TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌC
ĐỀ TÀI:
DÀN NHẠC NGŨ ÂM CỦA NGƯỜI KHMER
NAM BỘ
TP. HỒ CHÍ MINH
1
MỤC LỤC
DẪN NHẬP.................................................................................................................3
NỘI DUNG..................................................................................................................4
Chương 1.VÀI NÉT VỀ NGƯỜI KHMER VÀ ÂM NHẠC KHMER NAM BỘ..... 4
1.1.Vài nét về người Khmer Nam Bộ...................................................................4
1.2. Đơi nét về một vài loại hình nghệ thuật truyền thống của người Khmer..... 4
Chương 2. KHÁI QUÁT VỀ DÀN NHẠC NGŨ ÂM............................................ 5
2.1. Sơ lược đôi nét về dàn nhạc ngũ âm..............................................................5
2.2. Cấu tạo và hình thức của dàn nhạc ngũ âm...................................................6
Chương 3.CÁC LOẠI NHẠC CỤ TRONG DÀN NHẠC NGŨ ÂM.....................7
3.1. Kôn Vông Thum ............................................................................................... 7
3.2. Kôn Vông Tuôch..............................................................................................8
3.3. Chhưng.............................................................................................................9
3.4. Rô Neat Ek.....................................................................................................10
3.5. Rô Neat Thung...............................................................................................11
3.6. Rô Neat Đek..................................................................................................12
3.7. Skhô Thum....................................................................................................14
3.8. Samphô..........................................................................................................15
3.9. Srolai..............................................................................................................16
3.10. Cách diễn tấu và hòa tấu..............................................................................16
Chương 4. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA NHẠC NGŨ ÂM TRONG ĐỜI SỐNG
CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KHMER.............................................................................17
Chương 5. GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA
DÀN NHẠC NGŨ ÂM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...................................18
KẾT LUẬN................................................................................................................ 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................20
1
DẪN NHẬP
Âm nhạc cổ truyền là tài sản vô cùng quý giá đối với mỗi dân tộc. Cùng với sự
phát triển tộc người thì âm nhạc truyền thống của người Khmer cũng dần hình thành, phát
triển và trở thành một giá trị tinh thần không thể thiếu trong đời sống người dân Khmer
Nam Bộ. Các loại hình nghệ thuật dân tộc đặc sắc, phổ biến của người Khmer bao gồm:
Múa, hát, hội họa, kiến trúc, điêu khắc,...Trong đó “Phlêng Pin Peat” - nhạc ngũ âm càng khẳng định được tầm quan trọng không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cộng
đồng. Dàn nhạc được xem là tài sản vô giá của dân tộc, âm thanh của nó đã ăn sâu vào
tiềm thức của người Khmer từ bao đời nay như máu với thịt, hình thành nên dấu ấn văn
hóa truyền thống, là linh hồn trong đời sống tinh thần của đồng bào Khmer Nam Bộ.
Dàn nhạc ngũ âm - “Phlêng Pin Peat” được tạo ra từ tài năng điêu luyện của các
nghệ nhân Khmer. Để chế tác được bộ nhạc khí này là cả một q trình sáng tạo những
tinh túy dựa trên những tri thức hình thành trên trên cơ sở âm điệu cuộc sống. Qua đó tìm
ra tiết tấu, âm sắc trên từng loại cụ thể, đồng thời với sự biểu diễn đầy tài năng của các
nghệ nhân, sự hịa âm phối khí giữa các nhạc khí hình thành nên những điệu nhạc mang
đậm tính dân tộc. Do đó, dàn nhạc thường xuyên được dùng trong các dịp lễ hội lớn ở
trong chùa và hầu như các loại nhạc cụ của dàn nhạc đều được bảo quản rất chu đáo,
khơng thể tùy tiện mang ra dùng.
Để tìm hiểu được loại hình âm nhạc truyền thống này, em dùng phương pháp phân
tích và tổng hợp lý thuyết có sẵn, dựa trên những hệ thống lý thuyết đã được nghiên cứu
từ trước cùng với những kiến thức em tìm hiểu được để đi sâu phân tích và tìm hiểu vấn
đề, để có thể giúp bản thân em cũng như những người đọc bài tiểu luận này có thể hiểu rõ
hơn về nét văn hóa mang đậm giá trị truyền thống của tộc người Khmer Nam Bộ.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. VÀI NÉT VỀ NGƯỜI KHMER VÀ ÂM NHẠC KHMER NAM BỘ
1.1. Vài nét về người Khmer Nam Bộ.
Miền đất Nam Bộ của chúng ta ngoài người Kinh chiếm đại đa số ra thì cịn có sự
đóng góp to lớn của người Khmer. Với dân số hơn một triệu người, người Khmer đang
sinh sống và hoạt động kinh tế ở hầu khắp các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả
ở Đông Nam Bộ. Họ dường như là một phần đặc biệt quan trọng đối với miền đất phía
nam nước ta. Nền văn hóa của người Khmer thật sự rất riêng và rất đa dạng. Tôn giáo
truyền thống đặc biệt phổ biến đối với họ là Phật giáo Nam Tông. Tôn giáo này được du
nhập vào nước ta từ rất sớm, chủ yếu do người Khmer tiếp nhận, duy trì và phát huy
những giá trị tích cực mà nền Phật giáo mang lại. Đối với tôn giáo, người Khmer cịn có
những phong tục rất đặc trưng như thanh niên là nam phải vào chùa theo học đạo, tu
dưỡng đạo đức thì mới được kính trọng và sau khi hồn tục mới có thể thuận lợi lấy vợ
và làm ăn. Các vị sư sãi tu ở chùa còn đóng một vai trị đặc biệt quan trọng đối với người
dân, được người dân kính trọng và tin tưởng gần như tuyệt đối. Người Khmer cịn được
biết đến thơng qua rất nhiều lễ hội truyền thống như: Tết Chol Chnam Thmay, lễ Oc-ombooc, lễ hội Sen Đôn Ta,... từng lễ hội diễn ra sẽ có những nghi thức khác nhau, mang
những ý nghĩa khác nhau nhưng nhìn chung tất cả đều mang ý nghĩa cầu mong một cuộc
sống ấm no, mưa gió thuận hịa. Ngồi ra, người Khmer cịn rất nhiều nét văn hóa đặc
trưng khác, đặc biệt có thể nhắc đến là nền nghệ thuật truyền thống của dân tộc mà trong
đó âm nhạc đóng vai trị rất lớn trong đời sống sinh hoạt thường ngày cũng như trong các
lễ hội lớn và các hoạt động tín ngưỡng.
