-----------------------
Đề tài :
TẾT CỔ TRUYỀN CHOL CHNAM CHMAY CỦA
NGƯỜI KHMER NAM BỘ
NĂM 2020
MỤC LỤC
TỔNG QUAN………………………………………………………………….2
NỘI DUNG…………………………………………………………………….3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN…………………..3
1.
Cơ sở lí luận……………………………………………………………..3
2.
Cơ sở thực tiễn…………………………………………………………...3
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI KHMER NAM BỘ………………..4
1.
Đặc điểm cư trú, sản xuất……………………………………………..….4
2.
Ứng xử với mơi trường tự nhiên…………………………………………4
3.
Văn hóa tinh thần………………………………………………………...6
CHƯƠNG 3: VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ TẾT CỔ TRUYỀN CHOL CHNAM
THMAY…………………………………………………………………………9
1.
Nguồn gốc………………………………………………………………...9
2.
Thời gian……………………………………………………………….…9
3.
Ý nghĩa……………………………………………………………………9
CHƯƠNG 4: NÉT ĐẸP VĂN HÓA CỦA NGÀY TẾT CỔ TRUYỀN CHOL
CHNAM THMAY CỦA NGƯỜI KHMER……………………………………10
1.
Chuẩn bị đón tết……..…………………………………………………..10
2.
Phong tục của ngày Tết Chol Chnam Thmay……………………………10
3.
Các hoạt động chính trong ngày tết Chol Chnam Thmay………………..11
CHƯƠNG 5: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG VỀ
TẾT CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI KHMER…………………………….……...13
1.
Gắn kết cộng đồng………………………………………………………..13
2.
Bảo tồn và phát huy……………………………………………………….13
KẾT LUẬN………………………………………………………………………14
TÀI LIỆU KHAM KHẢO………………………………………………………..15
1
TỔNG QUAN
1/ Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc đều có các nét văn hóa riêng của
mình trong đó nổi bật lên các lễ hội, ngày lễ lớn. Ở Tây Nam Bộ, khu vực người
Khmer sinh sống đông đảo. Cũng nhờ chính cộng đồng người đã góp phần làm đa
dạng hơn miền Tây sông nước với nhiều nét sinh hoạt độc đáo trong đó có tết cổ
truyền Chol Chnam Thmay.
Định cư rất lâu ở đồng bằng sông Cửu Long, người Khmer đã cho mọi người thấy
được dấu ấn của cộng đồng dân tộc mình. Tết Chol Chnam Thmay là nét đẹp văn hóa
khơng thể thiếu trong đời sống người Khmer. Tết Chol Chnam Thmay không chỉ thể
hiện quan niệm của người Khmer về chu kỳ vận chuyển của năm, lấy mùa mưa làm
mốc để đánh dấu thời gian mà còn nhằm giáo dục con người về tấm lịng hiếu thảo,
đồn kết gắn bó chặt chẽ với cộng đồng.
2/ Mục đích nghiên cứu
Trình bày một số hiểu biết về người Khmer ở vùng Nam Bộ và tết cổ truyền của dân
tộc này, qua đó biết rõ hơn về nét văn hóa đặc trưng của người Khmer Nam Bộ, qua
đó bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của tết cổ truyền Chol Chnam
Thmay.
3/ Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là Khmer Nam Bộ và các lễ hội lớn của họ, trong đó có
tết cổ truyền Chol Chnam Thmay, đi sâu vào tìm hiểu và phân tích những nét văn hóa
đặc trưng riêng biệt của dân tộc này.
4/ Phương pháp nghiên cứu
Để phân tích, nghiên cứu đề tài trên, bằng việc kết hợp các phương pháp như: phân
tích và nghiên cứu tài liệu, quan sát thực tế và kết hợp những kiến thức vốn có của
bản thân, tổng kết lại các kinh nghiệm thực tiễn.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1/ Cơ sở lí luận
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội.” (Trần Ngọc Thêm, 1997: 10).
Chol Chnam Thmay (hoặc Chaul Chnam Thmay) là lễ hội mừng năm mới theo lịch
cổ truyền của dân tộc Khmer. Chol nghĩa là “vào” và Chnam Thmay là “năm mới”.
