Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

TIỂU LUẬN HÁT RU Ở NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.56 KB, 17 trang )

~∞~∞~∞~

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: HÁT RU Ở NAM BỘ

Năm 2020


TIỂU LUẬN MƠN VĂN HĨA NAM BỘ
ĐỀ TÀI: HÁT RU Ở NAM BỘ

Năm 2020
1


MỤC LỤC
PHẦN TỔNG QUAN .............................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 3
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 4
3. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................ 4
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 4
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................. 4
Chương 1. Cơ sở lý luận và cớ sở thực tiễn .......................................................... 4
1. Cơ sở lý luận.................................................................................................. 4
1.1. Khái niệm Di sản văn hóa phi vật thể .................................................... 4
1.2. Khái niệm hát ru ..................................................................................... 5
2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................................. 5
2.1. Chủ thể văn hóa ...................................................................................... 5
2.2. Khơng gian văn hóa................................................................................ 6
2.3. Thời gian văn hóa ................................................................................... 6
Chương 2. Hát ru trong đời sống - chủ đề và nghệ thuật của hát ru Nam Bộ. ..... 6


1. Những chủ đề trong hát ru............................................................................. 6
1.1. Những câu hát ru về thiên nhiên, quê hương, đất nước ......................... 7
1.2. Hát ru - lời tự tình của người phụ nữ ..................................................... 8
2. Nghệ thuật hát ru Nam Bộ............................................................................. 9
2.1. Ngôn ngữ, giai điệu và yếu tố âm nhạc trong hát ru Nam Bộ .............. 9
2.2. Các biện pháp nghệ thuật của hát ru Nam bộ ...................................... 11
Chương 3. Giá trị, ý nghĩa và bảo tồn hát ru Nam Bộ ........................................ 12
1. Giá trị và ý nghĩa của hát ru Nam Bộ.......................................................... 12
1.1. Giá trị về văn hóa, nghệ thuật .............................................................. 12
1.2. Ý nghĩa giáo dục của hát ru.................................................................. 12
2. Thực trạng của hát ru Nam bộ hiện nay và phương hướng bảo tồn ........... 13
2.1. Thực trạng hát ru hiệ nay ..................................................................... 13
2.2. Bảo tồn hát ru Nam Bộ......................................................................... 13
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................ 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 16

2


PHẦN TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài
“Ầu ơ...Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo...gập ghình khó đi
Khó đi Mẹ dắt con đi
Con đi trường học.
Mẹ đi trường đời...”
Có lẽ từ những ngày đầu lọt lịng, câu hát ầu ơ ví dầu là thứ âm thanh trong trẻo
đầu tiên mà đứa trẻ nào cũng nghe thấy, đặc biệt là những người con Nam Bộ. Tiếng
ru ấy vỗ về trẻ con vào từng giấc ngủ đến khi trưởng thành vẫn cịn như văng vẳng
bên tai. Hát ru góp phần vào việc giáo dục nên nhân cách của một đứa trẻ, nó thổi

vào tâm hồn trẻ thơ những hình ảnh đẹp đẽ của q hương, của gia đình. Những
dịng sơng hiền hòa, cây tre đầu làng, cách diều những chiều êm ả, người mẹ hiều
từ, người bà tóc trắng như bà tiên, cánh võng đung đưa theo lời ru,..đã nuôi dưỡng
nên trí tưởng tượng phong phú, hình thành tình u gia đình, yêu quê hương, đất
nước của những đứa trẻ.
Nghệ thuật hát ru nói chung và những câu hát ru Nam Bộ nói riêng là một nét
đẹp truyền thống của dân tộc, một di sản văn hóa phi vật thể. Hát ru mang ý nghĩa
nhân văn to lớn và điều đó đã được áp dụng vào thực tế cuộc sống. Những câu hát
được lưu truyền và được cất lên qua bao thế hệ, là dòng chảy cảm xúc, mạch nguồn
của những tình cảm đầu đời, là bài học vỡ lịng về truyền thống hiếu thảo, đạo lý
uống nước nhớ nguồn, nhắc nhớ về nơi chôn rau cắt rốn của con người Nam Bộ.
Tuy nhiên trong cuộc sống hiện đại ngày nay, câu hát ru dường như khơng cịn
giữ được vị thế ban đầu của mình nữa. Trước sự xâm nhập của những dịng nhạc
nước ngồi, hát ru đang đứng trước nguy cơ bị lãng qn, địi hỏi mỗi người Việt
nói chung và người dân Nam Bộ nói riêng phải có ý thức giữ gìn, phát huy để tránh
bị mai một. Đó cũng chính là lý do tơi chọn hát ru Nam Bộ làm đề tài nghiên cứu

