng Gìn giữ hịa bình Liên hợp
quốc, quảng bá hình ảnh và nhất là quan điểm, chính sách quốc phòng Việt
Nam trên trường quốc tế.
KẾT LUẬN
Trong vài năm tới, thách thức của cuộc chiến “Diễn biến hịa bình”
trên toàn thế giới, nhất là ở Việt Nam sẽ ngày càng gay gắt và phức tạp, yêu
18
cầu ddawtj ra cho Đảng, các tổ chức phải tăng cường lãnh đạo, kiên quyết
đập tan mọi kế hoạch và âm mưu của kẻ thù.
Để có được cuộc sống hịa bình như ngày nay, thế hệ trẻ phải nhận
thức được tầm quan trọng, vai trị của hịa bình dân tộc, cuộc sống của dân
tộc và trách nhiệm của bản thân trong việc duy trì và giữ gìn hịa bình. Như
Bác Hồ đã từng nói “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”. Một đất nước
độc lập, tự do là nền tảng của công cuộc xây dựng và phát triển trong hịa
bình.
Thế hệ trẻ chúng ta cần nâng cao trách nhiệm trong nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc, làm tốt sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do Đảng
và nhà nước giao phó. Đây là một nhiệm vụ hết sức thiêng liêng và cao cả.
Thực hiện nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ của mình đối với đất nước.
Tích cực tham gia nghĩa vụ quân sự, rèn luyện bản thân, nâng cao tư tưởng.
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh xác định mục tiêu
phấn đấu, rèn luyện. Chúng ta sống với sứ mệnh xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc cùng với nhân dân và đất nước.
Không ngừng học hỏi và tiếp thu những kiến thức tiên tiến trên thế
giới. Hãy sử dụng kiến thức của mình như một sức mạnh để xây dựng đất
nước và ngăn chặn khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu. Làm việc chăm chỉ để làm
giàu cho bản thân và đất nước của mình.
Thanh niên tiếp tục phát huy, rèn luyện đạo đức để phục vụ quê
hương, đất nước. Tuổi trẻ phải có khả năng tự lập, tự bước đi, biết chịu trách
nhiệm, không dựa dẫm vào người khác. Thanh niên cần chủ động, tích cực,
sáng tạo và khơng ngừng đổi mới trong tư duy và hành động. Tuổi trẻ phải
dám nghĩ, dám làm, hy sinh, tập trung vì mục tiêu chung của đất nước.
19
Lên án và phản đối mẽ những hành vi chống đối, phá hoại hịa bình
của đất nước. Tun truyền, cổ vũ, giải thích về nền hịa bình dân tộc đồng
thời nâng cao tình yêu nước và ý thức bảo vệ nền hịa bình đất nước cho mọi
người. Nhiệt tình giới thiệu, quảng bá và khẳng định hình ảnh đất nước, nền
hịa bình của dân tộc ra khắp thế giới.
Khi có mâu thuẫn với các quốc gia, phải biết thương lượng để giải
quyết. Tránh xung đột không cần thiết, tránh chiến tranh. Chấp hành pháp
luật và nhất trí thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước.
Sống tơn trọng và học hỏi những cái hay, cái đẹp, cái mới và sự tiến bộ của
các dân tộc khác trên thế giới.
PHỤ LỤC
20
Hình 1.1a Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại diện của chính phủ Pháp bản
Tạm ước (14/09/1946)
21
Hình 1.1b Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Lời kêu gọi tồn quốc kháng
chiến”
Hình 1.1c Đồng chí Tạ Quang Bửu thay mặt Bộ tổng tư lệnh ký bản Hiệp
định đình chiến năm 1954. (Hiệp định Giơnevơ)
22
Hình 1.2 Ngày Giải phóng miền Nam 30/04/1975
Hình 2.1 Ký Hiệp định biên giới giữ Việt Nam và Campuchia năm 1976
23
Hình 2.2 Nhóm người FULRO của “Nhà nước Đề Ga” lĩnh án
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1)
Hồ Chí Minh tồn tập, Sđd, t.12, tr.410.
(2)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, H.1976,
tr.5-6
(3)
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII, H. 2021. tr.87
1. Cổng thơng tin điện tử Đảng bộ tỉnh Quảng Trị, truy cập ngày 11/1/2022,
/>2. Cơ quan của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phịng, truy cập ngày
12/1/2022, />3. Trang thơng tin điện tử tổng hợp Ban Nội chính Trung ương, truy cập
ngày 11/1/2022, />
24
lanh-dao-cua-dang-la-nhan-to-quyet-dinh-moi-thang-loi-trong-tien-trinhcach-mang-viet-nam-307494/
4. Trang tin điện tử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, truy cập ngày
11/1/2022,
/>
chuong-hoa-binh-1491884470
25