Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

TÍN NGƯỠNG THIÊN HẬU CỦA NGƯỜI HOA TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 21 trang )

*****

BÁO CÁO CUỐI KỲ

TÍN NGƯỠNG THIÊN HẬU CỦA NGƯỜI HOA
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Thành phố Hồ Chí Minh,


Mục lục
DẪN NHẬP .................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 3
2. Lịch sử nghiên cứu .......................................................................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................. 4
4. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................ 5
NỘI DUNG..................................................................................................................... 5
I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn. .................................................................................... 5
1. Cơ sở lý luận. ...................................................................................................... 5
2. Cơ sở thực tiễn. ................................................................................................... 6
II. Tổng quan tín ngưỡng Thiên Hậu. ............................................................................... 7
1. Q trình hình thành tín ngưỡng Thiên Hậu. ...................................................... 7
2. Q trình truyền bá tín ngưỡng Thiên Hậu đến Nam Bộ. ................................... 8
III. Hiện trạng tín ngưỡng Thiên Hậu ở Thành Phố Hồ Chí Minh ............................. 10
1. Khái quát về Thành phố Hồ Chí Minh .............................................................. 10
2. Kiến trúc nơi thờ tự bà Thiên Hậu .................................................................... 11
3. Nghi lễ thờ cúng, lễ hội ..................................................................................... 13
IV. Đặc trưng văn hóa tín ngưỡng Thiên Hậu tại thành phố Hồ Chí Minh. .............. 15
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 17
HÌNH ẢNH ............................................................................................................................ 17


TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... 21

2


DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Tín ngưỡng, tơn giáo đóng vai trị nhất định trong đời sống văn hóa của
mỗi khu vực, quốc gia, dân tộc. Do đặc điểm địa lý tự nhiên khác nhau dẫn tới
phong cách sinh hoạt của cư dân khác nhau, tín ngưỡng tơn giáo cũng khác
nhau, mang đặc trưng riêng của khu vực đó. Đi cùng với sự phát triển của xã hội
loài người là sự giao thoa văn hóa giữa các khu vực với nhau, chính sự giao
thoa đó đã làm cho văn hóa trở nên phong phú, đa dạng hơn.
Trong bức tranh đa dạng sắc màu văn hóa của vùng Nam Bộ, đặc biệt là
TP. Hồ Chí Minh nơi định cư và phát triển của một bộ phận lớn người Hoa
trong quá trình di dân, họ vừa phải biến đổi để thích ứng và hội nhập, vừa phải
bảo tồn để giữ hồn dân tộc và khẳng định bản sắc. Cộng đồng người hoa ở TP.
HCM đã đạt được những thành quả nhất định trong q trình ấy, tiêu biểu phải
kể đến tín ngưỡng Thiên Hậu trong kho tàng văn hóa dân gian.
Tín ngưỡng Thiên Hậu gốc Hoa Nam đã theo bước chân người Hoa di
dân đến Nam Bộ Việt Nam từ các thế kỉ 17, 18, 19, góp phần quan trọng, tạo
nên nét đặc trưng bản sắc văn hóa và sớm trở thành một phương thức giáo dục
đạo đức, lối sống hiệu quả và sâu sắc của người Hoa - một bộ phận của đại gia
đình các dân tộc Việt Nam. Trong q trình chung sống đã dẫn đến giao hịa,
chia sẽ và dung hợp văn hóa Hoa - Việt.
Thực hiện đề tài nhằm mang đến cho chúng ta có cái nhìn khách quan,
nhận diện được diện mạo, tính chất của quá trình văn hóa đa tộc người, cung
cấp tư liệu tham khảo bổ ích trong q trình tìm hiểu đời sống tín ngưỡng văn
hóa phong phú của người dân TP. Hồ Chí Minh. Hiểu sâu hơn về văn hóa của
cộng đồng người đang sống trên đất nước mình, để cùng nhau chung sống, giao

thoa – dung hợp văn hóa trong quá trình hội nhập.
Cùng với thời gian người Hoa đã trở thành một bộ phận quan trọng trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam, góp phần làm đa dạng, phong phú hơn nền văn
3