3


tiểu luận lần này như một cách để gợi nhớ về một nét đẹp văn hóa dân gian lâu đời
của dân tộc ta.
2. Mục đích nghiên cứu
Hát ru là văn hóa dân gian, là nét đẹp truyền thống quý báu của người dân Nam
Bộ. Chính vì thế, thơng qua đề tài “Hát ru ở Nam Bộ” ta có cơ hội để tìm hiểu về
nội dung, về giá trị, về những ý nghĩa nhân văn của câu hát ru. Đây cũng như là một
cỗ máy thời gian đưa ta về với “ầu ơ ví dầu...” được cất lên từ tiếng hát dịu êm của
mẹ, của bà.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu về nguồn gốc, nội dung, ý nghĩa, về giá trị của hát ru

Nam Bộ tư xưa đến nay trong đời sống tinh thần của người Việt nói chung và người
dân Nam Bộ nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận này được tiến hành thông qua các phương pháp thu thập tài liệu
từ các nguồn sách, cá nguồn thông tin trên internet, qua các video clip. Sau đó xem
xét lại và ghi chép, chắt lọc những thơng tin cần thiết. Cuối cùng là phân tích, tổng
hợp những thơng tin đó để đưa vào bài tiểu luận một cách phù hợp và khoa học nhất.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm Di sản văn hóa phi vật thể
Có thể nói, hát ru chính là một di sản văn hóa phi vật thể vơ cùng q báu của
dân tộc.

4


Theo những quy định chung của Luật di sản văn hóa số 28/2001/QH10 ngày
29 tháng 6 năm 2001 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2002,
được sửa đổi, bổ sung bởi:
Luật số 32/2009/QH12 ngày 18 tháng 6 năm 2009 của Quốc hội sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật di sản văn hóa, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2010. Thì:
“Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể và khơng gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức
khác.” (Luật Di sản văn hóa, Văn bản hợp nhất 10/VBHN-VPQH năm 2013 hợp
nhất


Luật

Di

sản

văn

hóa

do

Văn

phịng

Quốc

hội

ban

hành,

)
1.2. Khái niệm hát ru
Hát ru mang tính nhẹ nhàng, sâu lắng và gắn liền với giấc ngủ của mỗi đứa trẻ
con. “Hát ru là loại dân ca trữ tình truyền thống, phổ biến cả nước. Đó là những khúc
hát gần gũi, nhẹ nhàng, dễ hiểu được các bà, các mẹ, những người thân yêu cất lên
cùng với một vài cử động vỗ về của bàn tay hay cách quạt (ngày xưa quạt làm bằng

mo cau, hoặc quạt đan từ cây cọ) giúp trẻ con dễ đi vào giấc ngủ.” (Nguyễn Quốc,
Thương lắm hát ru, )
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Chủ thể văn hóa
Hát ru khơng chỉ đẹp ở câu hát mà còn đẹp ở người hát. Những câu hát ru đi
cùng năm tháng đã trải qua bao thế hệ, được truyền miệng từ bà sang mẹ, rồi mẹ
sang chị, chị lại hát em nghe. Nếu được sinh ra ở vùng quê, ta sẽ hiểu được người
dân trân trọng từng lời ru như thế nào, những người phụ nữ đặt tâm tư của mình vào
câu hát, gửi gắm vào đó tình cảm u thương, niềm hi vọng đối với con trẻ mai sau.
5


