BÀI TIỂU LUẬN
DANH TỪ RIÊNG QUA CA DAO TÂY NAM BỘ
Thành phố Hồ Chí Minh
Mục lục
Phần TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………..…2
2. Mục đích nghiên cứu đề tài……………………………………………...……...2
3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………………...2
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………..…3
5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu………………………………….….3
Phần NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn………………..……………………4
1.1. Cơ sở lý luận......................................................………………….……….4
1.2. Cơ sở thực tiễn............…………………………………………………….5
Chương 2: Danh từ riêng qua ca dao Tây Nam Bộ
2.1. Địa danh qua ca dao Tây Nam Bộ………………………………………...5
2.2. Những thủy danh.………………………………………………………….8
2.3. Sơn danh…………………….........……………………….........………….9
2.4. Nhân danh................................……………………………………..….…10
2.5. Danh từ riêng chỉ phương hướng, thời gian…………………......….……11
Chương 3: Một vài lí giải về cách đặt tên
3.1. Gắn với truyền thuyết dân gian………………………….........….........…12
3.2. Gắn với những sự kiện lịch sử………………….........………….........…..13
Phần KẾT LUẬN………………………………………………………………..14
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………..….……..15
1
Phần TỔNG QUAN
1/ Lý do chọn đề tài
Là người Việt Nam, ai mà chẳng từng nghe những câu ca dao ngọt ngào bằng
lời ru tha thiết của mẹ, của bà. Có người ví ca dao là Kinh thi của người Việt Nam.
Khơng biết sự ví von đó có chính xác khơng nhưng chắc chắn rằng ca dao Việt
Nam đã có từ ngàn xưa và là một bộ phận không thế thiếu trong đời sống tinh thần
người Việt. Cho dù ngày nay, với sự giao lưu văn hóa thì nhạc Âu Mỹ, nhạc Hàn
được phổ biển rộng khắp các phương tiện nghe nhìn nhưng những câu ca dao vẫn
len lõi ẩn sâu trong tâm hồn, tiềm thức người dân Việt.
Và hơn hết thảy, là một người con miền Tây yêu văn chương, tác giả khai thác đề
tài này nhằm tìm ra sự khéo léo, tinh tế của người bình dân Tây Nam Bộ khi “đính
kèm” những danh từ riêng vào lời ca dao của mình.
Nguồn:
/>
2/ Mục đích nghiên cứu đề tài
Thực hiện nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu cụ thể cách sử dụng lồng ghép những
danh từ riêng liên quan đến vùng đất, con người, cảnh quan sinh thái,... của người
miền Tây Nam Bộ qua ca dao.
3/ Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là về danh từ riêng trong ca dao Tây Nam Bộ.
2
4/ Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: nghiên cứu các tài liệu, lý luận
khác nhau. Từ đó, phân tích chúng thành từng bộ phận nhằm tìm hiểu sâu sắc về
đối tượng.
Tổng hợp: liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân tích tạo ra một
hệ thơng lý thuyết mới đầy đủ hơn đối tượng.
+ Phương pháp lịch sử: đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển của đối
tượng từ đó rút ra bản chất và quy luật.
+ Phương pháp logic: thông qua phương pháp nghiên cứu lịch sử, tác giả hệ
thống lại thông tin qua việc sử dụng phương pháp logic.
- Vận dụng kiến thức tích hợp liên ngành các ngành: Văn hóa học, Văn học, Xã hội
học, Nhân học, Địa lý học, Ngôn ngữ học,… và kiến thức thực tế đời sống.
-
Tìm kiếm tài liệu, tham khảo sách báo, chọn lọc các nguồn thông tin từ
internet.
Từ phương pháp cũng như các nguồn kiến thức trên, tác giả tiến hành nghiên cứu
đề tài.
5/ Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu
Đem đến một lượng thông tin nhất định về khía cạnh sử dụng danh từ riêng trong
ca dao Tây Nam Bộ.
3
Phần NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm “danh từ”
Danh từ: là những từ chỉ sự vật (người, vật, hiện tượng, khái niệm hoặc đơn
vị).
(Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam)
- Danh từ chỉ hiện tượng: nắng, mưa, sấm, chớp,…
- Danh từ chỉ khái niệm : đạo đức, kỹ năng, kinh nghiệm, cách mạng,…
- Danh từ chỉ đơn vị: ông, vị (vị giám đốc, vị vua,...), cái (cái bàn, cái ghế,...), bức
(bức tranh, bức thư,...), tấm, mét, lít, ki-lơ-gam, đàn (đàn gà, đàn bò,…),...
1.1.2. Khái niệm “danh từ riêng”
Khi phân loại danh từ tiếng Việt, trước hết, người ta phân chia thành hai loại: danh
từ riêng và danh từ chung.
Danh từ riêng: là tên riêng của một sự vật (tên người, tên địa phương, địa
danh,...). Danh từ riêng phải được viết hoa.
Ví dụ:
+ Tên người: Trần Văn Khê, Nguyễn Hữu Huân, Hồ Văn Nhánh, Lê Thị Hồng
Gấm,...
+ Tên địa phương: “Địa phương là vùng, khu vực trong quan hệ với trung ương,
với cả nước. Địa phương là một phần của lãnh thổ quốc gia. Địa phương được
chia thành nhiều cấp khác nhau. Địa phương có thể là tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; có thể là huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; có thể là xã,
phường, thị trấn.” Ví dụ: Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp, Châu Đốc,...
(Dẫn theo
/>px)
1.1.3. Khái niệm “ca dao”
4
Ca dao: là thơ ca dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát
không theo một điệu nhất định, thường phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ
thuộc. (Nguồn: />“Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó lịng khơng muốn về.”
1.2. Cơ sở thực tiễn
Vùng đất Tây Nam Bộ còn gọi là đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng
đất màu mỡ ở phía Tây Nam Việt Nam, do phù sa sơng Cửu Long bồi đắp. Miền
Tây Nam Bộ ở ngay bên trái của vùng Đơng Nam Bộ. Cịn lại giáp Campuchia ở
phía Bắc, giáp vịnh biển Thái Lan ở phía Tây và giáp biển Đơng ở phía Đơng
Nam.
Tây Nam Bộ bao gồm 13 tỉnh, thành phố là Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long,
Bến Tre, Đồng Tháp, Trà Vinh, An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc Liêu, Sóc
Trăng, Kiên Giang và Cà Mau.
ĐBSCL nằm trên địa hình bằng phẳng, mạng lưới sơng ngịi, kênh rạch phân
bố dày, rất thuận lợi phát triển cả giao thơng đường thủy và đường bộ. Ngồi ra với
bờ biển dài 700 km là nhân tố quan trọng để vùng này phát triển kinh tế biển, du
lịch, hàng hải và thương mại.
Ngồi ra, vùng ĐBSCL được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần
qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự hình
thành những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và
biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông, một số
giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích trũng thấp (như vùng Đồng Tháp
Mười, tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, Tây Nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau).
CHƯƠNG 2: DANH TỪ RIÊNG QUA CA DAO TÂY NAM BỘ
2.1. Địa danh qua ca dao Tây Nam Bộ
Danh từ là những từ chỉ người, sự vật, hiện tượng, khái niệm... Danh từ tiếng Việt
chia thành hai loại lớn là danh từ chỉ đơn vị và danh từ chỉ sự vật (Theo Sách giáo
khoa Ngữ văn 6, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2002). Trong lớp danh từ ấy, có
5
những danh từ riêng. Về hình thức, cách nhận diện đơn giản và dễ dàng nhất đối
với danh từ riêng là những chữ phải viết hoa theo chuẩn chính tả hiện hành.
“Ngó lên Châu Đốc, Vàm Nao,
Thấy buồm anh chạy như dao cắt lòng.”
Châu Đốc là một thị xã của tỉnh An Giang, Vàm Nao là một thủy danh nổi tiếng ở
nơi đây.
Các danh từ riêng dùng để chỉ, gọi các địa danh cũng xuất hiện với tần số khá cao
như:
“Kẹo Mỏ Cày năm đồng một ký
Đường Giồng Trôm một ký hai đồng.”
Giồng, mỏ là lớp danh từ dùng để chỉ địa danh căn cứ theo đặc điểm địa lý của
chúng. Đất giồng là nơi cao ráo, rộng lớn hơn vùng đất gị. Mỏ gợi người nghe liên
tưởng đến hình tượng một bộ phận của loài gia cầm.
Mỏ Cày và Giồng Trôm là hai địa danh thuộc tỉnh Bến Tre.
