Tải bản đầy đủ (.doc) (149 trang)

Ths tâm lý học nghiên cứu stress ở những bậc cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 149 trang )

DANH SÁCH CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CT

:

Căng thẳng

ĐTB

:

Điểm trung bình

ICT

:

Ít căng thẳng

KBG

:

Khơng bao giờ

KTTT

:

Khuyết tật trí tuệ


%

:

Tỉ lệ phần trăm

RCT

:

Rất căng thẳng

RTX

:

Rất thường xuyên

SL

:

Số lượng

SD

:

Độ lệch chuẩn


Sig.

:

Mức ý nghĩa quan sát

TX

:

Thường xuyên

TT

:

Thỉnh thoảng

MỤC LỤC


Mở đầu………………………………………………………………...
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………...
2. Mục đích chọn đề tài……………………………………………….
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu………………………………..
4. Giả thuyết khoa học………………………………………………...
5. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………........
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu…………………………………........
7. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………...


1
1
2
2
3
3
3
3

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ STRESS VÀ STRESS Ở CHA MẸ
CÓ CON MẮC HỘI CHỨNG TỰ KỶ…………………………..
1.1. Lịch sử nghiên cưú vấn đề stress……………………………........
1.1.1. Những cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi………………........
1.1.2. Những cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam……………………..
1.2. Một số vấn đề lí luận về stress:…………………………………..
1.2.1. Khái niệm về stress…………………………………………….
1.2.2. Một số mơ hình lý thuyết về stress……………………………..
1.2.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán…………………………………………..
1.2.4. Nguyên nhân gây stress………………………………………...
1.2.5. Điều trị……………………………………………………........
1.3 Khái niệm hội chứng tự kỷ………………………………………..
1.4. Đặc điểm tâm sinh lý của các bậc cha mẹ có con mắc hội chứng
tự kỷ………………………………………………………...................
1.5. Đặc điểm stress ở người trưởng thành……………………………
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………..
2.1. Mục đích nghiên cứu……………………………………………..
2.2. Nội dung nghiên cứu……………………………………………..
2.3. Tiến trình nghiên cứu…………………………………………….
2.3.1. Giai đoạn nghiên cứu lý luận…………………………………...
2.3.2. Giai đoạn khảo sát thực trạng, xử lý số liệu và viết kết quả khảo

sát thực trạng…………………………………………………….
2.3.3. Giai đoạn thực nghiệm tác động, xử lý và viết kết quả thực
nghiệm…………………………………………………………………
2.4. Các phương pháp nghiên cứu:……………………………………
Chương 3: THỰC TRẠNG STRESS Ở CÁC BẬC CHA MẸ CÓ
CON MẮC HỘI CHỨNG TỰ KỶ……………………………………
3.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu……………………...
3.2. Thực trạng nhận biết về stress và mức độ stress ở cha mẹ có con

4
4
4
14
17
17
20
26
31
35
36
42
47
50
50
50
50
50
51
52
52

65
65
67


mắc hội chứng tự kỷ…………………………………………………...
3.2.1. Thực trạng nhận biết về stress của nhóm khách thể nghiên cứu..
3.2.2. Thực trạng mức độ stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỉ.
3.3. Thực trạng về biểu hiện stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng tự
kỉ……………………………………………………………………….
3.3.1. Thực trạng biểu hiện stress về mặt thể chất ở cha mẹ có con
mắc hội chứng tự kỉ……………………………………………………
3.3.2. Biểu hiện stress về mặt tâm lý ở cha mẹ có con mắc hội chứng
tự kỉ……………………………………………………………………
3.4. Các nguyên nhân gây stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng tự
kỉ………………………………………………………………………..
3.5. Hậu quả khi bị stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỉ………
3.6. Các biện pháp giảm stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ...
3.7. Kết quả thực nghiệm các biện pháp giảm stress…………………..
3.7.1. Kết quả trước thực nghiệm………………………………………
3.7.2. Kết quả sau thực nghiệm………………………………………...
3.7.2.1. Kết quả thang đo lo âu của C.Jung…………………………….
3.7.2.2. Kết quả quan sát sau thực nghiệm…………………………….
3.7.2.3. Một số kết quả khác…………………………………………...
3.8. Một số chân dung tâm lý điển hình………………………………..
3.8.1. Trường hợp thứ nhất…………………………………………….
3.8.2. Trường hợp thứ 2………………………………………………..
3.8.3. Trường hợp thứ 3………………………………………………..
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………………
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………


67
68
69
70
72
76
87
90
95
95
98
98
100
101
101
101
105
107
110
112


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Thực trạng mức độ stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng tự
kỉ…………………………………………………………………………
Bảng 3.2. Biểu hiện stress về mặt thể chất ở cha mẹ có con mắc hội

68


chứng tự kỉ………………………………………………………………
Bảng 3.3. Những biểu hiện stress về mặt tâm lý ở cha mẹ có con mắc

70

hội chứng tự kỉ…………………………………………………………..
Bảng 3.4. Các nguyên nhân gây ra stress ở cha mẹ có con mắc hội

73

chứng tự kỉ………………………………………………………………
Bảng 3.5. Hậu quả của stress trong cuộc sống của các cha mẹ có con

76

mắc hội chứng tự kỉ……………………………………………………...
Bảng 3.6. Các biện pháp giảm stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng tự

87

kỉ………………………………………………………………………… 91
Bảng 3.7. Số lượng mức độ stress qua thang lo âu và khí chất…………. 96
Bảng 3.8. Kết quả điểm số và mức độ stress trước khi làm thực nghiệm. 97
Bảng 3.9. Kết quả mức độ stress sau thực nghiệm……………………... 98
Bảng 3.10. Kết quả quan sát sau thực nghiệm………………………….. 100

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


Biểu đồ 3.1. Mức độ stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỉ……...

Biểu đồ 3.2. Các biểu hiện stress về mặt thể chất ở cha mẹ có con mắc
hội chứng tự kỉ………………………………………………………….
Biểu đồ 3.3. Các biểu hiện stress về mặt tâm lý ở cha mẹ có con mắc
hội chứng tự kỉ………………………………………………………….
Biểu đồ 3.4. Hậu quả của stress với các cha mẹ có con mắc hội chứng
tự kỉ……………………………………………………………………..
Biểu đồ 3.5. Các biện pháp giảm stress ở cha mẹ có con mắc hội chứng
tự kỉ……………………………………………………………………..