hóa đa dân tộc của TP.Hồ Chí Minh nói riêng và của Việt Nam nói chung. Tuy
nhiên cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu khoa học chuyên sâu nào về tín
ngưỡng Thiên Hậu tại khu vực này, nơi tập trung đông nhất của cộng đồng
người Hoa, nên mong rằng đề tài này sẽ mang đến một luồng gió mới mang
những kiến thức tiêu biểu về tín ngưỡng của người Việt gốc Hoa, thổi mát tâm
hồn con người Việt Nam để cùng nhau chung sống hòa thuận, dung hòa hơn
trong văn hóa.
Có lợi thế nghiên cứu khi thực hiện đề tài ngay trên chính mảnh đất mình
đang sinh sống sẽ dễ dàng trong việc tìm kiếm nguồn thơng tin, thực tiễn tại nơi
nghiên cứu. Cuối cùng tìm ra giá trị văn hóa được giao thoa.
Vì tất cả những lí do trên, nên tơi chọn Tín ngưỡng Thiên Hậu của người
Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh làm đề tài nghiên cứu của bài tiểu luận.

2. Lịch sử nghiên cứu
Có nhiều cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng Thiên Hậu nhưng đa số là
lối nghiên cứu vùng – khu vực, chưa tập chung vào một tỉnh thành cụ thể, chưa
nghiên cứu chuyên sâu để làm nổi bật các giá trị hiện thực văn hóa cụ thể của
từng tỉnh thành.
Nghiên cứu văn hóa của cộng đồng người Hoa cần được đặt ở góc nhìn
khác, mới mẻ hơn để dung hịa hơn trong văn hóa, thể hiện sinh động nhất tín
ngưỡng thờ Thiên Hậu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính trong bài tiểu luận này tín ngưỡng Thiên Hậu
của người Hoa đã di dân, định cư từ lâu tại TP. Hồ Chí Minh và bây giờ là

người Việt gốc Hoa giao lưu tiếp biến văn hóa với Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi TP. Hồ Chí Minh,
nghiên cứu theo trục thời gian từ khi du nhập, phát triển và truyền bán đến Việt
4


Nam. Nghiên cứu chủ yếu về mặt giá trị và mở rộng phạm vi ở mặt ảnh hưởng,
tìm hiểu về ý nghĩa của tín ngưỡng và ảnh hưởng của nó đến tâm thức người
Việt.
4. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài nhằm tìm hiểu rõ văn hóa tín ngưỡng của tộc người Hoa
Nam Bộ để các dân tộc cùng chung sống hòa hợp và giúp đỡ nhau phát triển
trên cùng một lãnh thổ. Nhận diện được đặc trưng văn hóa thể hiện qua lối sống
và phong tục của dân tộc.
Làm rõ nguồn gốc, quá trình giao thoa và phát triển của tín ngưỡng ở
Nam Bộ nói chung và TP. Hồ Chí Minh nói riêng, góp phần bảo tồn, phát huy
các giá trị văn hóa của quê hương, niềm tự hào dân tộc.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính tổng hợp nhiều nguồn tài liệu.
Cùng với đó là kết hợp các thao tác xử lí, phân tích dữ liệu tổng hợp. Chọn ra
những thơng tin phù hợp với đề tài để tiến hành nghiên cứu. Sau cùng sử dụng
phương pháp phỏng vấn tại chỗ và thực tế.

NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
Theo nghĩa từ nguyên, “tín ngưỡng” được ghép từ “tín” là đức tin, niềm
tin, xa hơn là sự trông cậy nhất định vào một đối tượng nào đó, cịn “ngưỡng” là
sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng. Theo thuật ngữ chung, “tín ngưỡng” được hiểu
nơm na là hệ thống giá trị niềm tin mang tính tâm linh được con người tạo ra