1.2. Đơi nét về một vài loại hình nghệ thuật truyền thống của người Khmer.
Bản sắc dân tộc của người Khmer được thể hiện qua các loại hình nghệ thuật sân
khấu truyền thống như: nghệ thuật sân khấu cổ điển Rôbăm, nghệ thuật sân khấu kịch hát
Dù Kê,.... Cả hai loại hình nghệ thuật này đã từng có một thời trở thành món ăn tinh thần
đặc biệt quan trọng và khơng thể thiếu trong đời sống của người dân Khmer Nam Bộ.
Rôbăm là loại hình sân khấu cổ điển hiện nay vẫn cịn được người dân Khmer bảo lưu.
Rơbăm là loại hình nghệ thuật gắn liền với các điệu múa, vì thế mà người ta hay xem đây
là “kịch múa”. Khi biểu diễn Rôbăm người ta rất đầu tư vào phần trang phục, mặc nạ, đạo
4
cụ cũng như dàn nhạc được sử dụng cũng là dàn nhạc riêng và khá đơn giản, chủ yếu chỉ
có kèn, trống và cồng. Còn đối với Dù Kê, tuy là một loại hình mới ra đời nhưng cũng
vẫn đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của đại đa số người dân Khmer trong thời đại mới. Từ
“Dù Kê” bắt nguồn từ Di-kê, đây là một loại hình nghệ thuật sân khấu lâu đời của vương
quốc Campuchia, được du nhập và phát triển trong đời sống đồng bào Khmer từ nhiều
thập kỷ qua. Dù Kê thường được biểu diễn vào mùa khô, sau lễ hội Oc-om-booc hàng
năm cho đến đầu mùa mưa. Và để các loại hình nghệ thuật này được biểu diễn thì khơng
thể thiếu sự góp mặt của dàn nhạc. Dàn nhạc Khmer Nam Bộ có hai loại là dàn nhạc cổ
truyền và dàn nhạc dân gian.
CHƯƠNG 2. KHÁI QUÁT VỀ DÀN NHẠC NGŨ ÂM.
2.1. Sơ lược đôi nét về dàn nhạc ngũ âm.
Dàn nhạc ngũ âm hay cịn gọi là “Phlêng Pin Peat”, ngày nay vẫn có mặt trong đại
đa số chùa Khmer Nam Bộ. Tên gọi của dàn nhạc cũng chính là để ám chỉ năm loại thanh
âm hòa quyện vào nhau mỗi khi cất lên những giai điệu du dương, trầm bổng. Năm âm ở
đây là năm âm sắc, được tạo nên từ năm loại chất liệu khác nhau: đồng, sắt, gỗ, da và hơi.
Theo Dương Anh:” Cách biên chế và liên kết dàn nhạc ngũ âm của người Khmer còn
mang đậm triết lý âm dương lưỡng hợp và nguyên lý ngũ hành của văn hóa phương Đơng.
Cụ thể: Triết lý âm dương lưỡng hợp: Đàn Rơ neat Ek (chính) - Rơ neat Thung, Rơ neat
Đek (phụ); đàn Kôn Vông Thum (lớn) - Kôn Vông Tuôch (nhỏ); trống Samphô (2 mặt: 1
trầm, 1 bổng); 2 Skhô Thum (trống lớn 2 mặt: 1 trầm, 1 bổng).... Nguyên lý ngũ hành: 5
âm sắc được phát ra từ các nhạc cụ gắn với nguyên lý ngũ hành là: đồng - hỏa, sắt - kim,
gỗ - mộc, da - thổ, hơi - thủy.” (Anh Dương. Nhạc ngũ âm của người Khmer ở Sóc Trăng.
Theo Hồ sơ tư liệu, Cục Di sản văn hóa.). Đa số nhạc cụ trong dàn nhạc thuộc loại gõ,
khi sử dụng phải dùng dùi để đánh. Dàn nhạc Pin Peat có âm lượng rất lớn nên thường
được dùng trong các đám phước, các cuộc tiếp tân hoặc trong tang lễ nên thường được
gọi là nhạc lễ. Tuy vậy, âm thanh được phát ra từ dàn nhạc có vẻ như mềm mại hơn, réo
rắt hơn và vẫn có những nốt trầm đột ngột. Âm thanh này tạo nên một không gian sôi
động nhưng cũng rất uyển chuyển và nhịp nhàng. Ngày nay, trong các lễ hội lớn của
đồng bào Khmer thì dàn nhạc ngũ âm được xem như linh hồn của các tiết mục trong
những buổi sinh hoạt văn hóa của tộc người.