69
71
74
88
94


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội càng văn minh, stress xuất hiện càng nhiều. Stress là trạng thái
phức tạp của đời sống con người, chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố xã hội. Vấn
đề stress đã được rất nhiều nhà khoa học đặc biệt là tâm lý học và y học quan
tâm nghiên cứu. Thực chất stress không phải hồn tồn có hại. Ở một mức độ
nhất định, stress kích thích cơ thể hoạt động, huy động năng lượng dự trữ, tạo
điều kiện cho hành động của con người đạt kết quả cao, đó là loại stress có
lợi. Nhưng stress vượt quá ngưỡng sẽ làm cho cơ thể kiệt sức, căng thẳng, lo
âu, suy giảm hệ miễn dịch, giảm khả năng lao động trí óc và chân tay… Đây
là loại stress có hại nên cần có biện pháp khắc phục, giảm thiểu ảnh hưởng
của nó đối với con người. Stress xuất hiện ở con người thuộc mọi lứa tuổi
khác nhau, trên mọi bình diện của cuộc sống, ở tất cả các lĩnh vực, trong toàn

bộ các mối quan hệ.
Cùng với sự phát triển đó của xã hội, các căn bệnh mà cách đây mấy chục
năm tưởng chừng như rất hiếm hoi thì dường như bây giờ đang trở thành “đại
họa”. Một trong những căn bệnh đó là tự kỷ, mà nạn nhân chủ yếu là trẻ em. Các
bậc cha mẹ ngày nay với lượng kiến thức dồi dào cùng kỹ năng xã hội nhuần
nhuyễn ở mức độ nhất định cũng vẫn bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, khơng
dám tin vào sự thật là con mình mắc hội chứng tự kỷ. Một số bậc cha mẹ ban
đầu chấp nhận được sự thật đó, nhưng dường như những đau đớn, lo âu, căng
thẳng xen lẫn cảm giác tội lỗi là họ đã gây ra căn bệnh này cho con mình… tất
cả những điều đó sẽ khơng chỉ gây hại đến sức khỏe thể chất cũng như tinh thần
của họ mà còn ảnh hưởng đến cả khả năng chữa trị cho những đứa con.
Các bậc cha mẹ ở những nước phát triển khi biết thân nhân mắc hội
chứng tự kỷ thường sẽ đi tìm tài liệu, tìm đến các dịch vụ , tham gia hiệp hội
hoặc các nhóm tương trợ giành cho người có loại khuyết tật đó. Cha mẹ sẽ
học hỏi cách dạy dỗ con cái, tìm sự giúp đỡ cũng như phục vụ và hướng dẫn,
và không bỏ qua cơ hội để có những dịch vụ trên. Người Việt chúng ta thường


2
gặp phải nhiều bất lợi hơn vì bệnh tự kỷ đã khá phổ biến ở Việt Nam nhưng
tài liệu hay những dịch vụ liên quan vẫn còn xa lạ với các bậc cha mẹ. Những
bất lợi đó dẫn tới nhiều mất mát và thiệt thịi, như cha mẹ khơng được sự cảm
thơng của cả hai bên gia đình, bạn bè, cộng đồng và xã hội, càng khiến họ
cảm thấy đau khổ, tuyệt vọng và khép kín mình lẫn thân nhân mắc hội chứng
tự kỷ sau khung cửa, cô lập với người xung quanh. Có bà mẹ đã vơ cùng đau
đớn khi các nhà hàng xóm khép kín cửa khơng muốn cho con cái họ chơi với
đứa bé mắc hội chứng tự kỷ, họ sợ con mình bị làm đau và nhiều điều khác
nữa. Đây là thực tế mà chúng tôi ln mong muốn được tìm hiểu, nghiên cứu
để thấy được rõ hơn những ảnh hưởng của Stress ở những bậc cha mẹ có con mắc
hội chứng tự kỷ, từ đó có thể vận dụng một số liệu pháp tâm lý để có thể giúp các

bậc cha mẹ vượt qua được những khủng hoảng đó, đồng thời tạo cơ hội để họ có
điều kiện tìm được những nguồn hỗ trợ trong việc chữa trị bệnh tự kỷ cho con
mình, mà đặc biệt là chính họ sẽ giúp con mình thốt khỏi căn bệnh đó một
cách tốt nhất khi có được tâm lý cân bằng và khỏe mạnh.
Từ mong muốn đó, tơi chọn đề tài: “Nghiên cứu Stress ở những bậc
cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về Stress và hội chứng tự kỷ, thực
trạng về các vấn đề tâm lý ở các bậc cha mẹ có con bị tự kỷ ở Hà Nội. Trên cơ
sở đó đề xuất một số liệu pháp tâm lý nhằm giảm thiểu stress ở các bậc cha
mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Mức độ và một số biểu hiện Stress ở các bậc cha mẹ có con mắc hội
chứng tự kỷ.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 30 khách thể là cha mẹ có con mắc hội
chứng tự kỷ ở các cơ sở chẩn đoán, can thiệp bán hòa nhập và chuyên biệt.


3
4. Giả thuyết khoa học
Phần lớn cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ thường rơi vào tình trạng
Stress ở mức độ trầm trọng. Nếu được hướng dẫn một số liệu pháp thư giãn
họ có thể sẽ giảm được phần nào căng thẳng và lo âu trong quá trình chữa
bệnh cho con của mình.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu những vấn đề lí luận làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài: khái
niệm, biểu hiện, nguồn gốc…của Stress và stress ở các bậc cha mẹ có con
mắc hội chứng tự kỷ.

5.2. Khảo sát thực trạng mức độ và một số biểu hiện Stress ở các bậc cha mẹ
có con bị tự kỷ, tìm hiểu ngun nhân dẫn đến thực trạng đó.
5.3. Thử nghiệm một số liệu pháp thư giãn để giải tỏa Stress cho các bậc cha
mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: Chúng tơi chỉ tìm hiểu một số biểu hiện
stress ở các bậc cha mẹ ở độ tuổi 25-35 có con bị hội chứng tự kỷ .
- Giới hạn về phạm vi nghiên cứu: chúng tôi chỉ nghiên cứu các cha mẹ ở độ
tuổi từ 25 – 35 tuổi có con bị hội chứng tự kỷ đang được can thiệp tại bệnh
viện và các trung tâm giáo dục trẻ KTTT trong khoảng thời gian từ tháng
12/2009 đến tháng 9/2010.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia
- Phương pháp trắc nghiệm
- Phương pháp phân tích những trường hợp điển hình
7.3. Phương pháp thực nghiệm tác động làm giảm stress
7.4. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học


4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ STRESS
VÀ STRESS Ở CHA MẸ CÓ CON MẮC HỘI CHỨNG TỰ KỶ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những cơng trình nghiên cứu ở nước ngoài