nhằm gửi gắm những ước vọng, mong muốn đến một đối tượng nào đó được

5


thần thánh hóa hay các thế lực siêu nhiên để được che chở tránh khỏi những tai
họa hay những nỗi sợ hãi đến từ thế giới khách quan.
Theo Trần Ngọc Thêm: “Đời sống mỗi cá nhân trong cộng đồng tuân
theo những phong tục lâu đời và khi trình độ hiểu biết cịn thấp, họ tơn sùng
những thần thánh do họ nghĩ ra (tín ngưỡng). Từ tự phát lên tự giác, tín ngưỡng
có thể trở thành tơn giáo”.
Cuốn Từ điển tơn giáo định nghĩa: “Tín ngưỡng là lịng tin và sự ngưỡng
mộ, ngưỡng vọng vào một lực lượng siêu nhiên, thần bí; lực lượng siêu nhiên
đó có thể mang hình thức biểu tượng là “trời”, “phật”, “chúa”, “thánh”, “thần”,
hay một sức mạnh hư ảo, huyền bí, vơ hình nào đó tác động đến đời sống tâm
linh của người ta, được con người tin là có thật và tơn thờ. Các tín ngưỡng dần
dần được hình thành và phát triển từ thấp đến cao là: tô tem giáo, ma thuật, bái
vật giáo, đa thần giáo, rồi đến các tơn giáo hồn chỉnh”.
Bà Thiên Hậu tương truyền là người hiển linh cứu giúp người đi biển nên
dân gian ví bà là một vị hải thần, về sau người Hoa còn thờ bà với chức năng
ban phát phúc lộc, bình an, thịnh vượng… vì thế tín ngưỡng Thiên Hậu đã
khơng ngừng phát triển và tiếp biến văn hóa với Việt Nam, một phần vì người
Việt gốc Hoa muốn hướng về cuội nguồn của mình vừa muốn dung hịa văn hóa
tại nơi mình sinh sống. Thể hiện đặc điểm và giá trị văn hóa qua tín ngưỡng
Thiên Hậu.
2. Cơ sở thực tiễn
Tín ngưỡng đóng vai trị nhất định trong đời sống văn hóa của mỗi con
người, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. TP. Hồ Chí Minh là một nơi hết sức đặc biệt,
tập chung nhiều thành phần dân tộc cùng lao động, cùng chung sống, là nơi giao
hịa, chia sẽ và dung hợp văn hóa từ nhiều nguồn gốc, trong đó có tín ngưỡng

thờ Thiên Hậu, một yếu tố quan trọng trong đời sống của người dân nơi đây.
Trong q trình di dân, tín ngưỡng Thiên Hậu của người Hoa đã không ngừng
giải kiến tạo một phần nội hàm và ý nghĩa biểu trưng của mình để trở nên tương
6


thích hơn với các cộng đồng tín ngưỡng mới, đảm bảo tính bề vững tín ngưỡng
dân gian và khẳng nhận bản sắc tộc người. Nhìn chung tín ngưỡng Thiên Hậu
vẫn không ngừng phát triển và trở thành một phần không thể thiếu của người
Hoa và người Việt, trở thành nét văn hóa tâm linh hết sức đặc biệt và thu hút du
khách từ mọi quốc gia đến tham quan.
II. Tổng quan tín ngưỡng Thiên Hậu
1. Q trình hình thành tín ngưỡng Thiên Hậu
Tín ngưỡng Ma Tổ - Thiên Hậu hình thành tại đảo Mi Châu, Bồ Điền,
Phúc Kiến vào thời Tống ở Trung Quốc. Bà tên thật là Lâm Mặc, thường gọi là
Lâm Mặc Nương, sinh ngày 23 tháng 3 năm 960. Năm 16 tuổi, Lâm Mặc
Nương lượm được 2 miếng “Đồng Phủ” ở dưới giếng nước và tập luyện theo,
nên trở thành có phép lạ, thơng minh, tháo vát, giúp dân vượt hoạn nạn và dạy
dân cách sống văn minh, thoát bệnh tật. Một ngày nọ bà ngủ trưa, thấy cha và
anh trai gặp bão biển, bà dùng năng lực đặc biệt cứu được anh trai. Trong khi
đang cố gắng cứu cha thì bà bị mẹ lay dậy nên khơng cứu được cha. Ngồi ra
Bà cịn dùng năng lực thần thánh của mình để cứu giúp dân, bao gồm dạy dân
dùng rong biển cứu đói, chữa bệnh cứu dân, hơ phong hốn vũ, treo chiếu làm
buồm, cảm hóa các vị ác thần là Thuận Phong Nhĩ và Thiên Lí Nhãn, giải trừ
Thủy tai – quái phong... Bà qua đời ngày 9 tháng 9 năm 987 ở tuổi 28, sau đó
Bà cũng thường xuất hiện ở hạ giới để giúp dân chài các khu vực miền biển
vượt qua tai ương gió bão. Người đời tin rằng bà là con gái Ngọc Hoàng nên sau
khi Bà mất liền cho dựng miếu thờ, gọi là miếu Ma Tổ.
Đến năm 1086, nhà Nam Tống chính thức cổ xúy cho tín ngưỡng này,
nhờ vậy phạm vi ảnh hưởng càng ngày càng mở rộng. Đến thời Nguyên, Ma Tổ