Những em bé nằm trên nôi, trên võng hay được mẹ ẵm bồng với câu hát ru vỗ
về vào giấc ngủ. Bé nằm ngoan ngoãn, đưa cặp mắt trong veo ngước nhìn mẹ, chốc
chốc lại nhoẻn miệng cười rồi dần dần theo câu hát à ơi mà lim dim đi vào mộng
đẹp. Những câu hát đó vừa có cơng dụng ru ngủ, vừa thấm nhuần vào trong tư tưởng
các em về hình ảnh tươi đẹp của thiên nhiên, của quê hương đất nước vừa đong đầy
tình thương của mẹ.
2.2. Khơng gian văn hóa
Nếu hỏi hát ru Nam Bộ thật sự phát triển ở đâu, thì làng quê đúng là nơi mà nó
mà thuộc về. Những câu ca dao về sơng nước miền Tây, về con đò nối hai bờ, những
lũy tre làng xanh mướt, những cánh đồng lúa trổ vàng,...là nguồn cảm hứng bất tận
cho thơ ca, trong đó có hát ru. Bên cạnh cải lương, hị, lý thì hát ru như một phần
không thể thiếu trong đời sống của mỗi con người Nam Bộ. Lời ru xuất hiện hàng
ngày là cách người mẹ vỗ về con vào giấc ngủ, cũng từ đó mà gửi đến con tình u
thương của mẹ.
2.3. Thời gian văn hóa
Khơng rõ hát ru ra đời cụ thể từ khi nào nhưng từ lâu nó đã tồn tại trong kí ức
của mỗi người con Nam Bộ. Hát ru là một loại hình dân ca mang bản sắc văn hóa
đặc trưng có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam. Từ bao đời nay, các bà mẹ Việt Nam

thường ru con ngủ trên những chiếc nôi, chiếc võng kẽo kẹt với những ca từ mộc
mạc, đời thường, chân thành được lưu truyền qua bao thế hệ bằng hình thức truyền
miệng. Trải qua thời gian, từ những câu thơ, câu ca dao được biến tấu thành câu hát,
lời ru vẫn được người dân bản xứ gìn giữ và lưu truyền xem đó là nguồn cội, gốc rễ
để dù mai này có rời xa quê hương, con người ta vẫn mãi nhớ về lời ru thân thương
thuở ban sơ ấy.
Chương 2. Hát ru trong đời sống - chủ đề và nghệ thuật của hát ru Nam Bộ
1. Những chủ đề trong hát ru

6


Làng quê vốn là cái nôi của hát ru Nam Bộ nên hiển nhiên trong câu hát sẽ xoay
quanh những cảnh vật của xóm làng quen thuộc, tình nghĩa giữa người với người,
với sơng nước hữu tình, với tiếng gà gáy buổi sáng sớm hoặc gần gũi hơn nhưng
cũng không kém phần thiêng liêng, cao cả đó là lời tự tình của người bà, người mẹ,
người chị được gửi gắm thông qua lời ru. Chủ đề của hát ru tuy là phong phú nhưng
khơng q cầu kì mà vơ cùng mộc mạc, dung dị và đầy tính trữ tình.
1.1. Những câu hát ru về thiên nhiên, quê hương, đất nước
Nếu là một người con Nam Bộ được sinh ra từ làng q thật sự, ta sẽ khơng xa
lạ gì khi nghe những lời ru bắt đầu bằng câu hát “Ầu ơ ví dầu...” du dương ngân dài,
sau đó là mấy vần thơ lục bát: “Trâu ơi ta bảo trâu này/ Trâu ra ngoài ruộng, trâu
cày với ta/ Cấy cày vốn nghiệp nông gia/ Ta đây trâu đấy ai mà quản cơng...” hay
là: “Ví dầu… ví dẩu… ví dâu. Ví qua… ví lại… ví trâu vơ chuồng…”, cịn có: “Ai
về sơng nước Cửu Long/ Mà nghe chim sáo sổ lồng sang sông/ Ai về hát lý cây
bông/ Mà nghe chim cú ngồi đồng kêu đêm.../ Ầu ơ ví dầu câu lý cịn thêm/ Mong
con ghi nhớ những đêm mẹ ví dầu...”. Những hình ảnh quen thuộc lần lượt xuất hiện
trong lời ru: “Ầu ơ...Gió đưa gió đẩy...về rẫy ăn cịng/ Về sông ăn cá...về đông ăn
cua...”