Cũng là những danh từ riêng chỉ địa danh nhưng đi vào lời thơ dân gian nó đã được
chuyển hóa thành tính từ một cách độc đáo, linh hoạt:
“Đèn Tầm Vu khi lu khi tỏ
Đèn Xẻo Mác ngọn đỏ ngọn xanh
Anh phải coi em cho rõ rành,
Cậy ơng mai tới nói cha mẹ đành thì em ưng.”
Địa danh Tầm Vu tại tỉnh Hậu Giang, nơi từng diễn ra 4 trận đánh lớn trong những
năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1948);
Xẻo Mác: một địa danh thuộc xã Hòa Tân, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.
Nơi đây có cây rau mác - một loại cỏ hoang, cọng ăn được, mọc dày đặc trên đồng
ruộng.
“Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho1 ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học mấy chữ Nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.”
6
(1) Mỹ Tho là một hành phố tỉnh lị thuộc tỉnh Tiền Giang. Tên gọi này bắt nguồn
từ tiếng Khmer srock mé sa, mi so, nghĩa là "xứ có người con gái nước da trắng."
Lịch sử hình thành của vùng đất này bắt nguồn từ khoảng thế kỷ 17, một nhóm
người Minh Hương di cư từ Trung Quốc đã được chúa Nguyễn cho về định cư tại
đây và lập nên Mỹ Tho đại phố.
“Ai về chợ Mỹ quê em
Mua ổi xá lị để mừng bà con
Ổi này hương vị rất ngon
Anh ơi ăn thử hỡi còn đợi chi.”
Mỹ cũng Mỹ Tho (1).
*
“Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc
Gió nào độc bằng gió Gị Cơng
Thổi ngọn đơng phong lạc vợ xa chồng,
Đêm nằm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi.”
Châu Đốc là một thị xã trực thuộc tỉnh An Giang, nằm ở đồng bằng sông Cửu
Long, sát biên giới Việt Nam với Campuchia.
Gị Cơng nay là tên một thị xã thuộc tỉnh Tiền Giang, giáp với thành phố Mỹ
Tho. Tỉnh Gò Cơng ngày xưa bao gồm thị xã Gị Cơng, huyện Gị Cơng Đơng và
huyện Gị Cơng Tây ngày nay. Gị Cơng Đơng và Gị Cơng Tây là vùng dun hải,
có hai cửa biển của sông Tiền: cửa Đại và cửa Tiểu. Tên gọi Gị Cơng xuất phát từ
việc vùng đất này trước đây có nhiều chim cơng (khổng tước), vì vậy tên Hán Việt
của Gị Cơng là Khổng Tước Ngun.m
“Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.”
Sài Gòn và Mỹ Tho, hai nơi cách nhau trên sáu chục cây số, nay tuy thật gần những
xưa thật xa,vì phương tiện di chuyển không đa dạng như ngày nay, chàng và nàng
7
dù đã yêu nhau nhưng đến thăm nhau chẳng dễ, đôi bên cùng bận làm ăn buôn bán,
nàng ở chợ Sài Gòn, chàng ở chợ Mỹ Tho. Nhớ nhung nhau, chỉ biết tin thư thăm
hỏi, lấy giấy thay lời. Chàng yêu nàng vì duyên, vì tình, tình yêu chân thật, đâu
thấy nàng giàu mà ham hoặc thấy nàng nghèo mà chê.
*
“Tháp Mười nước mặn, đồng chua
Nửa mùa nắng cháy nửa mùa nước dâng.”
*
“Muốn ăn bơng súng cá kho
Thì vơ Đồng Tháp ăn cho đã thèm.”
*
“Bạc Liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu.”
*
“Ai về Tân Phước, Rạch Già
Gởi con cá lóc, hái cà nấu canh.”
*
“Ở Hà Tiên mần ăn không khá
Anh về Rạch Giá anh bán cá mịi
Thương nhau khơng được ngỏ lời
Nước trơi thăm thẳm biết đời nào nên.”
Ngày xưa, Hà Tiên là lị sở của Hà Tiên Trấn, gồm Hà Tiên, Rạch Giá, Sóc Trăng,
Bạc Liêu và Cà Mau dưới thời chúa Nguyễn, nên rất phồn thịnh. Về sau, mất dần
vị trí hành chánh, Hà Tiên trở thành tỉnh, rồi nay thành quận/huyện. Công việc làm
ăn trở nên khó khăn, nên dân chúng phải đi nơi khác sinh sống.