"Lễ hội là hệ thống phân bố theo khơng gian: mỗi vùng có những lễ hội riêng của
mình. Lễ hội bao gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin;
phần hội gồm các trị chơi giải trí hết sức phong phú." (Trần Ngọc Thêm, 1997: 153).
2/ Cơ sở thực tiễn
Trải qua 2000 năm tồn tại và phát triển trong cộng đồng người Khmer, Phật giáo
Nam tông đã trở thành thành tố quan trọng tạo nên nét đặc trưng văn hóa và tác động
đến mọi mặt trong đời sống xã hội của người Khmer, chính vì thế mà “Chùa” đối với
người Khmer là sự gắn bó thiêng liêng, nên cũng chính lí do đó mà hầu hết các hoạt
động của người Khmer đều gắn với chùa Phật trong đó có Chol Chnam Thmay.
Các nghi thức lễ nghĩa, cùng với đó là các hình thức diễn xướng được diễn ra trong
các ngày này đều hiện lên được các đặc trưng văn hóa dân tộc riêng và cạnh đó cũng
chứa đựng nét đặc sắc của các yếu tố bản địa. Đi cùng với dòng chảy của thời gian,
phong tục mừng năm mới của người Khmer sẽ có ít nhiều biến đổi để phù hợp với
cuộc sống hiện đại nhưng các nghi thức chính vẫn được bà con, cộng đồng người
Khmer nơi đây tiếp tục gìn giữ đến nay. Qua đó cho chúng ta thấy được niềm tin vào
đức Phật, niềm tin vào thần linh cùng với sự chân chất của người Khmer bao đời vẫn
nguyên vẹn.
3
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI KHMER NAM BỘ
Việt Nam với 54 dân tộc khác nhau, và dân tộc Khmer là một trong 54 dân tộc
thuộc cộng đồng các dân tộc Việt Nam, sinh sống chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu
Long và sống xen kẽ giữa các đồng bào Kinh, Hoa.
1/ Đặc điểm cư trú, sản xuất
1.1/ Đặc điểm cư trú
Người Khmer đã định cư rất sớm ở đồng bằng sơng Cửu Long, hình thành ba vùng
dân cư tập trung lớn: vùng Sóc Trăng – Bạc Liêu – Cà Mau (Sóc Trăng, Vĩnh Châu,
Vĩnh Lợi),vùng An Giang – Kiên Giang (Vọng Thê, Tri Tơn, Nhà Bàng, phía Tây
Bắc Hà Tiên), vùng Trà Vinh – Vĩnh Long. Bởi các yếu tố của mơi trường tự nhiên
nên các hình thái cư trú rất đa dạng. “Tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên nên chia ra
thành các loại hình cư trú như: cư trú trên đất giồng, cư trú trên đất ruộng, cư trú ven
theo kênh và các con rạch nhỏ, cư trú dọc theo trục lộ giao thông, cư trú dạng “vành
khăn” ven chân núi.”( Nguyễn Khắc Cảnh, 1998).
1.2/ Đặc điểm, hoạt động sản xuất
Do sinh cơ lập nghiệp lâu năm ở vùng đất Tây Nam Bộ, vùng đất của sông nước
nên người Khmer chủ yếu sinh sống nhờ sản xuất nơng nghiệp là chính. Tự trao dồi
kiến thức, học hỏi kinh nghiệm từ các dân tộc khác đã làm phong phú hơn vốn sản
xuất nông nghiệp của họ. Để đem lại năng suất cao nhất thì việc phân biệt các loại
ruộng đất để gieo trồng, lựa chọn các loại giống thích hợp và tiến hành nhiều biện
pháp, kỹ thuật canh tác, thủy lợi… là rất quan trọng, và người Khmer nơi đây đã học
tập được các vấn đề đó qua năm tháng.
Cùng với hoạt động sản xuất nông nghiệp, người Khmer cịn có một số hoạt động
kinh tế phụ khác như thủ công nghiệp, ngư nghiệp, chăn nuôi, thương nghiệp…
Nhưng hầu như các sản phẩm của các hoạt động trên hầu như đều mang tính tự cung
tự cấp. Nơng sản và các sản phẩm thủ công, chăn nuôi…hầu như chỉ đủ cung cấp cho
sinh hoạt của phum sóc, của gia đình nơng dân. Việc trao đổi hàng hóa, nơng dân
tham gia vào các hoạt động thị trường hầu như rất ít. Kinh tế hàng hóa chưa phổ biến
và chưa chiếm vị trí thỏa đáng ở vùng nơng thơn Khmer.