5
2.2. Cấu tạo và hình thức của dàn nhạc ngũ âm.
a. Cấu tạo
Dàn nhạc ngũ âm được tạo nên từ chín loại nhạc cụ bao gồm: Kơn Vơng Thum,
Kơn Vơng Tuôch và Chhưng thuộc âm đồng; Rô neak Ek và Rô neak Thung thuộc âm
mộc; Rô neak Đek thuộc âm sắt; Skô Thum và Samphô thuộc âm da; cuối cùng là Srolai
thuộc âm hơi. Trong đó gồm ba nhóm nhạc khí tự vang (đồng, mộc, sắt), một nhóm nhạc
khí màng rung (da) và một nhạc khí hơi ( “Srolai Pin Peat”).
Hình 1: Dàn nhạc ngũ âm
Nguồn: />b. Hình thức
Xét về mặt hình thức, nhạc ngũ âm được thiết kế đẹp và tinh xảo, mỗi nhạc khí
được định âm một cách chính xác, đảm bảo các yếu tố hồ âm cho cả dàn. Khi biểu diễn,
người chơi nhạc thường tách ra từng nhạc cụ để độc tấu nhằm khai thác tối đa tính độc
đáo trong âm thanh của từng nhạc cụ cũng như khả năng biểu diễn của từng nhạc công.
Dàn nhạc ngũ âm được cấu tạo từ những chất liệu gần gũi với cuộc sống chúng ta,
nhưng để làm được dàn nhạc ngũ âm thì phải có rất nhiều yếu tố và nhất là phải hiểu
tường tận về văn hóa dân tộc, về âm nhạc mới có thể thẩm âm một cách chính xác trên
từng chất liệu, đồng thời phải tỉ mỉ từng chút một trong việc chọn chất liệu để đảm bảo
tính chuẩn xác về âm thanh và cũng có thể bảo quản được lâu.
Để làm được một dàn nhạc ngũ âm đạt chuẩn, có hai lại nhạc khí khó nhất, đó là
bộ trống và 16 cái cồng nhỏ được chế tác bằng chất liệu đồng nguyên chất. Để có được
6
những chiếc cồng này thường người ta phải đặt mua tận bên Campuchia và được rèn với
kỹ thuật thật công phu. Riêng Rô neat Đek phải được làm bằng gỗ cây bình linh cịn
ngun gốc, nếu khơng có gỗ bình linh thì có thể thay thế bằng gỗ sao, cẩm lai. Trong
các cơng đoạn chế tác thì cơng đoạn đục, đẽo, kht ruột gốc cây tốn nhiều thời gian vì
địi hỏi phải rất tỷ mẩn, công phu. Trống được bịt hai đầu bằng da trâu cũng được chọn
lựa rất kỹ thì khi đánh mới đảm bảo về chất lượng âm thanh chuẩn.
Một dàn nhạc Pin-peat hoàn chỉnh phải hài hoà về hình thức bên ngồi và
chuẩn xác về âm thanh, điểm đặc biệt nữa chính là niềm đam mê. Có đam mê, có yêu
nét đẹp và độc đáo của dân tộc mới có đủ kiên nhẫn, thời gian, tâm huyết cho ra
được những sản phẩm Pin-peat tốt nhất. Hiện nay, trung bình một bộ dàn nhạc ngũ âm
có giá từ 65 – 70 triệu đồng/bộ.
CHƯƠNG 3. CÁC LOẠI NHẠC CỤ TRONG DÀN NHẠC NGŨ ÂM
3.1. Kôn Vông Thum
Kôn Vông Thum được du nhập từ Ấn Độ vào Việt Nam, Campuchia, Thái Lan,
Miến Điện,... Đây là loại nhạc khí tự thân vang gõ, thuộc biên chế chính thức trong dàn
nhạc ngũ âm. Với cấu tạo là một chiếc cồng lớn bao gồm 16 chiếc cồng có nấm như
Kơng Vơng Tch nhưng có đường kính to hơn. Ngun liệu để chế tác nhạc khí này là
đồng thau hoặc đồng pha gang. Để sử dụng được Kôn Vông Thum người ta sẽ dùng đến
một cặp dùi bằng gỗ, đầu dùi được làm bằng da trâu, bị hoặc voi có hình trịn và dẹp để
đánh tạo âm sắc vang xa. Ở hai đầu vòng cung có gắn 2 miếng ván có chạm trổ họa tiết,
gọi là “Khơl” hoặc “Kbăng”.
Hình 2: Kơn Vơng Thum trong dàn nhạc ngũ âm
7
Nguồn: />Kơn Vơng Thum có âm thanh giịn dã và vang xa như tiếng chuông. Tầm âm thực
tế của Kôn Vông Thum thấp hơn Kôn Vông Tuôch một quãng 8. Để đảm bảo âm thanh
được chuẩn xác và dễ dàng điều chỉnh âm sắc hoặc cao độ theo ý muốn, người ta thường
dán vào mỗi nấm cồng một loại sáp chì (Prơmơ). Khi diễn tấu nhạc khí này, nghệ nhân
thường sẽ ngồi xếp chân ở giữa vành cung và cầm dùi để đánh. Kỹ thuật phổ biến của
Kôn Vông Thum là diễn tấu giai điệu đồng âm với Kôn Vông tuôch và có vai trị làm nền
hịa âm bè trầm (Basse) cho dàn nhạc. Đây là một trong số những loại nhạc cụ quan
trọng trong dàn nhạc ngũ âm và là “cặp song hành” với Kôn Vông Tuôch.