Trong lịch sử phát triển khoa học, mặc dù chưa hiểu bản chất của stress
và cơ chế của nó, nhưng bằng thực tiễn của cuộc sống, con người đã nhận
thấy được những tác hại của nó đối với sức khỏe và đã đề xuất cách chống
stress có hại:
Từ thời Xuân thu Chiến Quốc (403 – 221 TCN), các danh y người
Trung Quốc với hơn 2000 năm kinh nghiệm, đã đúc kết những nguyên nhân
dẫn đến bệnh tật là do:
- Ngun nhân bên ngồi: “lục khí – ngũ vận”, (tức là gió – rét, nắng ẩm thấp, khơ hanh và nóng).
- Nguyên nhân bên trong: do rối loạn 7 loại cảm xúc, cịn gọi là “thất
tình” tức là: vui, giận, sầu bi, khoái lạc, yêu, ghét, đam mê.
- Nguyên do những biến cố trong đời sống như: thiên tai, tai nạn giao
thông, bị con vật cắn, ăn nhầm phải chất độc, thất nghiệp…(Dẫn theo 32, tr.21).
Từ những nguyên nhân trên, con người đã tìm ra hai nguyên lý cơ bản
trong việc phòng chống bệnh tật là: “Thiên – Nhân tương ứng” và “điều – hòa
theo thuật số” (dẫn theo 33, tr.10). Các nguyên lý này mang đầy đủ nội dung
ba biện pháp của Tổ chức Y tế thế giới là: Dinh dưỡng hợp lý; thể dục thể
thao cho mọi người, đề cao trách nhiệm cá nhân.
Thế kỷ XIII, ở Việt Nam, trong tác phẩm “Nam dược thần hiệu” danh y
Tuệ Tĩnh đã khẳng định nguyên nhân cốt lõi của bệnh tật là thất tình và đưa ra
phương cách trị bệnh: ám thị bằng cảm xúc đối lập gây ra bệnh (Dẫn theo 32,
tr.12). Cùng thời, tại Việt Nam, danh y Hải Thượng Lãn Ơng cũng nhận định
tình trạng bệnh lý liên quan tới yếu tố “thất tình” và đề nghị những kinh


5
nghiệm phòng bệnh qua việc: ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi… một cách chừng
mực hợp lý (Dẫn theo 16,tr.21).
Thế kỷ XVII, Hooke đưa ra thuyết “tương đồng cấu trúc” đánh dấu
mốc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu stress. Cũng từ thuyết này, từ
“stress” bắt đầu mang ý nghĩa khoa học. Hooke đặt vấn đề: Làm thế nào

những cấu trúc hạ tầng do con người xây dựng có thể chịu được những khối
nặng khổng lồ mà không bị sụp đổ. Ông lý giải: “load” – khối nặng đè lên cấu
trúc; “stress” – phần bị khối nặng đè lên, và “strain” – sự thay đổi hình dạng
do tương tác giữa khối nặng và stress. Những khái niệm này và nhiều khái
niệm khác đều hàm ý chung: stress là những tác động của yếu tố bên ngồi
địi hỏi sự đáp ứng của hệ sinh – tâm lý – xã hội.
Sự đóng góp của Hooke bởi thuyết “tương đồng cấu trúc” và ý tưởng
“cơ thể như một cỗ máy” đặt nền móng cho hai ý tưởng khác có ảnh hưởng
sâu sắc đến khái niệm về stress. Đó là:
- Thứ nhất, cơ thể được xem như cỗ máy là vật bị hư tổn và bào mòn.
Sau này, năm 1956 H.Selye cũng cho rằng stress tác động làm cơ thể “hư tổn
và bào mòn”.
- Thứ hai, cỗ máy cần nhiên liệu để hoạt động, cơ thể để hoạt động
được cũng cần năng lượng. Tùy thuộc vào năng lượng – sản phẩm của hệ thần
kinh, cơ thể sẽ hoạt động hiệu quả, kém hiệu quả hoặc thậm chí ngừng hoạt
động. Các nhà khoa học nhanh chóng sử dụng những khái niệm “sự cạn kiệt
năng lượng thần kinh” và “những rối loạn thần kinh”(Dẫn theo 44,tr.4).
Cùng thời, René Descartes (1546-1650) với những lý giải của mình
cũng để lại dấu ấn nhất định, không ở khái niệm stress, thì cũng trên lĩnh
vực tâm lý học nghiên cứu stress hiện nay. Ông đưa ra câu trả lời cho vấn
đề mối quan hệ giữa tâm trí và cơ thể: “tinh thần phi vật chất có thể ảnh
hưởng đến cơ thể vật chất”. Cho tới nay, vấn đề tinh thần – cơ thể có lẽ vẫn
là vấn đề chưa có lời giải đáp. Nhưng, cách tiếp cận của Réne Descartes:
“Mọi người đều trải qua những kinh nghiệm thể lý và tinh thần, và đều cảm


6
nhận rằng chúng ảnh hưởng lẫn nhau” đang được nhiều người quan tâm
(Dẫn theo 44,tr.4).
Thế kỷ XVII, những “cảm xúc mạnh” như: trạng thái tinh thần bị kích

động, chứng hysteri, ảo tưởng được xem xét lại như một lời giải thích, nhiều
người đã đi tới kết luận “Ít nhất 1/3 căn bệnh đều có nguồn gốc thần kinh”.
Các nhà khoa học và lý luận phê bình xã hội cùng thời cũng nhận định: “Hệ
thần kinh của con người thích nghi kém và khơng thể đương đầu với tính
phức tạp đang ngày càng tăng của cuộc sống hiện đại”(Dẫn theo 44, tr.4).
Thế kỷ XIX, George Beard – bác sĩ thần kinh người Mỹ cho rằng: Cuộc
sống với những yêu cầu đầy áp lực là một trong những nguyên nhân dẫn tới
sự quá tải của hệ thần kinh – “suy nhược thần kinh”. Tình trạng này được biểu
hiện bởi những triệu chứng như: lo âu không lành mạnh, mệt mỏi không rõ lý
do, và những nỗi lo sợ vô lý – mà ngun nhân là do hệ thần kinh khơng có
khả năng đáp ứng yêu cầu của cuộc sống hàng ngày. G.Beard cũng cho rằng
suy nhược thần kinh là hậu quả của “một loại tổ chức xã hội nào đó”, và “ơng
cố gắng làm rõ vai trò của xã hội trong việc tạo ra những căn bệnh tâm thần”
(Dẫn theo 44,tr.5-7), chính ở khía cạnh này, nghiên cứu của ơng vẫn cịn giá
trị cho tới ngày nay.
Năm 1859, nhà sinh lý học Pháp, Claude Bernard, đã đưa ra khái niệm
“môi trường bên trong cơ thể”, xem cơ thể con người phức tạp như một “tập
hợp những tồn tại đơn giản, như là những nhân tố giải phẫu”. Khái niệm này
mô tả nguyên lý: Chính sự hịa hợp và ổn định của mơi trường bên trong được
quyết định bởi mơi trường bên ngồi (nhiệt độ, dã thú…) là điều kiện để có
cuộc sống bình thường, tức là những thay đổi của mơi trường bên ngồi sẽ
khơng ảnh hưởng đến cơ thể, nếu cơ thể bù trừ và làm cân bằng những thay
đổi đó. Tuy nhiên, nếu chúng bị xáo trộn quá mức bình thường, con người sẽ
đau ốm hoặc có thể chết. Theo ông, chính hệ thần kinh đảm bảo chức năng
điều tiết bằng cách sắp đặt và làm hài hòa hoạt động của cơ thể. Ơng nhấn
mạnh, chỉ có động vật cao cấp nhất trong sự phát triển chủng loại mới có hệ