7


H2: Hình ảnh làng quê xuất hiện trong lời ru
Nguồn: />Mỗi một câu hát là một nét vẽ điểm tô vào bức tranh quê hương, đất nước qua
giọng ru êm ả của mẹ mà hình thành vào trong trí óc đứa trẻ những bức tranh về
khung cảnh xóm làng thân thương, dạy cho trẻ biết trân trọng cánh đồng lúa, biết
thương con trâu đi trước cái cày theo sau và quan trọng là biết yêu nơi chôn rau cắt
rốn của mình.
1.2. Hát ru - lời tự tình của người phụ nữ
Lời ru mộc mạc, chủ đề phong phú nhưng tình cảm thì dạt dào. Người mẹ dùng
lời ru để đưa con vào giấc ngủ và cũng mượn lời ru để khuyên dạy con những điều
hay lẽ phải, về cách sống, cách làm người hay cũng có thể mượn lời ru để thổ lộ tâm
tình thầm kín của mình, những tâm sự của một người mẹ, một người phụ nữ trước
con cái, thậm chí là trước thân phận.
Hát ru là bài học vỡ lòng về đạo lý làm người: “Ầu ơ...Con ơi muốn nên thân
người/ Hãy luôn nghe lấy những lời mẹ ru/ Làm trai cho đáng nên trai/ Xuống Đông,
Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên..”. Lời ru dạy cho con về đạo hiếu: “Ầu ơ...Công cha
như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính
cha/ Cho trịn chữ Hiếu mới là đạo con...Ầu ơ...”. Và đơi khi hát ru cịn là nỗi tâm
tư thầm kín của người phụ nữ ru con trong đêm gió mùa thu: “Gió mùa thu...mẹ ru
con ngủ/ Năm canh chầy...thức đủ vừa năm/ Hỡi chàng...chàng ơi!/ Hỡi
người...người ơi!/ Em nhớ tới chàng...Em nhớ tới chàng!/ Hãy nín! Nín đi con!/ Hãy
ngủ! Ngủ đi con!/ Con hời...Con hỡi.../ Con hỡi...Con hời...Hỡi con!...”

8


H1: Mẹ hát ru con ngủ
Nguồn: />Lời ru du dương chứa chan tình cảm của bà cho cháu, của mẹ cho con, của chị