3.2. Kôn Vông Tuôch
Tương tự như KônVông Thum, Kôn Vông tuôch cũng được du nhập từ Ấn Độ vào
Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện,... và cũng thuộc loại nhạc khí tự thân vang
gõ. Đây là một chiếc cồng nhỏ, gồm 16 chiếc cồng có nấm, được chế tạo chủ yếu từ đồng
thau hoặc đồng pha gang, giống với Kôn Vông Thum. Khi biểu diễn, nghệ nhân sẽ dùng
dùi bằng gỗ, dài khoảng 14cm, đầu dùi được làm bằng da trâu, bò hoặc voi để đánh tạo
âm sắc vang xa. Ở hai đầu vòng cung cũng được gắn 2 miếng ván có chạm trỗ họa tiết,
gọi là “Khơl” hoặc “Kbăng”.
Hình 3: Kơn Vơng Tch trong dàn nhạc Pưnpet tại chùa Dơi
Nguồn: />8
Kơn Vơng Tch có âm thanh trong trẻo và ngân vang như tiếng chuông. Tầm âm
thực tế của Kôn Vông Tuôch cao hơn Kôn Vông Thum một quãng 8. Để đảm bảo âm
thanh được chuẩn xác và dễ dàng điều chỉnh âm sắc hoặc cao độ theo ý muốn, người ta
thường dán vào mỗi nấm cồng một loại sáp chì (Prômô). Kỹ thuật phổ biến của Kôn
Vông Tuôch là diễn tấu giai điệu đồng âm với Rô neat Ek và có vai trị là nhạc khí chủ
lực về màu sắc, kim loại trong dàn nhạc ngũ âm. Ngoài ra, đây cịn là loại nhạc khí khơng
chỉ quan trọng trong dàn nhạc ngũ âm mà cịn là một phần khơng thể thiếu trong Khlon
Khech (dàn nhạc lễ tang). Trong một vài trường hợp, dàn nhạc ngũ âm có thể thiếu một
hoặc hai nhạc cụ chẳng hạn Srolai hay Kôn Vông Thum nhưng riêng Kơn Vơng Tch
nhất định phải có mặt thì dàn nhạc mới đủ điều kiện để diễn tấu theo quy định.
3.3. Chhưng
Chhưng là nhạc khí tự thân vang đập phổ biến của người Khmer vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Chhưng được làm từ hợp kim đồng thau hoặc đồng thiếc. Cấu tạo chính
bao gồm hai chiếc bằng nhau có hình dán vung trịn như chiếc đĩa nhỏ, ở giữa có núm,
giữa núm có khoét một lỗ nhỏ để xỏ vào đó một sợi dây dài khoảng 20cm. Chhưng có hai
âm sắc là âm: “Chhấp” khi đập hai chiếc vào nhau và giữ yên, âm thanh sẽ vang lên sau
đó ngắt ngay. Và âm sắc còn lại là âm “Chhưng” khi đập hai chiếc lệch nhau, âm sắc
vang lên và ngân dài, một điều đặc biệt là hai âm sắc này luôn xen kẽ nhau trong lúc diễn
tấu. Khi diễn tấu, nghệ nhân dùng hai tay cầm hai dây trên núm Chhưng và đập hai mặt
vào nhau để tạo ra âm thanh. Kỹ thuật khi biễu diễn gồm có kỹ thuật đánh thẳng góc,
chập vào nhau để tạo ra âm “Chhấp” và kỹ thuật đánh chéo, rời hai chiếc với nhau để tạo
ra âm “Chhưng”.
9
Hình 4: Chhưng tại bảo tàng Khmer
Nguồn: />Âm thanh Chhưng ngân vang như tiếng chuông, đánh mạnh vang xa nhưng lại rất
chói tai. Chhưng là loại nhạc khí quan trọng của dàn nhạc ngũ âm, đồng thời cũng là một
phần của dàn nhạc Mơhơri và dàn nhạc lễ cưới. Ngồi ra, người ta còn dùng Chhưng để
tham gia với các dàn nhạc đệm cho các tiết mục ca múa, nhạc dân gian dân tộc. Và cịn
góp mặt trong biểu diễn nghệ thuật quần chúng và sân khấu nghệ thuật chuyên nghiệp
của dân tộc Khmer.
3.4. Rô Neat Ek
Rô Neat Ek là nhạc khí có tần âm cao nhất (âm Ek) trong dàn nhạc ngũ âm. Đây là
nhạc khí thuộc loại tự thân vang gõ (Rơneat) do có các thanh âm được dùng dùi gõ để
phát ra âm thanh, Rơ Neat Ek có 21 thanh âm làm bằng tre già, tất cả các thanh âm được
kết xâu với nhau thành một chuỗi, mắc vào hai đầu của thùng đàn. Ngày nay, các thanh
âm có thể được làm bằng gỗ chắc, có độ vang tốt. Các thanh âm có chiều rộng bằng nhau
nhưng ngắn dần từ âm trầm đến âm bổng. Thùng đàn được đóng bằng gỗ tốt như: gỗ bên,
cẩm lai,... và có hình thù như như một chiếc thuyền ngo uốn cong (vì vậy mà Rơ Neat Ek
thường được gọi là đàn thuyền) ở phía dưới đàn có một chân to nằm giữa, có vai trị đỡ
cho đàn đứng vững khi diễn tấu.