7
thần kinh làm được nhiệm vụ này. Dựa vào sự phát hiện của Claude Bernard,

các nhà nghiên cứu sau này đã khám phá bản chất của những thay đổi thích
ứng mà nhờ đó tình trạng ổn định được duy trì (Dẫn theo 44,tr. 5-7).
Đầu thế kỷ XX, Walter Cannon – nhà sinh lý học trường Harvard (Mỹ)
người đặt nền móng cho việc nghiên cứu thực nghiệm tương đối trong hệ
thống về những ảnh hưởng của stress qua các quan sát chi tiết của ông (1927)
về sự thay đổi của cơ thể khi bị đau đớn, đói và một số cảm xúc căn bản khác.
Đặc biệt trong tác phẩm nổi tiếng “Sự khôn ngoan của cơ thể” đã đưa ra khái
niệm “tự điều chỉnh, cân bằng nội môi” (“homeostasis”) và khái niệm “chống
trả hoặc bỏ chạy” (“the fight or fight reaction”) (Dẫn theo 8, tr.7). Ơng nhận
thấy có một trình tự hoạt tính được phát khởi trong các dây thần kinh và các
tuyến nội tiết nhằm chuẩn bị để có thể chiến đấu chống lại hoặc bỏ chạy để
bảo tồn tính mạng trước những đe dọa của ngoại cảnh. Con người nhanh
chóng nắm được bản chất của kích thích và những hành động bỏ chạy hay
chiến đấu với kích thích. Thậm chí, nếu khơng có hành động nào xảy ra, có
thể giữ nguyên trong trạng thái thức tỉnh một khoảng thời gian kèm theo là sự
cảm nghiệm kích thích hàng loạt phản ứng ở vị trí đầu tiên. “Homeostasis” là
khuynh hướng của cơ thể về trạng thái sinh lý trước khi xảy ra stress (thở,
nhịp tim…). Trung tâm của đáp ứng với stress là vùng dưới đồi, đôi khi được
gọi là trung tâm stress vì nó kiểm sốt hệ thần kinh tự chủ và hoạt hóa tuyến
yên. Nghiên cứu của Cannon, đặc biệt khái niệm “chống trả hoặc bỏ chạy” là
tiền đề cho các nghiên cứu này.
Năm 1932, I.P.Pavlov cũng đã nêu ra đặc trưng của khái niệm “Tự điều
chỉnh, cân bằng nội môi”: “…Cơ thể là một hệ thống tự điều chỉnh, và là một
hệ thống tự điều chỉnh bản thân ở mức cao nhất, hệ thống ấy tự duy trì bản
thân, tự hiệu chỉnh bản thân, tự cân bằng bản thân và thậm chí hồn thiện bản
thân” (Dẫn theo 8, tr 8).
Sau đại chiến thế giới lần II, W.H.Rivers, một bác sĩ tâm thần, cũng là
nhà nhân chủng học làm việc ở Anh, đã đặt ra những tiền đề cho các nhà



8
nghiên cứu khoa học ngày nay về tình trạng được gọi là rối loạn stress sau
sang chấn.
Năm 1936, Hans Selye, nhà nội tiết học người Canada đã mở rộng
nghiên cứu của Cannon và là người đầu tiên theo phương pháp hiện đại
nghiên cứu các ảnh hưởng của stress nặng tác động liên tục lên cơ thể. Ơng
mơ tả stress theo thuật ngữ “Hội chứng thích nghi chung” (GAS: General
Adaptation Syndrome) qua 3 giai đoạn (báo động, kháng cự và kiệt sức). Hội
chứng này được mơ tả theo mơ hình sau:

Mức kháng cự
bình thường

Báo động cơ thể
huy động đối
phó với tác nhân
gây stress

Kháng cự cơ thể cố
gắng đối phó hoặc
thích nghi với tác nhân
gây stress

Kiệt sức, cơ thể
mất khả năng đối
phó và dẫn tới
nguy cơ tử vong

Sơ đồ 1: Hội chứng thích nghi chung (Dẫn theo 8, tr 9)
- Giai đoạn thứ nhất (báo động và huy động sức lực): xảy ra khi người

ta ý thức sự hiện diện của tác nhân gây stress. Về mặt tâm lý, phân hệ thần
kinh giao cảm được kích thích trong suốt giai đoạn báo động và động viên
này. Sự kéo dài tình trạng phát động hệ thần kinh này có thể dẫn đến các rối
loạn trong hệ tuần hoàn máu hoặc bệnh loét dạ dày và cơ thể dễ mắc nhiều
thứ bệnh khác.


9
- Giai đoạn thứ hai (kiệt sức): Trong giai đoạn này, khả năng thích ứng
với tác nhân gây stress của con người sút giảm đến mức các hậu quả tệ hại
của stress xuất hiện: bệnh cơ thể, các triệu chứng tâm lý dưới dạng mất khả
năng tập trung tinh thần, dễ cáu giận hoặc trong vài trường hợp bị mất định
hướng và mất khả năng tiếp xúc với thực tại. Theo một ý nghĩ nào đó người ta
hồn tồn kiệt sức. Nếu stress chấm dứt, giai đoạn ba sẽ dẫn đến sự chết đi
của một cơ quan nào đó. Nghiên cứu của H.Selye giúp chúng ta hiểu tác động
ngắn hạn của những sự kiện gây stress đồng bộ (Dẫn theo 26, tr.419-420).
H.Selye đã đóng góp ba thuật ngữ quan trọng là: stress tích cực (eustress),
stress hữu ích (neustress), stress tiêu cực (distress). Năm 1970, ông phân làm
bốn loại: eustress(stress hữu ích), stress tiêu cực (distress), stress quá mức
( hyperstress, overstress), và stress dưới mức (hypostress, understress). Theo
H,Selye, không phải tất cả các loại stress đều xấu, nhưng khi nói về stress là
người ta nghĩ đến stress tiêu cực (distress). H.Seylye đã có hơn 1500 cơng bố
khoa học, và 30 cuốn sách chun khảo. Cơng trình của ơng cịn được tiếp tục
tại Đại học Selye – Toffler để xem xét những vấn đề thách thức của xã hội
hiện đại là căng thẳng thần kinh về thể xác, sự thay đổi và tương lai. Tuy
nhiên đánh giá về mơ hình GAS chúng ta thấy mơ hình hồn tồn căn cứ vào
các nhân tố sinh lý nên không quan tâm đến các nguyên nhân tâm lý. Dù vậy
mơ hình vẫn đề ra cơ sở cho việc tìm hiểu stress.
Năm 1972 Viện sĩ V.V.Parin đã nhận xét: “Khái niệm stress của
H.Selye đã thay đổi phần lớn quy tắc chữa trị và phong ngừa hàng loạt bệnh.