2/ Ứng xử với môi trường tự nhiên
2.1/ Ăn
Bởi nền văn minh lúa nước nên đó cũng là lí do mà người Khmer quanh năm phải
sống dưới đồng sâu hun hút, phải chịu đựng cái lạnh của gió, của nước nên các thức
ăn, món uống của họ cũng mang tính chống chọi lại thời tiết, thiên nhiên. Thức ăn
hằng ngày có tơm, cá, ếch, rau, củ có sẵn trong vườn nhà, thu hoạch được họ. Và
không thể không thể nhắc đến mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tơm tép trộn
với thính và muối. Cùng với các gia mà họ ưa thích là vị chua từ me, chanh và cay từ
hạt tiêu, ớt,…
2.2/ Mặc
Tương tự như các dân tộc thiểu số khác thì trang phục truyền thống của người
Khmer cũng rất nhiều màu sắc, kết hợp nhiều gam màu sặc sỡ và tinh thế với các nét
4
độc đáo riêng. Nam và nữ đều có sự khác biệt về trang phục cổ truyền, đặc biệt là
trong các ngày lễ quan trọng như đám cưới. Màu sắc và chi tiết trên trang phục khá
cầu kỳ như: Yếm, thắt lưng, các phụ kiện trang sức vòng cổ, vòng tay, vịng bắp tay
sáng lấp lống... rất đẹp, tạo nên sự hài hịa, tinh tế cho người mặc. Cơ dâu trong trang
phục cưới cổ truyền rất lộng lẫy với chiếc xăm pốt bằng sợi kim tuyến hay tơ tằm. Để
tôn thêm nét dịu dàng, uyển chuyển đầy nữ tính, bộ lễ phục không thể thiếu Sbay một loại khăn mềm mại, cuốn chéo từ vai trái xuống bên sườn phải.
Trang phục cưới truyền thống của người Khmer( nguồn: internet)
Còn đối với ngày thường thì tùy lứa tuổi, theo sở thích khác nhau cũng như tác động
từ dân tộc Kinh và Hoa nên ngày nay người Khmer cũng có nhiều sự kết hợp khác
nhau nhưng với người già thì hầu như họ mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá
giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc
vắt qua vai.
2.3/ Ở
Kiến trúc nhà của người Khmer có sự khác biệt và tương phản rõ rệt với nhau giữa
nhà của người dân ở phum, sóc với chùa. Phum là tổ chức xã hội nhỏ nhất của người
Khmer, theo nghĩa của tiếng Khmer thì Phum là đất, là thổ cư. Cũng giống như làng
Việt Bắc Bộ thì phum cũng được bao quanh bởi các hàng tre, có cổng
trước cổng sau. Trong quá trình tụ cư, các phum của người Khmer ở Tây Nam Bộ đã
hòa nhập với người Kinh và người Hoa điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy
mạnh mẽ q trình giao lưu văn hóa, đồn kết, gắn bó, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau
giữa các dân tộc Việt Nam.
Nhà cửa người Khmer trước đây là nhà sàn, tuy nhiên qua nhiều thập niên lại đây
nhà sàn chỉ cịn một số ít dọc biên giới Campuchia. Phần lớn cư dân làm nhà giống
như người Kinh, người Hoa. Cách sắp đặt, tổ chức nhà ở nhìn bên ngồi có cảm giác
khơng khác gì nhà người Kinh, một nửa là bếp núc và nửa còn lại là nhà ở. Phần này
được ngăn đôi theo chiều dọc, phần trước dùng để tiếp khách và bàn thờ Phật. Nửa
5
sau, bên phải là buồng của vợ chồng gia chủ, bên trái là buồng ngủ của con gái. Tuy
bố trí đơn giản nhưng điều đặc biệt là không được phép tuỳ ý thay đổi.
