Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Tiểu luận khái lược triết học tây âu thời kỳ trung cổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.53 KB, 8 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thời kỳ trung cổ ở kéo dài hàng nghìn năm ở Châu Âu. Vào thời kỳ đó tơn
giáo là thứ duy nhất chiếm vị trí độc tơn trong toàn bộ hệ tư tưởng của xã hội cũng
như ở các thiết chế. Vì tính chất đặc thù đó nên triết học thời kỳ này có những né
riêng, đó là tính chất “kinh viện” của mình. Tác giả nhận thấy rằng việc tìm hiểu
khái quát về triết học thời kỳ này là một điều cần thiết. Vì vậy, tác giả quyết định
chọn đề tài: “Khái lược triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ” làm tiểu luận hết môn.

1


1. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT
HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ TRUNG CỔ
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Xã hội Tây Âu thời trung cổ là khoảng thời kỳ lịch sử ngàn năm (từ thế kỷ thứ
IV đến thế kỷ XIV). Đây là thời kỳ hình thành và phát triển PTSX phong kiến phương
Tây.
Sự hình thành vơ số những điền trang thái ấp phong kiến Tây Âu đã tạo ra
một chế độ phong kiến cát cứ phân quyền. Trong điều kiện đó, tơn giáo nhất thần
đã có cơ hội phát triển với tư cách là công cụ tinh thần thiêng liêng của giai cấp
phong kiến thống trị. Thiên chúa giáo - một dịng tơn giáo giữ truyền thống bảo thủ
nhất của Cơ đốc giáo – đã trở thành một tôn giáo độc tôn của các nước phong kiến
Tây Âu. Sự thống trị của uy quyền phong kiến và thần quyền giáo hội đã cản trở sự
phát triển của khoa học và kỹ thuật. Triết học cũng bị phụ thuộc vào thần học. Bản
chất của CNDV gắn liền với khoa học, thời kì này đã khơng có điều kiện để phát
triển.
Như vậy, thời kỳ này khơng chỉ có phong kiến quý tộc giữ vai trò thống trị
mà giới tăng lữ, giáo hội và nhà thờ đã thiết định được một sức mạnh chưa từng có
của thần quyền, có khả năng chi phối cả quyền lực chính trị. Bởi vậy trong suốt
nhiều thế kỷ, triết học và khoa học đã trở thành nơ tì của thần học, tồn tại và hiện
thân trong vai người ca tụng, biện minh cho các tín nhiệm của tơn giáo, phản bác,


loại bỏ các tư tưởng dị giáo, đa thần và các quan niệm vơ thàn tiến bộ. Tình hình
này đã cắt nghĩa sự đồng quyền của giáo hội trong văn học và giáo dục. Các tín
điều của tơn giáo là những ngun lý của giáo dục, là cơ sở của thế giới quan và
nhân sinh quan.
Từ thế kỷ X đã diễn ra nhiều cuộc Thập tự chinh với mục đích là xâm chiếm,
cướp đoạt của cải của các nước phong kiến nhỏ ở Phương Đông (vùng vịnh Ả Rập)
2


nhưng lại núp dưới danh nghĩa bảo vệ tôn giáo, chống bọn tà giáo, giải phóng vùng
đất thánh… Những cuộc chiến tranh tôn giáo này đã đem lại những kết quả ngoài
mong muốn của những người khởi xướng ở chỗ là đã tạo nên sự giao lưu văn hố
Đơng-Tây tác động mạnh mẽ đến sự phát triển tư tưởng, khoa học và kinh tế ở Tây
Âu.
Sự phát triển kinh tế đã dẫn đến đòi hỏi gia tăng sự hiểu biết. Tình trạng mù
chữ, thất học, sống đơn điệu của các lãnh địa khơng thể tiếp tục duy trì. Vì vậy chỉ
trong vòng hai thế kỷ (XII, XIII) ở Tây Âu hàng loạt các trường đại học đã ra đời.
Tóm lại, từ lập trường DVBC mà xét thì thời kỳ trung cổ khơng phải là q
trình đứt đoạn của lịch sử mà là một thời kỳ “trong nỗi đau đớn đã sinh ra một nền
văn minh mới, tạo cơ sở cho sự ra đời của những bộ tộc hiện đại chuẩn bị cho lịch
sử tương lai ở Châu Âu”.
1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ
Thứ nhất, triết học trung cổ là tiếng đồng vọng của tôn giáo, là sự biện minh
của thần học.
Thứ hai, trục trung tâm của tư tưởng triết học Trung cổ là mối quan hệ giữa
niềm tin và tri thức.
Thứ ba, cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT không diễn ra quyết liệt như
thời cổ đại mà ẩn mình trong xung đột giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy
danh.
Thứ tư, con người – sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp, thụ động, trĩu nặng trong

tội tổ tông, ăn năn sám hối trong kiếp làm người.
1.3. Một số triết gia tiêu biểu
Tômát Đacanh (1225-1274)