được phong làm Thiên phi (năm 1354), từ đó tín ngưỡng Ma Tổ phát triển lên
vùng hạ lưu Dương Tử, bán đảo Sơn Đông. Từ thời Minh trở về sau do nhu cầu
giao thương hàng hải với khu vực Đơng Nam Á, tín ngưỡng này truyền bá
xuống Lĩnh Nam, Đài Loan và Đông Nam Á. Đời Thanh Khang Hy 1682, Bà
7


được gia phong Thiên Hậu Thánh mẫu. Tên gọi đặc khu hành chính Macau
được cho là bắt nguồn từ danh từ “Ma Các” (3 lầy = miếu Ma Tổ). Cuốn Ma Tổ
Cung Tập Thành ghi chép tại Trung Quốc có hơn 450 huyện, thị, thành phố có
miếu Thiên hậu. Người Mân Nam (nam Phúc Kiến) và Hải Nam thích gọi bà là
Đại Mẫu hoặc Ma Tổ, người Quảng Đông gọi là Đức Bà hay Thiên Hậu.
Tín ngưỡng Thiên Hậu tại Trung Quốc trải qua gần 1000 năm lịch sử, tồn
tại trong mối dung hòa với Đạo giáo, Phật giáo và quan hệ thỏa hiệp với Nho
giáo, góp phần tạo nên diện mạo văn hóa Hoa Nam rất đặc sắc kéo dài cho đến
hiện tại. Song xét về bản chất, tục thờ này cơ bản vẫn là tín ngưỡng dân gian,
mang đầy đủ các đặc trưng truyền thống của dòng văn hóa dân gian phương
Nam gần gũi, giản dị. Ở một phương diện nào đó, người Nam Trung Hoa dùng
tín ngưỡng Thiên Hậu cùng với các tín ngưỡng thờ Mẫu khác làm đối trọng với
kiểu văn hóa quan phương “nam tơn nữ ti” phương Bắc (Nguyễn Ngọc Thơ
2011). Điều đó có nghĩa là tín ngưỡng Thiên Hậu thấm đẫm các đặc trưng văn
hóa phương Nam, đặc biệt và văn hóa Mân Nam.
Người Trung Quốc và Đài Loan thờ Thiên Hậu, coi bà là thủy - hải thần,
là nữ thần hộ mệnh, nữ thần sinh sôi, nữ thần khai sơn … thi thoảng đồng nhất
với Quan âm trong Phật giáo, Tây vương Thánh mẫu trong Đạo giáo, với Lâm
Thủy phu nhân, Kim Hoa phu nhân trong tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Hoa Nam.
Thời Thanh các huyện, phủ ở Đài Loan đều cho xây miếu Ma Tổ, trong tâm
thức của cư dân Đài Loan, Ma Tổ là vị nữ thần biển có gương mặt đen và hết
sức linh thiêng.


2. Quá trình truyền bá tín ngưỡng Thiên Hậu đến Nam Bộ
Tín ngưỡng Thiên Hậu từ phía đơng nam Trung Hoa được truyền vào
Việt Nam thơng qua con đường giao lưu văn hóa, chủ yếu là do thương dân và
di dân người Hoa đến Việt Nam theo đường biển. Du nhập vào Nam Bộ Việt
Nam vào thời Minh – Thanh, đặc biệt vào cuối thời Minh đầu thời Thanh. Đợt
một khoảng thập niên 1660, có khoảng 7000 người Hoa Nam do Dương Ngạn
8