2.4/ Di chuyển
Ngày nay xe máy đã phổ biến nên đây cũng là sự lựa chọn của người Khmer, nhưng
đối với trước đây thì họ thường di chuyển bằng xe bị, xe lơi bánh gỗ để vận chuyển
nông sản trong mùa thu hoạch, đặc biệt là đến nay một số người vẫn cịn giữ thói quen
đi chân đất.
3/ Văn hóa tinh thần
3.1/ Chữ viết và ngơn ngữ
Với ngơn ngữ thuộc nhóm ngơn ngữ Mơn – Khmer, họ sử dụng bộ mẫu tự Brahmi
để làm chữ viết giống với người Chăm và một số dân tộc khác. Do sự tác động của xã
hội ngày nay, việc lưu truyền chữ viết và ngơn ngữ của người Khmer khơng cịn phổ
biến, chủ yếu đi học và hầu như dung tiếng Việt là chính nên thực tế có một bộ phận
trong lớp trẻ của người Khmer bị mù tiếng Khmer đang diễn ra. Đặc biệt là các lớp trẻ
người Khmer hiện nay sống ở các vùng đô thị, tiếp xúc giao lưu nhiều với người Kinh
nên hầu hết người trẻ ở khu vực này khơng biết nói và viết tiếng Khmer.
3.2/ Tín ngưỡng, tơn giáo
Đạo Phật gắn liền với đời sống tâm linh của đồng bào. Đối với người Khmer, theo
đạo Phật thì chùa có vị trí rất quan trọng, đó là nơi để sinh hoạt văn hóa cộng đồng, để
lưu trữ các nét văn hóa truyền thống của dân tộc họ,…
Về tôn giáo, người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng có những đặc điểm
riêng, bên cạnh Phật giáo Tiểu thừa giữ vị trí chi phối đời sống tinh thần, tâm linh,
đồng bào Khmer cịn ít nhiều ảnh hưởng của Đạo Bàlamơn.
3.3/ Lễ hội
Với nền văn hóa giàu bản sắc, được lưu truyền qua nhiều thế hệ và trong các nền
văn hóa ấy thì lễ hội của người Khmer gây một sức hút mạnh mẽ nhất với nhiều khía
cạnh khác nhau, đặc trưng riêng khác biệt với các dân tộc khác trên địa bàn.
3.3.1/ Tết cổ truyền Chol Chnam Thmay
Lễ Chol Chnam Thmey là Tết cổ truyền của người Khmer Nam Bộ, đó là những
ngày thật tưng bừng nhộn nhịp được diễn ra tại chùa và các phum sóc. Trong tiếng
Khmer, “Chol Chnam Thmay” có nghĩa là “Mừng năm mới”.
Chol Chnam Thmay diễn ra vào giữa tháng 4 dương lịch. Lúc ấy, bà con dù đi đâu
xa hoặc bận cơng việc làm ăn thì cũng đều về nhà, về phum sóc để dự lễ. Những ngày
ấy, người ta đến nhà nhau thăm hỏi sức khỏe, chúc gặp may mắn và sức khỏe. Cịn
trong từng gia đình, bao giờ cũng được trang trí đẹp mắt, dọn dẹp sạch sẽ. Người
người mua sắm lễ vật nhang đèn và hoa quả. Nhiều mâm lễ được đội vào chùa để làm
lễ đón năm mới.
3.3.2/ Lễ Ok Om Bok
Lễ Ok Om-bok được diễn ra vào đầu tháng 12 dương lịch hàng năm, với mục đích
tưởng nhớ và tạ ơn Mặt Trăng vốn được người Khmer Nam Bộ coi như một vị thần
vận hành mùa màng. Vào dịp này thì sự xuất hiện của món cốm dẹp cùng với các loại
6
củ, trái cây là điều bình thường. Trong những ngày này, thì đua ghe ngo, thả đèn
nước, đèn trời là những trị chơi khơng thể thiếu của người Khmer.
Đua ghe ngo tại tỉnh Sóc Trăng hằng năm (nguồn:internet)
3.3.3/ Lễ Dolta
Dolta được bà con Khmer Nam Bộ tổ chức vào ngày 29-8 âm lịch hằng năm, đây là
một ngày lễ thể hiện rất rõ nét văn hóa đặc trưng của đồng bào Khmer Nam Bộ.