3


Là đại biểu của phái duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của phái duy thực
trong giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừa
nhận là triết học chính thức duy nhất của Giáo hội Thiên chúa.
Tômát Đacanh nghiên cứu nhiều lĩnh vực: thần học, triết học, pháp quyền,
đạo đức, chế độ nhà nước, kinh tế. Với 18 cuốn sách, trong tuyển tập của ông hợp
thành bộ bách khoa toàn thư về hệ thống tư tưởng thống trị thời trung cổ hưng
thịnh.
Tômát Đacanh coi đối tượng của triết học là nghiên cứu “chân lý của lý trí”,
cịn đối tượng của thần học là nghiên cứu “chân lý của lịng tin tơn giáo”. Thượng
đế là khách thể cuối cùng của triết học và thần học, cho nên khơng có mâu thuẫn
giữa thần học và triết học. Nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí của
người thấp hơn “lý trí của thần”. CNDT của Tômát Đacanh thể hiện một cách công
khai với quan điểm cho rằng, giới tự nhiên do Trời sáng tạo ra từ hư vơ. Sự phong
phú, hồn thiện và trật tự của giới tự nhiên được quyết định bởi sự thơng minh của
Trời. Trật tự đó được Trời quy định theo thứ bậc như sau: bắt đầu từ các sự vật
khơng có linh hồn, tiến qua con người, tới các thần thánh và cuối cùng là bản thân
Chúa Trời. Mỗi bậc dưới đều cố gắng đạt tới bậc trên, toàn bộ hệ thống mong tiến
tới Chúa Trời. Con người do Chúa Trời tạo ra theo “hình dáng của mình” và sắp
xếp theo những đẳng cấp khác nhau. Nếu người nào vượt ra khỏi đẳng cấp của
mình là có tội với Chúa Trời. Chính quyền nhà vua là thừa lệnh “ý của Trời”.
Quyền lực tối cao bao trùm hết thảy thuộc về giáo hội.
Đứng trên lập trường duy thực ơn hồ, Tômát Đacanh giải quyết vấn đề bản
chất của cái chung. Ông cho rằng cái chung tồn tại trên ba phương diện:

Thứ nhất, cái chung tồn tại trước sự vật trong trí tuệ của Chúa Trời như là
hình mẫu của sự vật riêng lẻ.
Thứ hai, cái chung tồn tại trong các sự vật riêng lẻ.
4


Thứ ba, cái chung được tạo ra bằng con đường trừu tượng hố của trí tuệ con
người từ các sự vật riêng lẻ.
Về lý luận nhận thức, Tômát Đacanh khôi phục về mặt hình thức lý thuyết
hình dạng của Arixtot nhưng loại bỏ cái sinh khí, cái sống động, sự tìm tịi chân lý
trong học thuyết của Arixtot. Theo Tơmát Đacanh, nhận thức của con người là hình
dạng của sự vật chứ khơng phải bản thân sự vật. Ơng chia hình dạng thành hình
dạng cảm tính và hình dạng lý tính. Trong đó hình dạng cảm tính có vai trị quan
trọng, nhờ đó mà cảm giác trở nên cảm thụ tích cực. Cịn hình dạng lý tính cao hơn
hình dạng cảm tính, nhờ đó mà ta biết đươc cái chung chứa đựng trong nhiều sự
vật riêng lẻ. Lý luận nhận thức của Tômát Đacanh là một bước tiến mới trong triết
học kinh viện trung cổ.
Rôgiê Bêcơn (1214 -1294)
Là một triết gia, một nhà khoa học người Anh, tiến sĩ thần học đại học tổng
hợp Paris. Tác phẩm chính là:
- Về sư kéo dài sự sống của con người
- Chỉ dẫn để nghiên cứu thần học
- Chỉ dẫn để nghiên cứu triết học
- Tiểu phẩm ca ngợi toán học
- Về cầu vồng
- Triển vọng
- Về sai lầm của các bác sĩ…
Ông được xem là người đề xướng vĩ đại nhất khoa học thực nghiệm, ông phê
phán mạnh mẽ chủ nghĩa kinh viện, giáo hội và nhà nước phong kiến. Là một tu sĩ
nhưng ông đã phải sống 14 năm trong các nhà giam của giáo hội.