10
Hình 5: Rơ Neat Ek
Nguồn: a/2013/02/pleng-pun-piet-ngu-am-cua-dan-tockhmer.html
Đàn Rơ Neat Ek có âm sắc réo rắt, giòn giã và vang xa. Để tạo thanh âm được
chuẩn xác, người ta có dán bột chì pha sáp (gọi là prơmơ) ở hai đầu thanh âm nhằm thuận
tiện cho việc tăng giảm cao độ của đàn. Khi diễn tấu, nghệ nhân sẽ sử dụng cặp dùi để gõ
vào các thanh âm. Cặp dùi thường được làm từ gỗ hoặc tre, hai đầu có hình lục lăng để
tạo độ vang khi gõ. Dùi được sử dụng thường có hai loại: khi dùng trong dàn nhạc ngũ
âm thì đầu dùi giữ nguyên độ cứng để tạo cho âm thanh trong trẻo, vang xa, phù hợp với
tiết tấu của dàn nhạc. Cịn khi dùng trong dàn nhạc Mơhơri, đầu dùi sẽ được quấn quanh
bằng một sợi chỉ pha với một loại keo (Kao Leak) cho dính chặt để có độ mềm nhằm tạo
âm thanh êm ái, du dương, có sức truyền cảm. Kỹ thuật đánh đàn Rơ Neat Ek là dùng hai
dùi để đánh đồng âm quãng 8 đúng hoặc đánh quãng 4, quãng 5, quãng 6 và Trémolo ở
những nốt ngân dài. Rô Neat Ek là nhạc khí chủ đạo trong dàn nhạc ngũ âm và dàn nhạc
Mơhơri, đồng thời cịn có mặt trong dàn nhạc sân khấu Dù Kê với những thang âm cải
tiến. Ngày nay, Rơ Neat Ek được sử dụng để độc tấu, hịa tấu hoặc đệm cho các tiết mục
ca múa trên sân khấu nghệ thuật chuyên nghiệp của dân tộc Khmer.
3.5. Rô Neat Thung
Rơ Neat Thung thuộc loại nhạc khí tự thân vang gõ của người Khmer Nam Bộ.
Nhạc khí này có 16 thanh âm làm bằng gỗ, mỗi thanh âm đều là hình chữ nhật và tất cả
đều được kết xâu với nhau thành một chuỗi, mắc vào hai đầu của thùng đàn. Các thanh
âm có chiều rộng bằng nhau, nhưng chiều dài ngắn dần từ âm trầm đến âm bổng. Thùng
đàn thường được làm bằng gỗ chắc như: mít, cẩm lai, thao lao,... và có hình chữ nhật, đáy
bằng, hai bên có bốn chân dính liền với thân đàn để cố định đàn. Để sử dụng được Rô
11
Neat Thung, nghệ nhân phải dùng dùi để gõ tạo âm thanh. Dùi thường được làm bằng tre
hoặc gỗ, đầu dùi to hình lục lăng, có quấn một lớp vải mỏng để làm thanh âm trầm ấm,
mềm mại và truyền cảm. Tần âm của Rô Neat Thung thấp hơn đàn Rô Neat Ek một
quãng 8. Để tạo được sự chuẩn xác cho các thanh âm, người ta cũng dán sáp chì (Prơmơ)
ở hai đầu thanh âm, nhằm mục đích là dễ dàng thay đổi cao độ của đàn theo ý muốn. Khi
diễn tấu, nghệ nhân dùng hai dùi để gõ vào các thanh âm. Rô Neat Thung không đánh
đồng âm quãng 8 như Rô Neat Ek mà đánh từng âm rời, thường sử dụng kỹ thuật
Trémolo quãng 3,4,5,6 ở những nốt có trường độ ngân dài.
Hình 6: Rơ Neat Thung
Nguồn:a/2013/02/pleng-pun-piet-ngu-am-cua-dan-toc-khmer.html
Rơ Neat Thung có âm thanh trầm ấm, mềm mại, sâu lắng và khơng vang bằng Rơ
Neat Ek nên nó có chức năng là vừa chuyển tấu giai điệu, vừa làm nền bè trầm (Basse)
cho Rô Neat Ek và cho cả dàn nhạc, với mục đích là làm cho hiệu quả diễn tấu được hài
hịa, giàu sức biểu cảm. Rơ Neat Thung không chỉ dùng trong dàn nhạc ngũ âm mà cịn
có vai trị quan trọng đối với dàn nhạc Mơhơri, hay dàn nhạc LaKhơne Bassăk và cịn
tham gia đệm cho các tiết mục ca múa trên sân khấu nghệ thuật chuyên nghiệp, nghệ
thuật quần chúng của người Khmer. Ngoài ra, nó cịn được xem là cặp “song hành”,
khơng bao giờ tách rời với Rô Neat Ek.
3.6. Rô Neat Đek
Rô Neat Đek cịn có tên gọi khác là Rơ Neat Thơnh, hay Rơ Neat Mếs, đã có từ
trước thời đại Ăngkor trong dàn nhạc ngũ âm (có hình điêu khắc trên đá của Ăngkor). Rô
12
Neat Đek sau khi du nhập vào Việt Nam thì trở thành nhạc khí của người Khmer Nam Bộ.
Đây cũng là nhạc khí thuộc loại tự thân vang gõ do có các thanh âm được dùng dùi gõ để
phát ra âm thanh. Rơ Neat Đek có 21 thanh âm làm từ chất liệu sắt pha đồng, mỗi thanh
âm đều là hình chữ nhật và ngắn dần từ trầm đến bổng. Thùng đàn được đóng bằng gỗ
chắc, hình chữ nhật, ở hai bên thùng có bốn chân trụ. Dùi để đánh đàn được làm từ gỗ
chắc hoặc tre già, đầu dùi to hình lục lăng, khi gõ sẽ tạo ra âm thanh réo rắt, trong trẻo.