Địch và Trần Thượng Xuyên (người Quảng Đông) dẫn đầu vào định cư tại
Đồng Nai, Để Ngạn (Chợ Lớn) và Mỹ Tho. Đợt thứ 2 do Mạc Cửu dẫn đầu khai
phá đất Hà Tiên, sau phát triển dần xuống bán đảo Cà Mau. Từ cuối thế kỷ 17
cho đến đầu thế kỷ 20, nhiều dòng di dân người Hoa người tiếp tục đến vùng
Nam Bộ, đặc biệt vào cuối thế kỷ 19, Việt Nam làm thuộc địa của Pháp, các
hiệp ước Pháp – Thanh năm 1885 và 1886 đã mở ra nhiều cơ hội để người Hoa
di dân đến Việt Nam. Từ đó trở đi, đồng bào người Hoa đã chung sống chan hòa
cùng các cộng đồng bản địa gồm Việt, Khmer và Chăm, cũng tạo dựng văn hóa
Nam Bộ. Hiện tại tồn Nam Bộ có khoảng 800.000 người dân tộc Hoa (2009),
phân thành 5 nhóm dân Quảng Đơng, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và
Khách Gia (còn gọi là Hẹ). Người Quảng Đông tập trung chủ yếu ở Tp. Hồ Chí
Minh, Đơng Nam Bộ và một số thành phố, thị xã lớn ở Tây Nam Bộ; người
Triều Châu cư trú nhiều nhất ở bán đảo Cà Mau (Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà
Mau); người Phúc Kiến sinh sống rải rác ở hai bên sơng Tiền, sơng Hậu và khu
vực Bình Dương, Đồng Nai; người Hải Nam và người Khách Gia định cư rải
rác khắp vùng miền. Ban đầu cả 5 hệ dân cùng phối hợp nhau dựng các Thất
phủ cổ miếu (Cù lao Phố, TP. Hồ Chí Minh, Mỹ Tho, Vĩnh Long… ) chủ yếu
thờ Thiên Hậu, Quan Công, nhưng sau từng nhóm tách riêng tự xây cất các
miếu cho riêng mình.
Trên đường đi biển, họ thường cầu nguyện Bả hiển linh hỗ trợ. Khi định
cư được bình an tại vùng Nam Bộ, di dân lập miếu trang trọng thờ Bà, ngưỡng

vọng và thờ tự Bà với tấm lòng biết ơn đã giúp đỡ họ được “thuận buồm xi
gió”. Theo dòng di dân đến khắp nơi ở Nam Bộ, miếu Thiên Hậu cũng được
dựng lên. Về sau, người Hoa còn thờ Bà thêm chức năng bảo an, ban phát phúc
lộc, thịnh vượng, đặc biệt là hộ mệnh cho trẻ sơ sinh. Chính vì thế rải rác ở các
thị tứ, thị trấn, thành phố tại vùng đất Nam Bộ đều có miếu Thiên Hậu với nhiều
tên gọi Chùa Bà, Chùa Thiên Hậu, Thiên Hậu Cung hay miếu Thiên Hậu. Vùng
Bạc Liêu, Cà Mau còn gọi Thiên Hậu là Mã Châu, do vậy miếu Thiên Hậu còn
gọi là Chùa Bà Mã Châu. Vùng Sóc Trăng cũng gọi là Ma Tổ, phong cách tác
9


tượng thờ mang nét ảnh hưởng từ Macau vả Đài Loan, Ma Tổ gương mặt đen
với tay cầm lệnh bài đưa ngang vai.

III. Hiện trạng tín ngưỡng Thiên Hậu ở Thành Phố Hồ Chí Minh
1. Khái quát về Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí địa lý phía bắc giáp tỉnh Bình Dương,
tây bắc giáp tỉnh Tây Ninh, đông và đông bắc giáp tỉnh Đồng Nai, đông nam
giáp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tây và tây nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.
Nằm ở ngã tư quốc tế giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Đông
sang Tây, trung tâm thành phố cách bờ biển đông 50km đường chim bay. Đây là
thành phố lớn nhất nước ta về dân số, mức độ đơ thị hóa và kinh tế. Khi Pháp
vào Đơng Dương, thành phố Sài Gịn được thành lập và nhanh chóng phát triển.
Ngày 2/7/1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên thành
“Thành phố Hồ Chí Minh”. Thành phố hiện gồm 19 quận và 5 huyện, là nơi tập
trung đa dạng tất cả các tộc người, có 54 dân tộc anh em sinh sống, nhưng tiêu
biểu nhất là: Kinh, hoa.
Tụ điểm người Hoa đầu tiên xuất hiện ở thành phố Hồ Chí Minh là quận
5,6 và một phần quận 11, được hình thành cuối thế kỉ XVIII. Nhóm người Hoa
đến đây sớm nhất là người Hoa gốc Minh Hương ở chợ lớn, người Hoa ở thành