Quan điểm của ơng lúc đầu gặp khơng ít sự phản đối, bây giờ đã nhận được
sự phổ biến rộng khắp. Nói một cách tổng quát, học thuyết của nhà bác học
Canada nổi tiếng này có thể được coi là hệ thống luận điểm cơ bản, đặt nền
móng cho sự phát triển của khoa học y học hiện đại” (Dẫn theo 8, tr.10).
Khơng qn cơng lao đóng góp và tiếp tục cơng trình của ơng, kể từ hội
nghị quốc tế tại Montreux (1988) đến nay đã có gần 20 hội nghị về stress
được tổ chức. Các hội nghị là nơi quy tụ nhiều nhà nghiên cứu hàng đầu thế


10
giới nhằm loại bỏ đi những rào cản đối với sự tiến bộ trong phương pháp
nghiên cứu stress, đồng thời trao giải thưởng “Hans Selye” cho những người
có nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu đã trình bày về
nhiều vấn đề khác nhau như ảnh hưởng của stress và cảm xúc đến sức khỏe
(Charles Spielberger); Nghiên cứu stress trong bối cảnh thế giới thứ 3 (Nicola
Malan); Tự nhận thức và sức khỏe – Tầm quan trọng của thái độ về sức khỏe
và bệnh tật (Daniel Goleman)…(Dẫn theo 47)
Nếu như trước đây, những tài liệu khoa học đã công bố về stress phần
lớn thuộc lĩnh vực sinh lý học và y học, ít đề cập đến khía cạnh tâm lý học
của stress thì trong những năm gần đây ngày càng có nhiều tác giả nghiên cứu
vấn đề tâm lý học của stress.
Những khái niệm: “Các biến cố quan trọng của cuộc sống” và “sự
khủng hoảng” đã gợi lên nhiều định hướng lý thuyết khác nhau trong nghiên
cứu tâm lý học.
Gương mặt tiêu biểu là Adolf Meyer, người đứng đầu chuyên khoa
Tâm lý lâm sàng của Bệnh viện Johns Hopkins (Hoa Kỳ), đã đề xuất ra biểu
đồ người (life chart) làm cơng cụ chẩn đốn y khoa (47). Nghiên cứu của ông
đã định hướng cho sự phát triển một dụng cụ đo lường những biến cố đời
sống và stress (44).
Năm 1940, A.Meyer đã thiết lập một thư mục các biến cố của đời sống

như: chuyển nhà, thành công, thất bại, sinh tử… trong gia đình. Ơng là người
đầu tiên đưa ra giả thuyết về sự liên hệ giữa các biến cố đời sống và bệnh tật.
Kế thừa kết quả nghiên cứu của A.Meyer, để ước lượng tỉ lệ tiêu hao
sức khỏe do stress gây nên, hai nhà nghiên cứu Hoa Kỳ là T.H.Holmes và
R.H.Rahe cùng cộng sự (1967) đã xây dựng “Thang sự kiện cuộc sống” (Life
Events Sacle) (Dẫn theo 33, tr.432) gồm 43 biến cố của đời sống thuộc về gia
đình, cá nhân, việc làm, và tài chính. Mỗi sự việc đều được ấn định một số
điểm cố định, tiêu biểu cho số lượng đơn vị thay đổi đời sống (L.C.Us = Life
Change Units). Cao điểm nhất là 100 điểm (LCUs) cho biến cố qua đời của


11
người phối ngẫu. Trung bình là 500 điểm (LCUs) cho việc hôn nhân. Thấp
nhất là 11 điểm (LCUs) cho lỗi vi phạm nhỏ về pháp luật. Sau khi áp dụng
cho hàng ngàn người trong cuộc thí nghiệm, Holmes và Rahe nhận thấy tổng
số điểm (LCUs) của những sự việc xảy ra cho một người, trong một năm, đều
có liên hệ trực tiếp và tỉ lệ thuận với tiêu hao sức khỏe của người đó, trong
vịng hai năm sau. Điều này có nghĩa là tổng số điểm(LCUs) trong năm càng
cao, cơ hội sinh bệnh tiêu hao sức khỏe càng trầm trọng trong vịng hai năm
sắp tới. Để tìm ra đáp số trong ước lượng này, Holmes và Rahe đã lập ra tiêu
chuẩn chỉ dẫn và bảng liệt kê:
+ 0-150 điểm sẽ có bệnh làm tiêu hao 10% sức khỏe trong vịng hai
năm tới.
+ 150-300 điểm sẽ có bệnh làm tiêu hao 50% sức khỏe trong vòng hai
năm tới.
+ 300 điểm trở lên sẽ có bệnh nguy hiểm, tiêu hao 90% sức khỏe trong
hai năm tới (Dẫn theo 47).
Nghiên cứu này đã được thực hiện với mẫu 394 người từ nhiều dân tộc,
văn hóa khác nhau, chia làm 15 cặp của các phân nhóm đối nghịch nhau về:
kinh tế, xã hội, tơn giáo cua…Tiếp tục theo dõi các biến số và sức khỏe của

88 người trong 10 năm, họ nhận thấy 93% bệnh tật gắn liền với biến cố trong
đời sống xảy ra trong vịng 2 năm (44, tr.159-160). Sau đó cơng trình này đã
được thử nghiệm với nhiều cách thức khác nhau bởi Wyler, Masuda và
Holmes (1974) và đi đến kết luận: các biến cố cuộc sống liên quan đến
nguyên nhân xảy ra bệnh tật, thời điểm xuất hiện và mức độ trầm trọng của nó
(44, tr.162). Tuy nhiên, thang đo này vẫn cịn một vài nhược điểm như: khó
thích hợp với một nhóm cư dân đặc biệt và khơng kể đến sự khác biệt nhân
cách trong ứng phó với stress (24, tr.206).
Năm 1979, Kosaba xem xét lại thang đo này và đưa ra giả thuyết: nhân
cách có lẽ là một biến cố điều hòa giữa các biến cố đời sống và sự xuất hiện
bệnh. Để chứng minh giả thuyết, Kosaba đã nghiên cứu trên mẫu gồm nhiều


12
những cán bộ trung và cao cấp, nam giới, tuổi từ 40-49. Tất cả đều có chỉ số
đơn vị thay đổi đời sống rất cao theo thang đo của Wyler, Masuda và Holmes.
Ông đưa thêm vào 6 biến cố liên quan đến nhân cách: 3 biến cố liên quan đến
sự tự chủ, 1 biến cố đo lường sự rối trí (alienation) và 2 biến cố đo lường sự
thách đố. Kết quả cho thấy những cá nhân khỏe mạnh nghĩ rằng họ làm chủ
được môi trường xung quanh họ, cảm thấy ít bị rối trí và thích thách đố hơn
(44, tr.163-165).
Năm 1977, nhà nghiên cứu Caroline Bedell Thomas đã công bố kết quả
nghiên cứu từ năm 1946 đến 1977 cho thấy: những người thường kìm nén
cảm xúc, che giấu các tình cảm mạnh, cả tiêu cực lẫn tích cực – trước những
tình huống khó – dễ bị ung thư. Những nghiên cứu khác của Rogentine, Fos,
Van Krammen, Rosenblatt, và cộng sự (1978); Jemmott và Locke (1984); Le
shan (1966) đều có chung một nhận định: Stress không gây ra ung thư, nhưng
ảnh hưởng đến diễn biến của căn bệnh, bằng cách làm cạn kiệt sức mạnh của
hệ thống miễn dịch. O’Leary (1990) nghiên cứu Psychoneuro-immunology
(Tâm thần kinh – Miễn dịch học) cho đến nay xác định rằng stress ảnh hưởng