2.2 Những thủy danh
Người bình dân miền Tây Nam Bộ dùng tên đất để chuyển hóa gọi tên các
phương tiện di chuyển như ghe, thuyền, gọi tên một vật dụng như đèn.
Sự chuyển hóa từ loại từ cơng dụng gọi tên sang chỉ tính chất, để phân biệt với ghe
khác, với đèn khác, cũng được người bình dân thực hiện một cách hồn hảo.
8
Chúng ta bắt gặp những câu ca:
“Đưa nhau về tới Rạch Chanh,
Muỗi mòng cắn nát cậy anh đưa về.”
Cái là một danh từ chung để chỉ các dịng sơng lớn nhưng ca dao đã chuyển từ
chung thành riêng, gọi sông Cái Chanh là tên một loài cây, chuyển vào tên đất rồi
gọi con sông nhỏ chạy ngang nơi ấy.
“Ngã tư Chợ Gạo nước hồi
Tui chồng mình vợ cịn ngồi trơng ai.”
Chợ Gạo là một danh từ để chỉ một chợ ở Tiền Giang, dần dà, địa danh ấy thành
tên một đơn vị hành chính. Và rồi nó lại được vận dụng vào để gọi một ngã tư ở
nơi ấy luôn. Sự đa dạng về mặt ngữ nghĩa đã được vận dụng tối đa và tác dụng của
nó cũng được phát huy hết mức.
Một hiện tượng rút ngắn lại địa danh để chỉ tên thủy danh:
“Chẻ tre bện sáo cho dày
Ngăn ngang sơng Mỹ có ngày gặp em.”
Địa danh Mỹ Tho, đoạn có con sơng Tiền chảy ngang, dân gian lấy tên đất đặt cho
tên sông, và khi vào ca dao, nó lược đi một âm tiết.
“Sơng Hàm Lng, sơng sâu bóng cả
Em thương anh nhiều mà chả dám theo
Thương anh đâu quản hiểm nghèo,
Ngặt vì một nỗi anh có con mèo theo sau.”
Sơng Hàm Lng là một trong chín nhánh sông Cửu Long đổ
về Biển Đông, thuộc địa phận tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh.
2.3. Sơn danh
Núi ở miền Tây Nam Bộ chỉ tập trung ở một phần của hai tỉnh Kiên Giang và An
Giang. Từ lâu, dãy Bảy Núi sừng sững như một tấm lá chắn hùng vĩ vùng biên giới
Tây Nam của Tổ quốc. Sơn danh này cũng kịp có mặt trong ca dao:
“Thất Sơn hịn dọc hịn ngang,
Nói sao cho xiết cả ngàn phong cương.”
Hay:
9
“Thất Sơn ai đắp mà cao
Sông Tiền, sông Hậu ai đào mà sâu”
*
“Thương em bảy núi cũng trèo
Ghét em núi Két vượt đèo cũng không”
Núi Két thuộc Thất Sơn.
2.4. Nhân danh qua ca dao Tây Nam Bộ
Tên người có thể là tên anh hùng lưu danh sử sách, cũng có thể là tên của
người đầu tiên đặt chân đến vùng đất mới khai phá, hoặc cũng có thể dân gian dựa
vào đặc điểm giàu có, hay chức tước của họ mà đặt nên. Từ đó, tên người đã hóa
thành tên đất.
“Cầu nào cao bằng cầu Tham Tướng
Gái nào sướng bằng gái Ninh Kiều.”
Chức danh tham tướng gắn liền với nhân vật Mạc Tứ Sanh - vốn dòng Mạc
Cửu theo chúa Nguyễn chống Tây Sơn và bỏ mình tại đây. Cầu Tham Tướng ngày
trước ở Cần Thơ, đường dẫn xuống Ninh Kiều, nay do sự phát triển của thành phố,
con rạch này đã được san lấp, cầu Tham Tướng giờ chỉ cịn trong kí ức những
người cao niên khi qua lại nơi này thôi.
Một nhân danh khác:
“Anh thương em gặp mặt em liền,
Tỉ như Lữ Bố, Điêu Thuyền thuở xưa.”