Dolta còn được gọi là lễ cúng ông bà, tương tự như lễ Vu Lan của người Việt nên
còn được gọi là lễ “xá tội vong nhân”. Đây chính là dịp để mọi người tưởng nhớ cơng
ơn ông bà, cha mẹ và người thân, tạ ơn những người đã khuất và cầu phúc cho những
người đang sống.
3.4/ Nghệ thuật kiến trúc
Có thể nói ngơi chùa Khmer là sự kết hợp các sắc thái riêng của người Khmer.
Thông qua nghệ thuật kiến trúc xây dựng trên các ngôi chùa, người Khmer đã muốn
giữ gìn nét đẹp trong văn hóa tín ngưỡng Phật giáo Nam tơng cùng với tinh thần
hướng thiện đến cộng đồng.
3.5/ Nghệ thuật biểu diễn
Đối với người Khmer thì nghệ thuật biểu diễn là sản phẩm văn hóa tinh thần vừa
độc đáo, vừa mang tính thiêng liêng, vừa đáp ứng được nhu cầu tinh thần của họ sau
những giờ lao động mệt nhọc. Các loại hình biểu diễn này ra đời từ rất sớm và có
nhiều hình thái đặc biệt riêng, khác với các dân tộc khác. Hiện nay, người Khmer suy
trì ba hình thái chính là múa dân gian, múa tín ngưỡng và múa sân khấu.
7
Dù Kê là loại hình sân khấu dân gian của người Khmer, cịn có tên khác gọi là
“Lakhơn Bassắc” (nguồn: internet)
8
CHƯƠNG 3: VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ TẾT CỔ TRUYỀN CHOL CHNAM
THMAY
1/ Nguồn gốc
Được bắt nguồn từ một câu chuyện thời xa xưa: “Thuở xa xưa có một người tên là
Dhammabal Palakumar, ông là một người cực kỳ thông minh có thể trả lời tất cả
những câu hỏi cho dù là câu hỏi khó nhất. Đại Phạm Thiên MahaBrahma biết được rất
tức giận, một hôm ông xuất hiện trước mặt Dhammabal Palakumar và đưa ra 3 câu
hỏi cực kỳ khó, đó là “buổi sáng có thể tìm hạnh phúc ở đâu, buổi chiều và buổi tối
thì tìm ở đâu?”, MahaBrahma nói rằng nếu khơng trả lời được thì sẽ bị mình chặt đầu,
cịn nếu ơng trả lời được thì MahaBrahma sẽ tự chặt đầu mình. Dhammabal
Palakumar nghe xong rất buồn và đi vào rừng, đột nhiên ông nghe hai con chim đại
bàng nói với nhau rằng “vào buổi sáng hạnh phúc hiện diện ở trên mặt, buổi chiều ở
trên thân thể và buổi tối thì nằm ở đơi chân”, đây chính là nguồn gốc tập tục người
Khmer vào ngày tết dùng nước thơm để rửa mặt buổi sáng, tắm rửa thân thể vào buổi
chiều và rửa chân vào buổi tối. Ông trở về và đem câu trả lời đó đối đáp với
MahaBrahma, Đại Phạm Thiên chịu thua và phải tự chặt đầu mình. Đại Phạm Thiên
có 7 người con gái, sau khi tự cắt đầu mình, ơng đã giao cho người con gái thứ nhất
đặt vào tháp, từ đó về sau, mỗi năm một lần, đúng ngày MahaBrahma tự sát, bảy cô
con gái của thần xuống trần, vào tháp bưng đầu lâu bốn mặt của cha đến núi Tudi, đi
theo hướng mặt trời vòng quanh chân núi 3 lần trong 60 phút. Mỗi năm một cô gái
bưng một lần theo thứ tự ứng vào mỗi ngày trong tuần lễ. Ngày rước đầu lâu là ngày
thiên hạ thái bình nên đó cũng là ngày đầu năm mới của người Khmer.”