trực tiếp đến hệ thống miễn dịch (dẫn theo 25, tr.421-422).
Thomae (1970), Falger (1980) đã nhấn mạnh: nghiên cứu stress yếu tố
chủ quan là yếu tố quan trọng quyết định đáp ứng đương sự. Cùng chung
quan điểm với Thomae và Falger năm 1984, R.Lazarus và Folkman cùng
nhiều nhà nghiên cứu khác cũng nhấn mạnh đến đánh giá chủ quan mà đương
sự cảm nhận căng thẳng và những phương tiện để đương đầu với stress (44,
tr.164-165).
Lazarus cho rằng có hai lĩnh vực để đánh giá: Sự đánh giá liên quan đến
những yêu cầu không thích hợp, đầy thử thách, căng thẳng của các tác nhân
gây stress để xác định bản chất của các tác nhân gây stress. Sự đánh giá thứ
hai liên quan đến nguồn gốc của đánh giá. Con người có khả năng đối đầu
với các tác nhân gây stress đặc biệt thấp, thì càng làm tăng sự nghiêm trọng
của cảm nghiệm của người đó đối với stress.


13
Dưới góc độ tâm lý học, stress đã được xem xét nghiên cứu từ thế kỷ
XX. Việc nghiên cứu chuyên biệt đó đã dẫn đến sự ra đời Tâm lý học về
stress. Năm 1983, L.A.Kitaepxmưx đã thống kê được trên 1000 tài liệu khoa
học nghiên cứu stress dưới góc độ tâm lý học bằng tiếng Anh và Đức xuất bản
từ năm 1976 – 1980 (Dẫn theo 10, tr.11).
Tại

website



tìm kiếm

bởi từ khóa


“psychology of stress”, xuất hiện 200.000.000 kết quả, và 25.000.000 hình
ảnh cho stress. Nhiều trường Đại học trên thế giới đã có chương trình giảng
dạy, nghiên cứu với những phương pháp khoa học cụ thể, tin cậy. Các vấn đề
tâm lý học stress được nghiên cứu là:
- Những nhân tố ảnh hưởng tới đối phó stress: mơ tả và phân biệt giữa
stress và tác nhân gây stress; ảnh hưởng của nhận thức cá nhân với việc thích
ứng với tác nhân gây stress; những nhân tố bên trong và bên ngoài làm giảm
nhẹ tác dụng thích ứng stress; cơ chế đối phó làm giảm stress.
- Các chức năng đáp ứng sinh lý với stress: mơ tả sự thích ứng stress trên
hệ thống cơ thể (thần kinh, hệ nội tiết…) mối liên hệ giữa những nhân tố làm
giảm stress và thích ứng sinh lý, sự khác biệt hệ thống miễn dịch giữa người
lớn và trẻ em…
- Thích ứng tâm lý với stress: nhận biết nguyên nhân gây stress; nguyên
nhân và cá tính của stress hậu sang chấn; tương quan giữa kiểu nhân cách và
sự thích ứng stress; phân tích các loại kế hoạch đối phó, lựa chọn hệ thống
phịng thủ, những hành vi thích ứng khơng hiệu quả…
- Những năm gần đây, qua kinh nghiệm điều trị, bác sĩ Petre D ’sdamoCeterine Whitney nhận thấy có mối quan hệ giữa nhóm máu và stress. Theo
ơng, những người nhóm máu A và B thường rất dễ bị stress kể cả khi có
những nhân tố nhỏ nhất và thường có hàm lượng cortisol trong máu cao;
ngược lại những người nhóm máu O và AB ít bị stress và khi bị stress thì hàm
lượng cortisol và adrenalin trong máu của người nhóm máu O và AB thấp
(Dẫn theo 36, tr.43-46).


14
Pakers năm 1977 chú ý tới lĩnh vực mới gọi là: Psychoneuroimmunology
(PIN), nghiên cứu mối liên hệ giữa não bộ, hệ thống miễn dịch của cơ thể và
các yếu tố tâm lý, đã phát hiện thấy stress gây ra nhiều tác động khác nhau.
Trước hết là sự biến đổi các tiết tố trong cơ thể, ảnh hưởng hoạt động tuyến

thượng trong máu. Trong một số trường hợp, những ảnh hưởng này là có ích,
vì nó tác động lên hệ thần kinh giao cảm (the sympathetie nervour system)
giúp cho con người có thể chống đỡ một cách tốt hơn với những tình huống
bất ngờ, nguy hiểm trong cuộc sống (47).
Kết thúc phần nghiên cứu ở nước ngồi về stress là mơ hình stress gia
đình của McCubbin và Patterson sau đây sẽ giúp chúng ta có cái nhìn khái
qt hơn về stress:
Nguồn gốc
gây ra
stress trước
đây và mới
xuất hiện

bh
Nguồn
gây ra
stress
Khủng
hoảng

Stressor

Sự tích tụ
stress

Sự tri
giác
stress
cá nhân


Khắc
phục

Có kết
quả

Thích
ứng

Tri giác sự
khủng
hoảng, các
nguồn gốc
Khơng
Sơ đồ 2. Mơ hình kép ABCX về stress gia đình gây
củastress
McCubbin
có và
kết
quả
Patterson 1983

1.1.2. Những cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam
Bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu đã quan
tâm đến stress nhưng chủ yếu là các nhà khoa học thuộc lĩnh vực sinh lý học
và y học. Người đầu tiên nghiên cứu stress dưới góc độ sinh lý và y học là
Giáo sư Tô Như Khuê. Những cơng trình của ơng và cộng sự trong thời chiến


15

tranh (1967-1975) chủ yếu phục vụ cho việc tuyển dụng, huấn luyện và nâng
cao sức chiến đấu cho bộ đội và các binh chủng đặc biệt của Quân đội nhân
dân Việt Nam. Sau năm 1975 đến nay, những nghiên cứu của ông về stress và
cách chống stress đã được công bố trong một đề tài cấp Nhà nước “Tìm hiểu
tác dụng dưỡng sinh của võ thuật”.
Sau ông, tác giả Nguyễn Văn Nhận và cộng sự, các bác sĩ Phạm Ngọc
Rao và Nguyễn Hữu Nghiêm với tác phẩm “Stress trong thời đại văn minh”
cảnh báo với mọi người đang sống trong xã hội văn minh về nguy cơ stress và
hậu quả ghê gớm của nó.
Đặc biệt, các tác giả Đặng Phương Kiệt và Nguyễn Khắc Viện cũng bắt
tay vào nghiên cứu lý thuyết stress. Tuy nhiên, hai ông chỉ tập trung chủ yếu
đến vấn đề stress ở trẻ em. Nhiều bài viết của hai ông đã được tập hợp trong
các bài giảng tại Trung tâm nghiên cứu trẻ em (N-T). Một số tác phẩm sau
này của Đặng Phương Kiệt chủ yếu tổng hợp và chuyển dịch từ các tác phẩm
nước ngoài như: Tâm lý và sức khỏe, Cơ sở tâm lý học ứng dụng, Bách khoa
y học phổ thông, Chung sống với stress, Stress và đời sống, Stress và sức
khỏe, Tâm lý học chuyên sâu, Những vấn đề tâm lý và văn hóa hiện đại.
Những cơng trình của các ơng đã góp phần làm cơ sở lý luận để nghiên cứu
stress tại Việt Nam.
Tháng 11 năm 1997, Viện sức khỏe tâm thần thuộc Bệnh viện Bạch
Mai đã tổ chức thành công hội nghị khoa học về “Những rối loạn có liên
quan đến stress ở trẻ em và thanh thiếu niên” với sự tham gia của nhiều nhà
Tâm lý như: Ngô Công Hoàn, Mạc Văn Trang, Nguyễn Kim Quý… Tại hội
nghị này, cùng với các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực, các nhà tâm lý học đã
có những đóng đáng kể trong những báo cáo về stress ở trẻ em và học sinh –
sinh viên.
Cho tới nay, tâm lý học nghiên cứu stress vẫn còn trong thời kỳ trứng
nước. Hai bác sỹ Đặng Phương Kiệt và Nguyễn Khắc Viện, trong quá trình
khám, chữa những rối nhiễu tâm lý cho trẻ em cũng quan sát và ghi nhận một