Hình 7: Rơ Neat Đek
Nguồn: a/2013/02/pleng-pun-piet-ngu-am-cua-dan-tockhmer.html
Rơ Neat Đek có âm sắt réo rắt, trong trẻo, chói sáng như tiếng chuông ngân. Khi ở
gần, nghe âm điệu của Rô Neat Đek người ta sẽ thường nghĩ âm thanh nhỏ, nhưng thật ra
nó lại vang đi rất xa. Thanh âm được sắp xếp theo hệ thống bảy cung đều, khi bị lệch âm
thì người ta sẽ chỉnh lý bằng cách mài dũa hai đầu thanh âm cho chuẩn xác. Âm thực tế
của Rô Neat Đek cao hơn Rô Neat Ek một quãng 8 đúng. Khi diễn tấu, nghệ nhân sẽ
dùng cặp dùi gỗ, có hai đầu to trịn để gõ. Thuở xưa, có giai đoạn người ta dùng dùi bằng
sắt để gõ, nhưng âm thanh rất chói tai, tiếng đàn nghe không được rõ ràng nên ngày nay
không còn được dùng nữa. Kỹ thuật chủ yếu của đàn Rô Neat Đek cũng giống như Rô
Neat Ek, tức là luôn dùng hai dùi đánh đồng âm quãng 8 đúng, hoặc đánh quãng 4,5,6 và
Trémolo ở những nốt ngân dài. Rơ Neat Đek có vai trị diễn tấu giai điệu và pha màu với
các nhạc khí khác, tạo nên âm thanh tổng hợp hài hòa cho dàn nhạc ngũ âm truyền thống.
13
3.7. Skhô Thum
Skhô Thum là loại trống lớn, thuộc nhạc khí màng rung gõ của dân tộc Khmer
trong dàn nhạc ngũ âm. Nhạc khí này ln ln được sử dụng một cặp khi hịa tấu trong
dàn nhạc Pưnpet. Skhơ Thum có hình thức cấu tạo giống như Skơ Yeam nhưng kích
thước nhỏ hơn. Thân trống được làm từ gỗ mít hoặc gỗ thốt nốt, ở giữa phình rộng. Hai
mặt trống được bịt bằng da trâu, da bò hoặc da kỳ đà. Cặp dùi trống thường được làm
bằng gỗ tốt, chắc nặng để tạo lực cho trống vang xa.
Hình 8: Skhơ Thum trong dàn nhạc Pinn Peat tại Chùa Dơi
Nguồn: />Tiếng trống Skhô Thum khỏe, trầm và vang rất xa. Trong hai trống được sử dụng
sẽ có một trống mang âm trầm và một trống thuộc âm bổng. Khi diễn tấu, hai âm sắc này
quyện vào nhau, xen kẽ đều đặn với nhau làm tăng hiệu quả của dàn nhạc. Với loại nhạc
khí này, nghệ nhân sẽ dùng dùi gỗ để đánh trống. Trước khi diễn tấu, hai trống được đặt
trên một giá đỡ, nằm song song với nhau. Skhô Thum thường được mở đầu cho dàn nhạc
hòa tấu bằng một hồi trống dài, sau đó làm nhiệm vụ phần đệm tiết tấu cho cả dàn nhạc.
Trước khi kết thúc bản hịa tấu, cũng là một hồi trống dài của Skhơ Thum, cũng như Skhơ
Thum cịn đảm nhận vai trị tạo cao trào cho dàn nhạc. Skhơ Thum là nhạc khí có mặt
xuyên suốt trong tất cả mọi dàn nhạc Pưnpet (khi thiếu đi nó thì dàn nhạc khơng thể hịa
tấu được) trong các ngơi chùa, cũng như ở Phum, Sóc hoặc trong dàn nhạc ngũ âm của
các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của dân tộc Khmer.
14
3.8. Samphơ
Samphơ là nhạc khí màng rung vỗ (loại hai măt) có từ rất lâu đời của dân tộc
Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long cũng như ở một số nước Châu Á (có sự khác nhau về
kích cỡ). Samphơ là loại trống có một thân trịn hình ống (gỗ đục lịng), ở giữa phình to,
hai đầu hơi múp (một đầu to và một đầu nhỏ hơn). Hai đầu có bịt hai mặt da bò hoặc da
ngựa, hai mặt được căng bằng sợi dây da hoặc dây mây từ mặt này sang mặt kia, việc này
nhằm thuận lợi cho việc tăng giảm âm sắc của trống. Ngoài ra, để mặt trống được căng và
có âm thanh giịn giã, vang xa người ta sẽ dùng “cơm Samphô” ( một cục cơm nhúng
nước trộn với tro bóp nhuyễn) để đắp lên mặt trống trước khi diễn tấu. Phần mặt trống to
có âm thanh đục, trầm ấm, cịn phần mặt nhỏ có âm thanh giịn giã, vang xa. Ngồi ra,
cịn được tạo ra “âm câm” bằng cách đập mạnh và giữ yên bàn tay trên mặt trống, làm
cho âm thanh bị ngắt, tạo ra tiếng “Păc păc”.
Hình 9: Trống Samphơ
Nguồn: a/2013/02/pleng-pun-piet-ngu-am-cua-dan-tockhmer.html
Khi diễn tấu, Samphô được đặt nằm ngang trên một giá đỡ riêng, nghệ nhân dùng
tay trái đánh phần đầu to ( vỗ vào giữa tạo âm trầm ấm, đập và úp bàn tay trên mặt trống
tạo âm thanh “câm”) và dùng tay phải đánh phần đầu nhỏ (vỗ vào giữa tạo âm giòn dã,
vang xa, còn đập và úp bàn tay trên mặt trống tạo âm “câm”). Samphơ có vai trị chính về
tiết tấu, nhịp điệu, tiết phách cho cả dàn nhạc lúc biễu diễn. Trong lúc hịa tấu, Samphơ
đóng vai trị dẫn dắt về nhịp điệu (tăng hoặc giảm Tempo) trong suốt q trình diễn tấu
một bài nhạc. Ngồi ra, nó cịn có chức năng xác định các nhịp chuẩn (nhịp đơn, nhịp
kép,...) và sự chuyển đoạn giữa các bài hòa tấu.