2/ Thời gian
Được tổ chức vào giữa tháng 4 dương lịch. Đây là thời điểm thu hoạch mùa màng
trong năm, sau một vụ mùa bội thu, người dân vui mừng hớn hở tạ ơn Phật đã phù hộ
và tổ chức hàng loạt các hoạt động vui chơi giải trí và cầu mong cho vụ mùa bội thu
trong năm tới. Theo lịch Chét của người Khmer thì ngày lễ này được tổ chức vào 3
ngày liên tiếp đó là: 14, 15, 16 tháng 4 Dương lịch nếu là năm nhuận thêm ngày 13-4
dương lịch.
3/ Ý nghĩa
Với ý nghĩa nhằm bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với tổ tiên và những người có
cơng cho đất nước. Trong dịp này thì mọi người thường sắm sửa đầy đủ lễ vật để
dâng cúng chư thần cùng những người đã khuất. Đây cũng là cơ hội để báo hiếu đến
bậc sinh thành… qua đó thì cầu mong những điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống đến
cho gia đình của mình.
9
CHƯƠNG 4: NÉT ĐẸP VĂN HÓA CỦA NGÀY TẾT CỔ TRUYỀN CHOL
CHNAM THMAY CỦA NGƯỜI KHMER
1/ Chuẩn bị đón tết
Để chuẩn bị đón tết của dân tộc mình, người Khmer chuẩn bị kĩ lưỡng khơng khác
gì đón tết Ngun Đán cùng với người Kinh và Hoa. Họ chuẩn bị trước đó cả nửa
tháng, trang trí dọn dẹp lại nhà cửa của mình. Ngồi việc dọn dẹp lại nhà của thì còn
sắm sửa quần áo là các loại bánh trái: bánh tét, bánh ít, bánh gừng, hoa quả, nhang
đèn để đem vào chùa dâng cúng Chư Phật, Chư Tăng, …
Các ngôi chùa- là nơi thờ cúng và sinh hoạt cộng đồng của người Khmer được trang
trí cờ hoa từ cổng vào đến tận bên trong sân chùa. Nhiều ngơi chùa cịn được sơn phết
lại chánh điện, hàng rào, cổng chùa và các tượng Phật nhiều màu sắc trông rất mới và
đẹp mắt.
Chùa Khmer được trang trí vào dịp tết Chol Chnam Thmay (nguồn: internet)
2/ Phong tục của ngày Tết Chol Chnam Thmay
2.1/ Thời khắc giao thừa
Các gia đình chuẩn bị cỗ, thắp hương và đốt đèn để cúng cho nàng tiên cũ đi về
trời, đón nàng tiên mới xuống dân gian. Các thành viên trong gia đình lúc này sẽ ngồi
ngay ngắn và xếp chân trước bàn thời để thành kính khấn vái.
2.2/ Thngay Chol Chnam Thmay – ngày đón năm mới
Ngày thứ hai này có thể tổ chức sớm hay muộn trong ngày, miễn là chọn đúng giờ
lành, giờ tốt. Theo quan niệm của người Khmer thì mọi người sẽ tắm gội, mặc quần
áo đẹp, mang các lễ vật, nhang đèn đến chùa dâng lên cho các vị sư Tăng và nghe các
sư Tăng chúc tụng cho năm mới. Dưới sự điều hành của ông Acha, mọi người sẽ xếp
hàng để đi vịng quanh chính điện 3 lần để làm lễ chào mừng năm mới. Khi tối đến, sẽ
tiếp tục nghe các vị sư Tăng tụng kinh cầu an năm mới, cầu cho “Quốc thái dân an”
và được hưởng 4 pháp của đức Phật là sống lâu, sắc đẹp, an vui và sức mạnh, rồi được
nghe các sư thuyết pháp về ý nghĩa của Chol Chnam Thmay. Đến tối thì mọi người
cũng thường lên chùa nghe tụng kinh cầu an và nhiều hoạt động vui chơi, múa hát
cũng được diễn ra sôi nổi ở chùa vào lúc này.
2.3/ Thngay Von-boch
10
Trong ngày này, mỗi gia đình đều làm lễ dâng cơm buổi sớm và buổi trưa cho các vị
sư sãi ở chùa. Trước khi ăn các sư sãi tụng kinh tạ ơn người làm vật thực. Vào buổi
chiều ngay tại khuôn viên các ngôi chùa Khmer, mọi người cùng làm lễ đắp núi cát,
cịn có tên gọi khác là Pn Phnơm Khsach với mục đích để cầu dun lành, cầu phúc
và cầu mưa. Đây là tục tập bắt nguồn từ một sự tích của một thợ săn bắn gắn với ma
thuật cầu mùa của người xưa. Núi cát là tượng trưng cho vũ trụ và cũng như những
đám mây mang mưa cho vụ mùa mới sau 5-6 tháng khô hạn.