cho em. Lời ru của những con người nhạy cảm và đầy tình yêu thương là khúc tự
tình chân thành và mộc mạc, dung dị nhất.
2. Nghệ thuật hát ru Nam Bộ
2.1. Ngôn ngữ, giai điệu và yếu tố âm nhạc trong hát ru Nam Bộ
Trải dọc khắp ba miền Tổ quốc, không nơi nào là không có hát ru và mỗi vùng
mỗi miền lại mang một nét đặc trưng riêng phản ánh qua câu hát ru con ngủ. Hát ru
ở miền Nam nói chung do chịu ảnh hưởng của vị trí địa lý, khí hậu, hồn cảnh sống,
tính cách con người mà ngơn từ cũng có sự khác biệt so với các vùng miền khác, có
phần đơn sơ, giản dị hơn, mang đậm nét Nam Bộ. Câu hát ru hay bắt đầu từ “Ầu ơ”
hoặc “Ví dầu” nghe thật bùi: “Ví dầu cá lóc nấu canh/ Bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho
thơm”. “Trong cái ngọt của hát ru Nam Bộ, đặc biệt là miền Tây Nam Bộ tốt lên
sự man mác, thiết tha, phóng khống, bao dung của các điệu lý - câu hị sơng nước
Cửu Long.” (Nguyễn Quốc, Thương lắm hát ru, ). Vì tính
chất vùng miền mà phát âm của người Nam Bộ - đặc biệt là đối với cư dân vùng
đồng bằng sông Cửu Long, họ không phát âm chuẩn âm “v” mà chệch đi thành âm

9


“d” như “ví dầu” thì hát thành “dí dầu”; “về” thành “dề” hay “dìa”; “vượn” thành
“dượn”… Dù vậy âm điệu của lời hát ru Nam Bộ rất rõ ràng, rõ nghĩa, trong sáng,
giàu thanh điệu.
Về mặt cấu trúc, nhìn chung, hát Ru con thì làn điệu bao giờ cũng gồm 3 phần:
Mở - Tiếp diễn - Đóng. Trong đó, phần Tiếp diễn chính là phần lời ca của làn điệu.
Lời ca hát ru con thông thường đều dùng thơ lục bát, đôi khi là lục bát biến thể - một
thể thơ dân dã, dễ làm, dễ thuộc. Ở đây, một cặp lục bát được xem là đơn vị tối thiểu
của phần Tiếp diễn. Phần Mở và Đóng là những câu đưa hơi mang tính đặc trưng
nhất. Bắc Bộ và Trung Bộ thì đưa hơi là “à ơi”. Riêng hát ru Nam Bộ thì đưa hơi
bằng tiếng “ầu ơ”. Chính vì vậy, ở nơi đây, người ta thường gọi làn điệu này bằng
cái tên - Hát Ầu ơ. “Tiếng đưa hơi mở đầu cho làn điệu, và khi muốn chia tách phần

lời ca (hoặc giả do chưa kịp nghĩ ra lời ca tiếp theo), người ta cũng hát đưa hơi tiếp
ngay sau câu bát. Khi đó, nó có giá trị như một đoạn chen, phân ngắt liên tục dạng
Mở - Tiếp diễn - Mở- Tiếp diễn - Mở - Tiếp diễn... Khi kết thúc làn điệu, nét đưa
hơi đó được xem là phần Đóng.” (Bùi Trọng Hiền, Hát ru con, ).
Hát ru con có cấu trúc co giãn tự do. Làn điệu kéo dài bao lâu, hoàn toàn tùy
thuộc vào dung lượng, vốn liếng lời ca của người hát và quan trọng là phụ thuộc vào
việc đứa bé đã ngủ hay chưa. Về mặt nhịp điệu tiếng hát ru con thuộc dạng nhịp đôi,
êm ả, đều đặn, dàn trải, phù hợp với nhịp đưa nôi, phù hợp với tâm sinh lý - tạo cảm
giác buồn ngủ. Những kiểu dạng nhịp điệu nghịch phách, đảo phách, giật cục lắt léo
tất nhiên sẽ là phản cảm trong bối cảnh này.
Giai điệu hát ru có âm vực khá hẹp, đủ để truyền tải lời ca, tạo một cảm giác
ổn định trong không gian co gọn. Đó cũng là một đặc điểm phù hợp sinh lý. Bởi để
ru ngủ, người ta không thể dùng những chuỗi giai điệu rộng mở, lên bổng xuống
trầm hào sảng. Mặt khác, lẽ tự nhiên của giọng người, khi càng lên cao thì người ta
thường phải cố hát to - gây cảm giác mạnh. Điều đó sẽ là khơng phù hợp với mục
đích ru trẻ ngủ. Ngồi ra, cũng cần phải thấy rằng, một tầm cữ âm vực hẹp như vậy