Lữ Bố, Điêu Thuyền là những nhân vật xuất hiện trong bộ truyện Tàu Tam Quốc
diễn nghĩa. Nó đi vào lời thơ dân gian như những điển tích.
Nhiều lúc một chức vị nào đó được hốn dụ chỉ tên người.
“Lầu nào cao bằng lầu ơng Chánh
Bánh nào trắng bằng bánh bị bơng
Đạo nào sâu bằng đạo vợ chồng
Anh đừng giở thói lng tuồng khó coi.”
Đơi khi là tên riêng nhưng tồn phím chỉ, gọi để đùa vui (chơi chữ cùng trường
nghĩa):
10
“Chị Hươu đi chợ Đồng Nai,
Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.”
2.5. Danh từ riêng chỉ phương hướng, thời gian
“Chim kêu ải Bắc, non Tần
Nửa phần thương mẹ, nửa phần thương anh.”
Nhiều lúc những danh từ chỉ phương hướng khơng được viết hoa, nó được coi như
một hướng chung. Ranh giới giữa danh từ chung và danh từ riêng này rất mập mờ.
“Tới đây xin ngỏ lời chào,
Chào Nam, chào Bắc chưa chắc chào ai
Chào người ngang vế, chào kẻ bằng vai
Ai có ân thâm nghĩa trọng lắng tai nghe em chào.”
Gần giống như các câu đã dẫn phía trên, cịn có hiện tượng dùng tên gọi của một
trong thập nhị chi để chỉ thời gian.
“Gặp em mới biết em cịn,
Năm Thìn bão lụt khóc mịn con ngươi.”
Trong lịch sử vùng đất Nam bộ này vào năm Giáp Thìn 1904 đã xảy ra bão lớn,
gây những thiệt hại không nhỏ, dần dần trong kí ức lưu truyền năm Thìn bão lụt
như một thành ngữ chỉ thời gian xa xăm trong quá khứ.
Phương hướng không chỉ dừng lại ở các danh từ Nam, Bắc, Đơng, Tây, nhiều khi
nó là tên gọi chỉ một dân tộc hay một quốc gia:
“Đu đủ bên Tàu trong xanh ngồi đỏ
Đu đủ bên mình trong đỏ ngoài xanh
Thương em đừng dỗ đừng dành
Như duyên Kim, Thủy đơi tình thuở xưa.”
Theo dân gian truyền gọi thì Tàu chỉ đất, chỉ người Trung Hoa. Song ca dao khơng
chỉ dừng ở đó, cũng như các hiện tượng địa danh nêu trên, nó chuyển hóa từ danh
từ sang tính từ để chỉ loại, phân biệt cho một danh từ khác.
“Chỉ tơ Tàu thiệt là quá chắc,
11
Kim bên Bắc mũi sắc dễ may?
Tưởng đâu anh với em gái nghĩa lâu dài,
Hay đâu trời xui đất khiến mỗi ngày một xa.”
Hay:
“Chim quyên ăn trái ổi Tàu,
Thương nhau bất luận giàu nghèo làm chi.”
Tơ Tàu để phân biệt với tơ Hàng Đào của nước Nam ta chẳng hạn, hay ổi Tàu khác
với một giống ổi nào đó.
Một trường hợp khác:
“Vịt Xiêm xuống tắm ao sen,
Trời ơi lâu quá gặp em một lần.”
Xiêm là tên mà người dân miệt Cửu Long dùng để gọi nước Thái Lan trước đây.
CHƯƠNG 3: MỘT VÀI LÍ GIẢI VỀ CÁCH ĐẶT TÊN
Ngồi việc đặt tên dựa vào đặc điểm địa lí, đặc điểm về sông, về núi, về người
hay đặc điểm về phương hướng, thời gian như đã nêu trên thì bên cạnh đó, cách đặt
tên trong ca dao của người miền Tây Nam Bộ còn mang một lớp nghĩa khác:
3.1. Gắn với truyền thuyết dân gian
“Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh,
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân.”