Lễ đắp núi cát của người Khmer (nguồn: internet)
2.4/ Thngay Lơn-săk – ngày thêm tuổi
Đây chính là ngày chánh cũng là ngày cuối tết. Sau khi đã dâng cơm sáng cho các vị
sư Tăng ở chùa, người Khmer sẽ làm lễ tắm tượng Phật bằng nước có ướp hương
thơm, rồi sau đó tắm cho các vị sư cao niên ở chùa, nhằm rửa sạch hết cái cũ, những
bụi bặm của trần thế trong năm cũ, để bước sang năm mới với một thân thể sạch sẽ và
hoàn toàn mới. Kế tiếp đó là lễ cầu siêu thường gọi là Băng Skơl, lúc này các vị sư
Tăng được mời đến tháp lưu giữ hài cốt của những người quá cố để cầu kinh, mong
vong linh của họ sớm được siêu thoát. Đến trưa, mọi người về nhà để làm lễ tắm
tượng Phật thờ trong từng gia đình, để tỏ lịng tưởng nhớ và biết ơn đức Phật sau đó
dâng bánh chúc mừng ông bà cha mẹ và xin tha thứ những lỗi lầm, thiếu sót trong
năm cũ, để sang năm mới mọi người trong gia đình phấn đấu tốt hơn, cầu mong vạn
sự như ý.
3/ Các hoạt động chính trong ngày tết Chol Chnam Thmay
3.1/ Tắm Phật
Đây là nghi thức thường được các chùa tổ chức vào ngày đầu năm mới Tết Chol
Chnam Thmay. Các chư Tăng sẽ dùng nước thơm tinh khiết được làm ra bằng cách
ngâm các loại hoa tươi vào trong nước sạch. Trước khi thực hiện nghi thức này, các
chư Tăng trong chùa sẽ làm lễ bái Tam bảo và tụng kinh cầu nguyện, sau các nghi
thức lễ bái, chư Tăng của chùa sẽ múc nước thơm vào các bình bát và dùng những
cành hoa tươi nhúng vào để rải nước thơm lên các tượng Phật được bài trí trang trọng
trên các dãy bàn dài tại sân lớn của chùa. Điều đặc biệt ở nghi thức này là sẽ dùng
nước thơm để làm lễ tắm cho các vị sư cả, chư Tăng trong chùa sau khi kết thúc. Cuối
11
cùng sẽ làm lễ dâng cơm, cúng dường y phục mới cho các sư cả, chư Tăng trong
chùa.
Mục đích của nghi thức này để gột rửa những điều không may mắn, rủi ro trong
năm đã dính lên tượng Phật, và cũng nhằm mục đích thơng qua nghi thức này để đem
lại sự may mắn, hạnh phúc cho mọi người trong năm mới.
Lễ tắm Phật trong tết Chol Chnam Thmay (nguồn: internet)
3.2/ Đặt Bát
Đặt bát là gì? “Đặt” là để, “Bát” là vật chứa đựng thực phẩm, chứa đựng vật cúng
dường, “Đặt bát” có ý nghĩa là đặt thực phẩm hay vật cúng dường vào bát cho các chư
Tăng. Nghi thức cúng dường thực phẩm hoặc 4 món vật dụng cần thiết cho chư Tăng
đã trở thành một nghi lễ linh thiêng từ hơn 2000 năm nay, và đặc biệt quan trọng
trong ngày tết Chol Chnam Thmay cổ truyền của đồng bào dân tộc Khmer.
Sau khi các Phật tử “Đặt Bát”, chư Tăng sẽ dùng thực phẩm trong bát và cầu
nguyện phúc lành đến hương linh người nhà đã chết và cầu an đến gia đình người bố
thí được an lành hạnh phúc. Hoan hỷ cúng dường chư Tăng do phát tâm trong sạch
cúng dường lễ vật ít nhiều tùy khả năng để gieo giống lành dành cho mai sau.