10


cũng là sự tương thích với tính bình dân của một làn điệu hát ru con, khiến cho ai ai
cũng có thể hát được dễ dàng.
Hát ru Nam Bộ mang làn điệu rất nhẹ nhàng, êm ái và ấm áp, nó được ví như
“dịng sữa mẹ ngọt ngào”, như con sơng q một chiều gió mát, như cánh đồng lúa
vàng mướt. Khi nghe hát ru, ta sẽ thấy bản thân như được ni sống bằng tình u
thương dạt dào của mẹ, đời sống tinh thần thêm tươi đẹp hơn, tâm hồn bay bổng hơn
và thêm yêu gia đình, quê hương, đất nước hơn.
Chính vì giai điệu du dương đó mà hát ru không chỉ là những câu hát ru con
đơn thuần nữa, nó cịn là một thể loại âm nhạc dân gian của dân tộc. Có thể nói hát
ru Nam Bộ hội tụ đủ các yếu tố của nghệ thuật âm nhạc chuyên nghiệp bằng các thủ

pháp nhắc lại, mô phỏng... để hồn chỉnh hình thức nhưng khơng rời xa đặc trưng
âm điệu, lề lối truyền thống. Đặc biệt là sự thể hiện rất hiệu quả nội dung và hình
tượng âm nhạc.
2.2. Các biện pháp nghệ thuật của hát ru Nam Bộ
Theo các nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian, trong các loại hình dân ca, hát ru
ra đời sớm nhất. Đó là những bài hát nhẹ nhàng được lấy từ ca dao, đồng dao, trích
từ các loại thơ... để giúp trẻ con dễ dàng đi vào giấc ngủ. Những loại thơ đó có thể
là lục bát, song thất lục bát, mang âm điệu dễ gần, dễ nghe, dễ nhớ và dễ hát theo.
Do vậy, những bài hát ru thường rất đa dạng và mang đậm bản sắc của từng địa
phương.
Vì sử dụng chủ yếu là thơ lục bát, nên cách gieo vần trong hát ru cũng tương
tự như thể thơ này. Trong hát ru Nam Bộ, ca từ thường sẽ xoay quay những nội dung
về quê hương, đất nước, tình mẫu tử, những nội dung gần gũi với đồng q, làng
xóm. Thậm chí là cịn mang nghệ thuật nhân hóa để lời ru thêm sinh động hơn: “Ầu
ơ...Chiều chiều quạ nói với diều/ Cù lao ơng Trưởng có nhiều cá tơm...” hay là: “Ầu
ơ...Con cị mà đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao/ Ầu ơ...Ông ơi, ơng
vớt tơi nao/ Tơi có lịng nào ơng hãy xáo măng/ Có xáo thì xáo nước trong/ Đừng

11


xáo nước đục đau lịng cị con...Ầu ơ...”. Chính vì thế có thể nói, hát ru mang tính
nghệ thuật rất cao.
Chương 3. Giá trị, ý nghĩa và bảo tồn hát ru Nam Bộ
1. Giá trị và ý nghĩa của hát ru Nam Bộ
1.1. Giá trị về văn hóa, nghệ thuật
Trong văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa dân gian nói riêng, hát ru là một
bộ phận vơ cùng quan trọng góp phần làm nên nét đẹp bản sắc văn hóa Việt, tiêu
biểu là hát ru Nam Bộ. Hát ru đã thể hiện được hồn cốt dân tộc, thông qua thể thơ
lục bát quen thuộc, qua những câu ca dao, những bài đồng dao cho trẻ thơ mà biến