16
số trường hợp ảnh hưởng của stress đến rối nhiễu (24). Cùng cách thức đó,
Nguyễn Cơng Khanh, trong tác phẩm của mình (18;19) cũng nêu lên những
trường hợp rối nhiễu tâm lý liên quan đến stress.
Ngày, 17-18/8/2000, tại Hội thảo Việt – Pháp về tâm lý học: “Trẻ em,
văn hóa, giáo dục”, một số tác giả như: Nguyễn Công Khanh (18,tr.80-83),
Lã Thị Bưởi và cộng sự (3,tr.115-121)…đã có những báo cáo về stress ở tuổi
thanh thiếu niên.
Một số cơng trình nghiên cứu ở cấp độ cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ cũng đã
được thực hiện và nghiệm thu. “Nghiên cứu stress ở cán bộ quản lý” (2001)
của tác giả Nguyễn Thành Khải là cơng trình đầu tiên nghiên cứu stress ở tuổi
trung niên, với nhóm khách thể đặc thù của tuổi này. Tuy nhiên, trong nghiên
cứu, tác giả chưa chú ý đến những yếu tố tâm lý, gia đình của lứa tuổi.
Luận văn thạc sỹ tâm lý học của Phạm Thị Thanh Hương với đề tài:
“Stress trong học tập của sinh viên” (2003)
Đề tài nghiên cứu: “Căng thẳng và bệnh tim”(2006) của Phạm Mạnh
Hùng – Trường Đại học Y Hà Nội.
Luận văn thạc sỹ tâm lý của tác giả Phạm Thị Hồng Định với đề tài:
“Nghiên cứu stress ở những trẻ em vị thành niên qua đường dây tư vấn và hỗ
trợ trẻ em 18001567”(2007).
Luận văn thạc sỹ tâm lý học của tác giả Nguyễn Thị Hải với đề tài:
“Nghiên cứu stress ở người trưởng thành”(2008).
Nhìn chung, vấn đề stress tại Việt Nam dưới góc độ tâm lý học đã và đang
được chú ý nghiên cứu góp phần đem lại những cơ sở lý thuyết và kết quả
thực tiễn giúp nâng cao đời sống nhân dân trong bối cảnh hiện đại hóa và
cơng nghiệp hóa của đất nước. Mặc dù hội chứng tự kỷ hiện nay đang là một
căn bệnh phổ biến trên thế giới và Việt Nam nhưng chưa có nghiên cứu nào
về việc tìm hiểu stress ở các cha mẹ có con bị hội chứng tự kỷ. Thiết nghĩ đây
là vấn đề cần được lưu tâm, bởi rất nhiều minh chứng cho thấy stress ở cha

mẹ có ảnh hưởng khơng nhỏ đến trẻ em bình thường, cịn đối với trẻ có hội


17
chứng tự kỷ thì sức khỏe tâm thần của các bậc cha mẹ đặc biệt quan trọng đối
với việc chữa trị bệnh của con cái. Chính vì vậy chúng tơi quyết định lựa chọn
đề tài “ Nghiên cứu stress ở các bậc cha mẹ có con mắc hội chứng tự kỷ” làm
đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
1.2. Một số vấn đề lý luận về stress
1.2.1. Khái niệm về stress
Stress là gì?
* Cách hiểu theo một số từ điển
- Theo Encarta và một số từ điển tâm lý học của Mỹ, danh từ stress có
hai nghĩa: Thứ nhất, đó là « lực kháng lại được hình thành trong cơ thể chống
tác động bên ngồi » hoặc « một tình trạng gây khó chịu hoặc gây những ảnh
hưởng trái ngược bên ngồi có thể ảnh hưởng tới sức khỏe thể lý, dễ nhận
thấy qua dấu hiệu: nhịp tim tăng, huyết áp cao, cơ năng, cảm giác khó chịu,
và ưu phiền » (Dẫn theo 8,tr.20). Thứ hai, « stress là một kích thích thể lý
hoặc tâm lý có thể gây ra sự căng thẳng tinh thần hoặc các phản ứng sinh lý –
những phản ứng có thể dẫn đến các bệnh »; cịn động từ stress chỉ việc « chịu
áp lực, căng thẳng về thể lý và tinh thần » (Dẫn theo 8, tr.20).
- Trong từ điển tâm lý học của Nga, theo V.P.Dintrenko và
B.G.Mesiriakova, « stress – trạng thái căng thẳng về tâm lý xuất hiện ở người
trong quá trình hoạt động ở những điều kiện phức tạp, khó khăn của đời sống
hàng ngày, cũng như trong những điều kiện đặc biệt » (Dẫn theo 21, tr.18).
- « Từ điển Tâm lí học » của Andrew M.Colman, Oxford (2003) có cái
nhìn tổng qt hơn: « stress là căng thẳng thể lý và tâm lý phát sinh do những
tình huống, sự kiện, trải nghiệm, khó có thể chịu đựng được hoặc vượt qua,
như những biến cố nghề nghiệp, kinh tế, xã hội, cảm xúc hoặc thể lý » (Dẫn
theo 12, tr.19)

- Theo “Từ điển Y học Anh – Việt” (2007) thì: « Bất kỳ nhân tố nào đe
dọa đến sức khỏe cơ thể hay có tác động phương hại đến các chức năng cơ