3.3/ Văn nghệ chào mừng năm mới
Mỗi năm đến dịp tết Chol Chnam Thmay của đồng bào Khmer, chúng ta lại được
tận hưởng một khơng khí náo nhiệt và đầy sinh động. Những hoạt động mang đậm
bản sắc dân tộc tại các chùa chiền Phật giáo, các điệu múa cổ truyền như Răm Vông,
Lăm Leo, Saravan được đồng bào dân tộc Khmer tích cực gìn giữ và bảo tồn chính là
những việc làm cụ thể góp phần tích cực vào việc bảo tồn và phát huy truyền thống
văn hóa.
12
CHƯƠNG 5: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG VỀ
TẾT CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI KHMER
1/ Gắn kết cộng đồng
Tết cổ truyền Chol Chnam Thmay là một hình thức tín ngưỡng tơn giáo của cộng
đồng người Khmer Nam Bộ, giúp liên kết được mối quan hệ của các anh em dân tộc
khác cùng chung sống trên địa bàn Nam Bộ. Khi cùng hịa nhập trong khơng khí của
lễ tết, mọi cách biệt về xã hội thường ngày được xóa bỏ, mọi người cùng nhau đón
nhận và tiếp thu những giá trị văn hóa.
Ngày nay, đây khơng cồn là lễ hooji của người Khmer mà các dân tộc khác cũng có
thể tham gia trong dịp này, các dân tộc cùng nhau làm tăng thêm tinh thần đồn kết,
hịa chung khơng khí thiêng liêng của lễ hội.
2/ Bảo tồn và phát huy
Đây là một sinh hoạt văn hóa nghệ thuật của cộng đồng người Khmer, thể hiện được
sự trang nghiêm thành kính đối với tổ tiên. Những ngày này khơng đơn giản là những
ngày lễ tết bình thường nữa mà nó cịn có vai trị hết sức to lớn, giúp bảo lưu được các
phong tục tập quán, tái hiện lại nếp sống của người Khmer thời xa xưa.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, các hoạt động trong lễ hội cũng phát triển
theo thời gian và ẩn chứa trong mình nhiều nhược điểm, khó có thể hội nhập với xã
hội ngày nay, đầu tiên và sự tốn phí về thời gian, tiếp đó là tiền bạc vào ngày này quá
lớn. Nhằm mục đích bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống đặc sắc, đồng thời
đưa ra cách để gìn giữ những nét riêng biệt và độc đáo đó như khắc phục được những
nhược điểm phát sinh để tết cổ truyền Chol Chnam Thmay sẽ ngày càng hợp với xu
thế phát triển chung của xã hội.
13
KẾT LUẬN
Chol Chnam Thmay là nguồn cảm hứng, là động lực chủ yếu thúc giục người
Khmer sinh sống và làm việc hiệu quả hơn. Nó cịn là niềm mơ ước và khao khát một
cuộc sống tốt đẹp, một tương lai lí tưởng của người Khmer. Người Khmer lao động
quanh năm vất vả chỉ mong chờ đến ngày lễ này để được nghỉ ngơi, thư giản, thăm
viếng người thân, vun bồi tình cảm giữa người và người.
14
Tài liệu kham khảo
1. Xuân Khu – Hương Thảo, Rộn ràng Tết Chol Chnam Thmay
/>2. Thời Đại, Tết Khmer Chol Chnam Thmay 2019 vào ngày nào? Phong tục và ý
nghĩa.
/>_vao_ngay_nao_Ph111ng_tuc_va_y_nghia.aspx
3. Trần Chí Minh, Tết Chol Chnam Thmay của đồng bào Khmer
/>4. Trường Lưu, 1993, Văn hoá người Khmer ở ĐBSCL, Nxb Văn hoá Dân tộc.
5. Nhiều tác giả, 1994, Lễ hội truyền thống trong xã hội hiện đại, Nxb Khoa học Xã
hội.
6. Viện Văn hố, 1998, Tìm hiểu vốn văn hoá dân tộc Khmer Nam Bộ, Nxb Tổng
hợp An Giang.
7. Trần Ngọc Thêm, 1997, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
15