R.Bêcơn đã đưa ra một quan niệm mới về đối tượng của triết học có ý nghĩa
quan trọng trong việc đấu tranh chống triết học kinh viện, mở đường cho mối quan
5


hệ giữa triết học và các khoa học bộ phận. Theo ơng, triết học là khoa học chung
giải thích mối quan hệ giữa khoa học bộ phận và đem lại cho các khoa học đó
những quan điểm cơ bản, và bản thân triết học được xây dựng trên những thành
quả của khoa hoc đó.
Sự phê phán sâu sắc và thơng minh của R.Bêcơn đối với chủ nghĩa kinh viện
là đóng góp có giá trị và tiến bộ trong thời đại của ông. R.Bêcơn nêu ra những
nguyên nhân cản trở chân lý là do:
- Sự sùng bái trước các uy tín khơng có căn cứ và khơng xứng đáng;
- Do thói quen lâu đời đối với những quan niệm đã có;
- Do tính vơ căn cứ của những phán đốn về số đông;
- Do sự che dấu những điều ngu dốt của các nhà bác học dưới cái mác của sự
thông thái hư ảo. Theo R.Bêcơn, nguồn gốc của nhận thức là uy tín, lý trí và thực
nghiệm; kinh nghiệm là tiêu chuẩn của chân lý, thước đo của lý luận. Trong tri
thức khoa học “Khơng có sự nguy hiểm nào lớn hơn sự ngu dốt”.
Đối lập với chủ nghĩa kinh viện chính thống chuyên nghiên cứu thần học,
R.Bêcơn hướng sự nghiên cứu của mình vào khoa học tự nhiên. Ơng coi khoa học
thực nghiệm là chúa tể của khoa học. Bản thân ơng đã có nhiều đóng góp cho khoa
học thực nghiệm.
Về xã hội, R.Bêcơn cũng có những tư tưởng tiến bộ. Ông bênh vực quyền
lợi của nhân dân, lên án sự áp bức bóc lột của phong kiến. Ơng chống giáo hồng
và bóc trần những xấu xa của tầng lớp thầy tu, nhưng ơng khơng chống tơn giáo
nói chung.
Tóm lại, triết học của R.Bêcơn bộc lộ xu hướng duy vật. Ông đã nắm bắt
được những biến đổi xã hội vừa mới xuất hiện và đi trước thời đại của ông trong
những mơ ước và ý tưởng về sự tiến bộ của khoa học. Vì vậy, ơng ln bị nhà

nước phong kiến giáo hội truy nã, cầm tù.
6


Tuy nhiên, ơng cũng khơng thể thốt khỏi những hạn chế trong thời đại của
mình - thời đại thống trị của tơn giáo và nhà thờ. Vì vậy, bên cạnh những tư tưởng
tiến bộ, ông tuyên bố: triết học phụ thuộc vào lịng tin, và ơng cũng dành thời gian
để nghiên cứu tính chất rõ ràng của tư tưởng xuất phát từ mẫu mực đầu tiên của
của Thượng đế, và về “lý trí của hoạt động tiên nghiệm”.
Tuy nhiên, mang những mầm mống duy vật - đấu tranh dai dẳng chống lại
trào lưu duy thực – cùng với một số tư tưởng khoa học tự nhiên tiên tiến, trào lưu
duy danh đã góp phần khai tử chủ nghĩa kinh viện vào thế kỷ XV và chuẩn bị cho
sự ra đời của triết học thời Phục hưng và cận đại.

7


KẾT LUẬN
Triết học Tây Âu trung cổ dù bị tôn giáo che phủ, làm nô lệ cho tôn giáo và
Thần học, nhưng trong những tư tưởng ấy vẫn ẩn chứa nhiều nhân tố hợp lý để
chúng ta có thể “gạn đục khơi trong” để tìm thấy giá trị của nó đối với sự phát triển
của triết học thời kỳ sau này. Tiểu luận chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu
sót, tơi rất mong nhận được những sự góp ý từ mọi người để bài tiểu luận này được
hoàn hiện hơn!

8




×