15
3.9. Srolai
Srolai (ngày xưa còn được gọi là kèn Srolai Nok - được làm bằng gỗ quý thường
là lỏi gỗ mun, khoét lỗ từ đầu đến cuối thân kèn, phía trên cịn có gắn dính bằng một ống
thơng hơi được cột dính với dăm kèn - loại dăm kép được lằm bằng lá thốt nốt hoặc tre
gọt mỏng) là loại nhạc khí thổi hơi của dân tộc Khmer Nam Bộ. Srolai có hai loại: Srolai
Tơch (kèn nhỏ) và Srolay Thum (kèn lớn). Đây là nhạc khí hơi đặc biệt chỉ dùng trong
dàn nhạc Pưnpet. Kèn Srolai được coi là loại nhạc khí q hiếm vì có cấu tạo phức tạp,
tinh tế cũng như hiếm có người biết sử dụng trong thời đại ngày nay. Âm sắc của Srolai
rất êm dịu, hịa quyện với các nhạc khí gõ trong dàn nhạc, làm cho tần âm tổng hợp của
dàn nhạc trở nên hài hịa, đa âm sắc nhưng khơng gay gắt, chói tai.
Hình 10. Srolai tại bảo tàng Khmer
Nguồn: />Khi diễn tấu, nghệ nhân đặt âm kèn thẳng đứng, cắt ngang lưỡi và thổi để tạo ra
âm thanh. Kỹ thuật khó nhất của nhạc khí này là cách lấy hơi, vừa phải thổi bằng lồng
ngực và cả bằng đường mũi tạo âm thanh liên tục, không thể đứt quãng từ đầu cho tới khi
kết thúc bản nhạc. Kỹ thuật diễn tấu đàn Srolai rất khó, địi hỏi người học phải tốn cơng
sức rèn luyện. Ngày xưa kèn Srolai thường được tấu đề mở đầu các bài bản cổ truyền
trong dàn nhạc, đồng thời làm nền hịa thanh cho các nhạc khí khác. Tuy nhiên, ngày nay
kèn Srolai còn tham gia trong tổ chức dàn nhạc Mơhơri,... Dù vậy, do ít người biết sử
dụng nên trong các dàn nhạc Pưnpet thường vắng mặt kèn Srolai.
3.10. Cách diễn tấu và hịa tấu
Theo tín ngưỡng của người Khmer, trước khi hòa tấu dàn nhạc phải làm lễ cúng tổ
- cúng “Khru đơm” để tưởng nhớ ơn các vị tiền bối đã chế tác ra các loại nhạc khí. Đây
16
cũng chính là nghi thức giúp các nhạc cơng tịnh tâm, “nhập vai” hơn khi tiến hành biễu
diễn.
Do Rô Neat Ek là nhạc khí chủ đạo nên thường sẽ được khởi xướng đầu tiên, sau
đó các nhạc khí khác cùng lần lượt hòa tấu tổng hòa vào. Đối với người mới học nhạc, để
đánh được Rô Neat Ek người ta phải giữ hai dùi ở quãng 8, để không bị lệch âm khi hạ
dùi. Cịn Rơ Neat Thung đánh tiếng rời; Rô Neat Đek đánh tiếng đôi; Kôn đánh tiếng rời
nhưng đơi khi có vài chỗ đệm tiếng đơi; Skhơ Thum, Samphô và Chhưng đệm theo bài
nhạc, tiết tấu của Samphơ và Chhưng góp phần giữ âm nhịp của bài nhạc, cịn Srolai giúp
dàn nhạc có sinh khí và thêm phần độc đáo.
CHƯƠNG 4. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA NHẠC NGŨ ÂM TRONG ĐỜI SỐNG
CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KHMER
Âm nhạc “Pin Peat” gắn liền với đời sống của người Khmer từ lúc sinh ra, trưởng
thành và đến lúc mất đi. Khi đó nó tác động đến thế giới quan, nhân sinh góp phần quan
trọng vào sự hình thành các tình huống thẩm mỹ thẩm mỹ với trí tưởng phát triển, trí
thơng minh, sáng tạo ... Nhạc khí trong bộ nhạc “Pin Peat” có giá trị nghệ thuật rất cao cả
về bề ngồi hình thức lẫn nội dung bên trong. Về cấu hình: Bộ nhạc khí trong dàn “Pin
Peat” được thiết kế đẹp mắt bởi đường viền trang trí được chạm trổ hoa văn dân tộc đặc
trưng. Trong đó có 5 loại chất liệu (Đồng, Sắt, Mộc, Da và Hơi) được phối hợp độc đáo.
Về nội dung biểu diễn: thể hiện sự gắn kết cộng đồng, đây là một giá trị lớn. Nhạc “Pin
Peat” với âm sắc mang giá trị của bản văn hóa, thể hiện phong cách cách, tâm hồn đặc
trưng của người Khmer, từ đó góp phần tạo nên các chức năng văn hóa, chức năng xã hội
và là biểu tượng mang tinh thần dân tộc đậm nét.