Cao Lãnh gắn liền với người làm chức câu đương. Khi đó nơi này xảy ra bệnh
dịch hoành hành dữ dội, người câu đương đứng ra lập đàn xin tội với trời “lãnh”
bệnh cho dân yên. Đại dịch đi qua nhưng hai vợ chồng người câu đương nọ phải
“ra đi” nên dân làng nhớ ơn lấy chức vị của người gọi tên cho đất. (Có thuyết khác
cho rằng người ấy không phải làm chức câu đương mà chỉ là một lão nông giăng
câu, vợ bán cá ngồi chợ, đứng ra “lãnh” bệnh thay dân.)
Hay nói đến tình bằng hữu thâm giao, tri âm, tri kỷ ta bắt gặp lời ca dao:
“Bá Nha vắng mặt Tử Kỳ,
Ơm đờm luống những sầu bi một mình.”
12
Bá Nha và Tử Kỳ là hai vật được lưu truyền từ thời Trung Quốc cổ đại. Nhắc đến
họ để gợi sự gắn kết của tình bạn.
3.2. Gắn với những sự kiện lịch sử
“Bần gie đóm đậu sáng ngời,
Rạch Gầm - Xồi Mút mn đời oai linh”
Trận Rạch Gầm - Xoài Mút là một trong những trận thủy chiến lừng lẫy nhất trong
lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta do Nguyễn Huệ chỉ huy, diệt quân Xiêm và
quân Nguyễn Ánh trong khởi nghĩa Tây Sơn (1771-1789).
Trận đánh diễn ra trên một đoạn sông Mỹ Tho vào lúc trời cịn chưa sáng, ánh lửa
đom đóm cịn lập lịe trên những cây bần ven sông nhô ra mặt nước như câu ca dao
bên trên diễn tả.
Hay:
“Gị Cơng anh dũng tuyệt vời,
Ơng Trương “đám lá tối trời” đánh Tây.”
Gị Cơng - một địa danh thuộc tỉnh Tiền Giang ngày nay, gắn liền với tên tuổi
người anh hùng Trương Định.
Ông Trương: Trương Định, Trương Công Định hoặc Trương Đăng Định, là võ
quan Triều Nguyễn, và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859 – 1864, trong lịch sử
Việt Nam. Năm 1863, Pháp đánh chiếm Gị Cơng. Trước sức giặc mạnh bạo với vũ
khí tối tân, lãnh tụ nghĩa quân Trương Định chọn đám lá tối trời làm nơi ẩn binh.
Từ đó dân gian truyền nhau câu ca dao trên.
13
Phần TỔNG KẾT
Ảnh: Sông nước miền Tây Nam Bộ
Nguồn: />Cũng như các vùng miền khác, theo bước chân người đi mở cõi thì lời ca, tiếng
hát, điệu hị, câu lý,… đặc biệt là cao dao, như hơi thở không thể thiếu trong sinh
hoạt của người bình dân, cụ thể ở đây là người miền Tây Nam Bộ.
Bên cạnh tên những địa danh có sẵn hay tên của những vị anh hùng thì số những
danh từ riêng qua ca dao Tây Nam Bộ cịn dựa vào đặc điểm của đất, sơng, rạch
chế thành tên gọi, rồi từ những danh từ riêng ấy chuyển thành các tính từ bổ trợ đi
kèm hết sức linh hoạt.
Thơng qua những lời ca dao ta có thể thấy được trí tuệ tuyệt vời của người bình
dân Tây Nam Bộ khi dùng nhiều điển xưa tích cũ làm sống động thêm đời sống
tinh thần của mình.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trương Thanh Hùng, 2016. Ca dao - Hò vè sưu tầm trên đất Kiên Giang. Nhà xuất
bản Khoa học Xã hội.
Trần Minh Thương, 2015. Ca dao Tây Nam Bộ dưới góc nhìn thể loại. Nhà xuất
bản Mỹ thuật.
Tục ngữ - ca dao - dân ca Việt Nam, 2012. Nhà xuất bản Văn học.
Ca dao Việt Nam.
/>Thư viện pháp luật/ Hỏi đáp pháp luật/ Bộ máy hành chính. Địa phương là gì?
/> />h-phap-luat.aspx)
Từ điển danh ngơn.
/> />n-tay-co-bao-nhieu-tinh-thanh-460.html#:~:text=Mi%E1%BB%81n%20T%C3%A
2y%20Nam%20B%E1%BB%99%20th%E1%BB%B1c,kho%E1%BA%A3ng%20
g%E1%BA%A7n%2040%20ngh%C3%ACn%20km2.
15