tấu thành một thể loại âm nhạc dân gian gắn liền với đời sống của mỗi con người
Nam Bộ, trở thành thứ âm thanh đầu tiên mà bất cứ đứa trẻ nào khi lọt lịng cũng
được nghe thấy. Hát ru có một giá trị nhất định trong kho tàng văn chương bình dân
của đất nước Việt Nam mà lực lượng thể hiện là phụ nữ Việt. Hát ru là hình thức
diễn xướng quen thuộc của quê hương, được truyền từ đời này sang đời khác, từ thế
hệ này sang thế hệ khác, nhằm biểu hiện những trạng thái tình cảm của người phụ
nữ mà trẻ em là đối tượng trực tiếp được hưởng thụ, thưởng thức những giai điệu
ngọt ngào, đằm thắm, chan chứa niềm tin ấy. Vậy nên có thể khẳng định một điều
rằng hát ru nói chung và hát ru Nam Bộ nói riêng là tác phẩm nghệ thuật mang giá
trị văn hóa dân tộc cao đẹp.
1.2. Ý nghĩa giáo dục của hát ru
Như những gì đã nói ở trên, ta không thể nào phủ nhận rằng hát ru mang ý
nghĩa giáo dục rất cao. Ngoài việc thể hiện tâm tư tình cảm, thơng qua hát ru, người
ta cịn có thể nhắn nhủ con em mình những đạo lý tốt đẹp, hình thành nhân cách
ngay từ khi trẻ cịn nằm võng, nằm nơi. Trí tưởng tượng và khả năng tư duy của trẻ
thơ là vô cùng phong phú, khi nghe mẹ hát, trẻ sẽ mường tượng và hiểu được ý tứ,
nội dung những điều mẹ mà gửi gắm qua lời ru dù chúng còn rất bé. Lời ru như lời
dạy về tình yêu của con với mẹ, của người con Nam Bộ đối với xóm làng, của người

12


dân Việt Nam đối với quê hương đất nước, nhen nhóm trong tâm hồn non nớt của
trẻ niềm tin yêu với cuộc sống, lòng nhân nghĩa, lẽ làm người, cách đối nhân xử thế.
Những câu hát êm dịu mà sâu sắc dễ dàng đi vào lòng con trẻ những bài học của
trường đời mà mẹ hiện đã đi qua.
2. Thực trạng của hát ru Nam Bộ hiện nay và phương hướng bảo tồn
2.1. Thực trạng của hát ru hiện nay
Ngược lại với sự phát triển của xã hội thì rõ ràng, hát ru đã có sự mai một rõ
rệt, sự xâm nhập của các dịng nhạc nước ngồi, nhịp sống bận rộn hối hả đã khiến

các ông bố bà mẹ khơng cịn chọn hát ru là một biện pháp để vỗ về con trẻ vào giấc
ngủ nữa. Mà trẻ em ngày nay cũng chạy theo cơng nghệ, theo những dịng nhạc hiện
đại qua các băng, đĩa, điện thoại, máy tính chứ khơng cịn thích nghe hát ru như
trước. Đó khơng chỉ là nỗi trăn trở của những người làm công tác văn hóa, mà cịn
là nỗi lo của những nghệ nhân hát ru - những người nắm giữ tinh hoa của làng quê,
bởi với họ hát ru là một phần của nguồn cội, gốc rễ, là hơi thở của cuộc sống. Vì
vậy, gìn giữ lời hát ru đang là vấn đề trở nên cần thiết hơn bao giờ hết, bởi đây chính
là viên ngọc quý trong kho tàng văn nghệ dân gian của mỗi vùng quê, đặt biệt là
vùng quê Nam Bộ.
2.2. Bảo tồn hát ru Nam Bộ
Đứng trước nguy cơ bị mai một, những nghệ nhân hát ru chân chính đã cùng
nhau chung sức vực dậy truyền thống xưa cũ. Những câu lạc bộ về thơ ca hát ru
được thành lập, nghệ nhân đi giao lưu với nhau, tổ chức những buổi văn nghệ từ
mang tính thân mật đến quy mơ lớn về chủ đề hát ru, sau đó sưu tầm lại để từ đó hát
ru được “hồi sinh”, được biết đến rộng rãi và được sử dụng phổ biến hơn. Có những
quyển sách về hát ru được biên soạn vô cùng chi tiết và hấp dẫn đã đến tay nhiều
độc giả, những bài ca được hòa âm lại cho dễ nghe, dễ hát hơn nên độ lan truyền
cũng nhanh hơn. Thậm chí có nhiều người trẻ vì được truyền cảm hứng mà sẵn sàng
đi theo dòng nhạc dân gian này với mong muốn tìm về những kỉ niệm xưa cũ cũng