Mặt dù xã hội ngày nay có nhiều biến động, nhiều giá trị văn hóa âm nhạc ngoại
lai ảnh hưởng khơng nhỏ, nhưng cần thấy rõ giá trị bền vững của nhạc “Pin Peat” ở cộng
đồng người Khmer chưa bao giờ quay lưng, đồng thời ln có nhu cầu thưởng thức âm
nhạc dân tộc ngày càng cao hơn nữa, khi kinh tế hộ gia đình và điều kiện xã hội đã phát
triển. Tầm quan trọng của dàn nhạc ngày càng được minh chứng ở ngoài chỗ ngoài người
Khmer sử dụng và thưởng thức thì cộng đồng dân tộc anh em khác khu vực cũng rất ưa
chuộng. Vào những ngày lễ, mọi người thường tập trung đến nghe tấu nhạc hoặc mời các
đội nhạc về phục vụ tận nhà mỗi khi có tiệc lớn. Đây là một trong những thang giá trị độc
đáo mà nhạc “Pin Peat” có được và cần cố gắng giữ gìn và phát huy hơn nữa.
17
CHƯƠNG 5. GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
CỦA DÀN NHẠC NGŨ ÂM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Vấn đề trọng tâm trong giai đoạn hiện nay là phải tiến hành điều khiển các giá trị
và. hóa liên quan đến nhạc “Pin Peat” của người Khmer, xây dựng kế hoạch sưu tập các
nguồn tư liệu sống, tư liệu sách vở, làn điệu âm nhạc ... Từ đó cần phục dựng biểu diễn
như một cách bảo tồn sống góp phần phát huy âm nhạc dân tộc. Để khẳng định giá trị âm
nhạc “Pin Peat” trong đời sống tinh thần cộng đồng dân tộc Khmer từ quá khứ đến hiện
tại và sức sống còn, sự bền vững của âm nhạc dân tộc trong tương lai cần tăng cường
công tác đào tạo nhạc công, nghiên cứu khoa học, nghiệp vụ chuyên môn cho việc bổ
sung tư liệu lịch sử, hồ sơ khoa học, hồ sơ pháp lý trình các cơ quan có thẩm quyền cơng
nhận âm nhạc “Pin Peat” người Khmer là di sản văn hóa phi vật thể độc đáo của dân tộc.
Đồng thời đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia hoặc của khu vực. Song
hành, cần nắm chắc và đầy đủ những đặc trưng giá trị vật chất và tinh thần trong kho tàng
di sản văn hóa của người Khmer. Để từ đó chú trọng đầu tư, nâng tầm và phát huy tối ưu
giá trị di sản văn hóa của người Khmer một cách có hiệu quả. Tóm lại, mọi hoạt động
trong nghệ thuật địi hỏi cần phải có sự chung tay góp sức của cộng đồng, để thành cơng
khơng phải là một ngày một bữa , hay không hẳn chỉ dựa vào sức lực của một cá nhân
nghệ nhân, một nghệ sĩ sĩ giỏi hoặc một nhóm nhạc mạnh mà cần phải có sự tham gia,
quan tâm của đơng đảo thành phần khác trong xã hội như: Đối tượng học sinh, sinh viên,
các nhà khoa học, những người quan tâm đến văn hóa Khmer...Tất cả nhằm mục đích bảo
tồn giá trị văn hóa phi vật thể thế giới của người Khmer mà trong đó có âm nhạc, đơng
thời giữ gìn, phát huy, hướng các tri thức hóa tinh thần trước mọi thời đại của xã hội như
một bản sắc đặc trưng riêng, bất biến của dân tộc.
18
KẾT LUẬN
Lịch sử đi qua, thăng trầm và khó khăn đã vượt khỏi, dàn nhạc ngũ âm vẫn tồn tại
nhưng cần khẳng định hơn nữa sức sống mãnh liệt âm nhạc dân tộc của cộng đồng trước
những thử thách mới của thời đại và sự biến động của cơ chế thị trường trong xã hội hiện
nay. Dàn nhạc ngũ âm với giá trị văn hóa và nghệ thuật độc đáo, sản phẩm tinh thần này
thể hiện mối tương quan giữa con người với thực tại cuộc sống, thiên nhiên và lý trí con
người sâu sắc. Trong đó, việc phối hợp các chất liệu nhạc khí để tạo nên dàn nhạc có sự
đa dạng âm sắc trong một tổng thể, biểu hiện tài năng và sự sáng tạo của cộng đồng tộc
người Khmer. Việc hình thành và tồn tại của dàn nhạc ngũ âm như một thành tố cấu
thành không thể thiếu trong tổng thể tiến trình lịch sử tộc người. Cần tạo điều kiện để
phát huy loại hình biểu diễn của dàn nhạc, giá trị văn hóa ấy được trường tồn trong mọi
thời đại, khẳng định nét độc đáo, bản sắc đặc trưng riêng của cộng đồng người Khmer
nước ta.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục tài liệu tham khảo trên sách
1. Nhiều tác giả. (2014). Nghệ thuật âm nhạc phương Đông: Bản sắc và giá trị. Nhà xuất
bản Đại học quốc gia Tp HCM.
2. Đàm Văn Hiển, Trần Văn Bổn, Lê Hàm. (2012). Sân khấu dân gian. Nhà xuất bản văn
hóa dân tộc.
3. Đào Huy Quyền, Sơn Ngọc Hồng, Ngơ Khị. (2005). Nhạc khí dân tộc Khmer Nam
Bộ. Nhà xuất bản khoa học xã hội
Danh mục tài liệu tham khảo trên internet
1. Cao Hồng Lĩnh. Nét độc đáo dàn nhạc ngũ âm. />2. Phương Nghi. Ngũ âm, linh hồn trong đời sống văn hóa người Khmer.
/>
20