18
thể, như tổn thương, bệnh tật hay tâm trạng lo lắng đều gọi là stress ». (Dẫn
theo 12, tr.19)
*Theo quan niệm của một số nhà nghiên cứu:
- Bác sĩ Eric Albert, nhà tâm lý học, sáng lập Viện nghiên cứu stress
định nghĩa: « Stress là sự nỗ lực của cơ thể để thích nghi với những đổi thay »
(Dẫn theo 47). Nhà sinh vật học Canada, Hans Selye, cho rằng stress là phản
ứng của cơ thể trước mỗi tấn công của môi sinh. Về sau, ông đã đưa ra nhiều
cách giải thích khác, phổ biến nhất là định nghĩa: « stress là một trạng thái
được thể hiện trong một hội chứng bao gồm tất cả các biến cố không đặc hiệu
trong một hệ thống sinh học » (Dẫn theo 47).Cuối đời (1975), ơng nhấn
mạnh: stress có tính chất tổng hợp, chứ không phải chỉ thể hiện trong một
trạng thái bệnh lý, đó là « mọi đáp ứng của cơ thể trước mọi yêu cầu hay đòi
hỏi tác động lên trên cơ thể... ».
- Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, tác giả L.A.Kitaepxmưx (Dẫn theo
17,tr.20) nhìn nhận: « stress là những nét không đặc hiệu của những biểu hiện
sinh lý và tâm lý của cơ thể, nảy sinh trong mọi phản ứng của cơ thể ». Theo
ơng, tính khơng đặc hiệu của các q trình thích nghi tâm lý và sinh lý thể
hiện – cả tiêu cực lẫn tích cực – khi gặp các tác động khác nhau về cường độ,
trường độ và tầm quan trọng của nó đối với chủ thể.
- Đa số các tác giả nghiên cứu stress ở Việt Nam sử dụng những khái
niệm của các nhà nghiên cứu nước ngồi. Tuy nhiên cũng có một vài tác giả
có ý kiến riêng của mình. Có thể kể tên đến một số quan điểm của các tác giả
tiêu biểu sau:
+ Tác giả Tô Như khuê quan niệm: « stress chính là những phản ứng
khơng đặc hiệu xảy ra một cách chung khắp, do các yếu tố có hại về tâm lý

xuất hiện trong các tình thế mà con người chủ quan thấy bất lợi hoặc rủi ro, ở
đây vai trị quyết định khơng chủ yếu do các tác nhân kích thích, mà do sự
đánh giá chủ quan về tác nhân đó » (23,tr.33). Định nghĩa này đề cập đến vai
trò của yếu tố nhận thức và thái độ của con người trong stress.


19
+ Một số nhà tâm lý học khác như: Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thủy
và Lê Khanh đã nêu lên thành phần quan trọng của stress là xúc cảm và một
số nguyên nhân cơ bản gây ra stress ở con người, khi cho rằng: « stress là
những xúc cảm nảy sinh trong những tình huống nguy hiểm, hẫng hụt, hay
trong những tình huống phải chịu đựng những nặng nhọc về thể chất và tinh
thần hoặc trong những điều kiện phải quyết định hành động nhanh chóng và
trọng yếu » (11, tr.146).
+ Theo Nguyễn Thành Khải, « Dưới góc độ tâm lý học, có thể hiểu
stress là trạng thái căng thẳng về tâm lý mà con người cảm nhận được trong
quá trình hoạt động cũng như trong cuộc sống » (21, tr.20).
+ Trần Anh Thụ cho rằng: « stress là một trạng thái gây khó chịu hoặc
gây tổn thương về cảm xúc và tinh thần, xảy ra khi cá nhân phản ứng lại
những kích thích hoặc những tình huống cực kỳ khó khăn, nhiều áp lực và
căng thẳng do tác động từ bên ngồi; và có thể ảnh hưởng tới sức khỏe, dễ
nhận thấy qua dấu hiệu: nhịp tim tăng, căng thẳng, cảm giác khó chịu, và ưu
phiền »(38,tr.21).
Như vậy, hiện nay có rất nhiều cách hiểu về stress. Có nhiều người nói
đến stress như một nguyên nhân, có người nói đến như hậu quả. Có người
nhìn nhận thuần túy dưới góc độ sinh học, như là phản ứng mang tính sinh lý
cơ thể, trong khi các nhà tâm lý học đề cập đến cả yếu tố sinh học và tâm lý.
Theo chúng tôi, stress phải được hiểu một cách tổng hợp, vừa như một
kích thích, vừa như một hậu quả kèm theo; đồng thời đề cập đến các yếu tố
sinh học, xã hội, tâm lý trong ứng phó.

Dưới góc độ tâm lý học, chúng tơi hiểu stress như sau: « Stress là trạng
thái căng thẳng về mặt tâm lý, xuất hiện ở người trong quá trình hoạt đọng
gặp phải những biến cố, những khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, dễ nhận
thấy qua các dấu hiệu: nhịp tim tăng, huyết áp cao, cơ năng, cảm giác mệt
mỏi, khó chịu, hoặc ưu phiền, chán nản... có thể dẫn đến những hậu quả nhiều
mặt tùy theo khả năng ứng phó của mỗi người ».


20
1.2.2. Một số mơ hình lý thuyết về stress
Nhìn chung, từ những cơng trình nghiên cứu khác nhau, chúng ta có thể
thấy, hiện nay có một số mơ hình lý thuyết hay cách tiếp cận trong nghiên cứu
về stress.
1.2.2.1 Cách tiếp cận sinh học
Cách tiếp cận này gồm nhiều lý thuyết như: Cấu trúc gen, mơ hình thể
tạng (Diathesis),... nổi bật nhất là « Hội chứng thích nghi chung » (GAS:
General Adaptation Syndrome). Với GAS, stress là phá vỡ tính cân bằng các
nhu cầu của cơ thể. Nguyên nhân gây stress là áp lực đa dạng thường xuyên
của môi trường. GAS có ưu điểm là xuất phát từ kinh nghiệm và được kiểm
nghiệm rộng rãi. Tuy nhiên, nó vẫn cịn những điểm yếu như quá nhấn mạnh
đến khía cạnh sinh học.
Mơ hình thể tạng chủ yếu dựa trên những bằng chứng gián tiếp, bỏ qua
nhân tố nhận thức xã hội; khơng có định nghĩa cụ thể về stress nên khó tham
khảo các thuật ngữ về quy trình hoạt động. Tuy thế, mơ hình này cũng có
những điểm mạnh như xem xét trên hai bình diện bên trong và bên ngồi.
Đồng thời, nêu lên sự tương tác, tác động qua lại chúng.
1.2.2.2 Cách tiếp cận xã hội
Cách tiếp cận xã hội về stress diễn ra trên những cơ sở như: Mô hình
sức khỏe tồn diện, thuyết điều khiển, mơ hình hệ thống về stress, thuyết
stress xã hội, thuyết khuấy động, thuyết sinh thái, thuyết môi trường...

Thuyết giải quyết xã hội dựa trên sự xung đột nhóm, sự phân phối
quyền lực và của cải khơng đồng đều. Mơ hình cổ vũ cho giá trị cá nhân và xã
hội dựa trên ý tưởng: thể xác và tâm hồn được chữa trị theo phương pháp
thống nhất. Thuyết hệ thống cố gắng giải thích: cách vận hành hệ thống luật lệ
của các sinh vật, thậm chí gắn bó chặt chẽ với các hệ thống phép tắc phức tạp
hơn thế.
Ngoài thuyết stress xã hội đưa ra định nghĩa về stress là « áp lực thích
nghi với hệ thống quy tắc xã hội », các thuyết khác đều không đưa ra một


×