phố này chủ yếu tập trung quận 5, 11 hoặc xen kẽ với các tộc người khác.
Người Hoa ở TP. Hồ Chí Minh có đủ năm nhóm địa phương: Quảng Đơng,
Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam và Hẹ. Ở thành phố Hồ Chí Minh cũng như
trên cả nước ta, nhóm hoa gốc Quảng Đông chiếm tỉ lệ lớn nhất và đây cũng là
địa bàn có người Hoa sinh sống nhiều nhất, chiếm 50% số người Hoa của cả
nước và 90% số người Hoa ở toàn Nam Bộ. Họ đã phải vượt biển cả mênh
mông để đến được vùng đất mới và họ mang theo tín ngưỡng Thiên Hậu – Nữ
thần biển để được che trở khỏi sóng to gió lớn để đến bến bờ bình yên, qua gần
300 năm tồn tại cuộc sống của người Hoa trên vùng đất mới đã ổn định, họ làm

10


thương mại, dịch vụ, trở nên giàu có và họ nghĩ rằng Thiên Hậu là một vị phúc
thần, vị thánh mẫu ban phát phúc lành, thịnh vượng và sung túc hơn là một vị
hải thần, do vậy việc tiếp tục thờ hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng đời sống
văn hóa tâm linh. Và người Hoa cịn mang theo tín ngưỡng của mình đến vùng
đất mới với mong muốn nhớ về cuội nguồn, an ủi tâm hồn của họ khi xa quê
hương. Nên ở tp. Hồ Chí Minh - nơi tập trung đơng nhất người Việt gốc Hoa,
tín ngưỡng Thiên Hậu rất phát triển.
Trên địa bàn TP. HCM hiện nay có 13 miếu thờ Thiên Hậu, hầu hết các
miếu đều được xây dựng từ thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX, đúng vào các cao
trào di cư. Các chùa ngày nay tồn tại ở TP. HCM gồm có: Miếu Tuệ Thành (
710 Nguyễn Trãi, Q.5); Hà Chương (802 Nguyễn Trãi, Q.5); Quỳnh Phủ (276
Trần Hưng Đạo, Q.5); Tam Sơn hội quán ( 116 Triệu Quang Phục, Q.5); Quần
Tân hội quán ( 2 Lý Thường Kiệt, Gò Vấp); Miếu Thiên Hậu hội quán Quảng
Triệu (132 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.3); Miếu Xóm Chiếu (Q.4); Hội quán
Quảng Triệu (122 Đại lộ Đông Tây, Q.1); Miếu Thiên Hậu chợ Quán; Miếu
Thiên Hậu số 21 Lê Trực (Bình Thạnh); Miếu Thiên Hậu Cần Thạnh (Cần Giờ);
Chùa Bà Thiên Hậu Trung Đông (Thới Tam Thơn, Hóc Mơn). Hiện nay các

ngơi chùa vẫn được tồn tại và ngày càng phát triển, điều đó cho thấy tục thờ Bà
Thiên Hậu là một phần không thể thiếu của trong văn hóa, trong đời sống tín
ngưỡng của người dân nơi đây.