13


như khơi phục lại nét đẹp văn hóa lâu đời mà thế hệ trước đã có cơng gìn giữ và lưu
truyền.

H3: Giáo sư Trần Văn Khuê và nghệ sĩ hát ru Nam Bộ - Kim Nhụy.
Nguồn: Gia Tiến, />PHẦN KẾT LUẬN
Hát ru Nam Bộ với quá trình hình thành và phát triển lâu đời đã trở thành một
bộ phận không thể thiếu của văn nghệ dân gian và văn hóa Việt Nam, từng làn điệu

ầu ơ chính là lời tâm tình của mẹ, là tuổi thơ của con, là nét vẽ bay bổng trong bức
tranh làng quê Nam Bộ. Hát ru Nam Bộ mặc nhiên đã là một điệu hát tiêu biểu trong
kho tàng dân ca Nam Bộ nói riêng và dân ca Việt Nam nói chung, cần được bảo tồn
và phát huy như một vốn di sản quý báu góp phần tạo nên bản sắc cho truyền thống
âm nhạc của dân tộc. Như một bức tranh mang đậm dấu ấn riêng của dân tộc Việt,
nó tái tạo lại những kỷ niệm, những ký ức của cả một thời xa vắng. Nó chính là tiềm
thức của một tâm hồn dân tộc, thắp lên tình u thương đất nước trong lịng người
viễn xứ, giúp cho con người xác định và giữ gìn nguồn cội của mình, tránh được tình
trạng tha hóa về ý thức dân tộc, xa rời cộng đồng, quê hương. Mong sao dù bất cứ
không gian nào, thời gian, hoàn cảnh nào người phụ nữ Việt cũng khéo léo dạy dỗ
14


tuổi thơ con bằng những điệu hò ru của quê hương, xứ sở. Và những người mẹ Việt
Nam, bằng tình yêu đối với lời ru và với vốn văn hóa truyền thống của mình, sẽ cho
con trẻ được tắm mình trong ngọn nguồn ca dao đằm thắm, cho mai này con lớn
khôn sẽ trở thành nguời công dân gương mẫu, đạo đức, đóng góp cho xã hội nhiều
cơng ích thiết thực với nhân cách Việt Nam.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lư Nhất Vũ, Lê Giang, 2018, Hát ru Việt Nam, NXB Trẻ.
2. Luật Di sản văn hóa, Văn bản hợp nhất 10/VBHN-VPQH năm 2013 hợp nhất
Luật Di sản văn hóa do Văn phịng Quốc hội ban hành.
/>3. Bùi Trọng Hiền, Hát ru con.
/>4. dancanambolopc7.blogspot.com, Đời sống người Việt qua hát ru Nam Bộ.
/>5. dancanambolopc7.blogspot.com, Hát ru.
/>6. Nguyễn Quốc, Thương lắm hát ru.

/>7. nslide.com, Phân tích điệu hát ru con Nam Bộ.
/>8. Trần Lê Túy - Phượng, Dân ca nhạc Việt Nam – Hát ru con miền Nam.
/>9. Lê Giang, Hát ru trong ngôi nhà Nam Bộ.
/>10. hatru.net, Hát ru, con lớn lên từ ngọt ngào môi mẹ.
/>
16



×