2. Kiến trúc nơi thờ tự bà Thiên Hậu
Nếu ở Trung Quốc Thiên Hậu được thờ trong cung, miếu thì khi sang
Việt Nam, Bà được thờ trong các hội qn, cung, miếu, đình, đền, chùa. Nhóm
tác giả Phan An gọi tất cả các cơ sở tín ngưỡng tơn giáo của người Hoa ở TP.
HCM là “chùa” và cho rằng: “Thông thường các chùa Hoa được xây dựng theo
chữ quốc hoặc khẩu, cũng có người gọi là hình trái ấn” (Phan An Cb (1990),
sđd, t.14). Theo ông, không gian của chùa bao gồm các phần chủ yếu là: sân
chùa, cổng/cửa chùa, tiền điện, trung điện, chính điện, sân thiên tỉnh và các gian
11


nhà phụ…được xây dựng theo lối tam quan. Sân thiên tỉnh nằm giữa các gian
điện và là khoảng không gian khơng có mái che. Tuy nhiên, khơng phải tất cả
các chùa hoa đều có đầy đủ các phần cấu trúc trên mà họ có thể lược bớt hay thu
nhỏ một vài chi tiết do địa thế hạn hẹp. Điểm nổi bật của chùa Hoa là hình dáng
bên ngồi độc đáo, đặc biệt là mái chùa lợp ngói âm dương với cách tạo hình và
trang trí rất đặc sắc, người ta gọi đó là đặc trưng của chùa Hoa. Các cơ sở tín
ngưỡng của người Hoa đều quay về hướng nam, theo quan niệm của triết học
Trung Quốc là để “đón lấy cảnh sắc và ánh sáng mặt trời”, tượng trưng cho sự
trong sáng, đẹp đẽ. Các cơ sở thờ tự ở nước ta phần lớn đều quay về hướng
nam, tuy nhiên khi điều kiện không cho phép theo khuôn mẫu, người Hoa đã
linh động điều chỉnh hướng của cơ sở tín ngưỡng, có thể chếch đi một chút,
thậm chí chấp nhận cả hướng tây. Tuy nhiên họ có thể sử dụng một vài thuật
phong thủy khác để khắc phục việc lệch hướng này.
Đối với đồng bào người Hoa, nơi thờ tự Thiên Hậu được coi là “ngôi nhà
chung”, do vậy đa số thường được xây dựng rất bề thế, trang trí cơng phu.

Trong số các loại hình kiến trúc thờ Thiên Hậu (hội quán, cung, miếu, đình,
đền, chùa) thì hội quán là kiểu kiến trúc thể hiện rõ nhất những đặc điểm của
kiến trúc chùa Hoa. Trong số những kiến trúc nổi tiếng, không thể không kể đến
Tuệ Thành Hội Quán (hay còn gọi là chùa Bà Thiên Hậu) tọa lạc tại số 710
Nguyễn Trãi, Quận 5, TP. HCM. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất của
người Hoa được xây dựng vào thế kỉ XVIII bởi chính người Hoa xây dựng, họ
đã cố gắng xây dựng giống như nguyên mẫu ở quê gốc. Chùa được xây dựng
theo lối kiến trúc chùa chiền đặc trưng của người Hoa, mang đậm phong cách Á
Đông với lối kiến trúc tam quan, cách điệu với cửa vào ở chính giữa và hai hành
lang hai bên, chùa được chia làm ba nơi chính: Tiền điện, Trung điện và Chính
điện với những gian thờ những vị thần linh trong lịch sử Trung Quốc. Phần kiến
trúc chính giữa suốt cả chiều dọc ngơi chùa là nơi tơn nghiêm giành cho các
hoạt động tín ngưỡng, ở giữa lịng của phần kiến trúc này có khoảng khơng như
giếng trời vừa để lấy ánh sáng, khí trời, vừa làm lối thốt cho khói nhang bay
12


lên cao. Dọc theo phần kiến trúc chính là hai lối đi phân cách, tạo sự thơng
thống để mọi người dễ dàng di chuyển vào những ngày đông người đến viếng
đặc biệt là vào ngày rằm. Phần mái cũng được trang trí bằng nhiều bức tượng đa
dạng hình thù và kích thước. Dù vậy tất cả đều hài hịa và đẹp mắt, ngắm kĩ
từng đường nét bạn sẽ thấy được sự tinh tế và kì cơng, nể phục tâm huyết và tài
năng của họ. Điểm nhấn của ngơi chùa chính là toàn bộ vật liệu được nhập từ
Trung Quốc, từ những cây gỗ quý đến bát lư hương, từ những bức phù điêu đến
phần tượng nhỏ… làm cho ngôi chùa có giá trị cao về mặt tinh thần và mỹ
thuật, thu hút đơng đảo du khách trong và ngồi nước đến tham quan.

3. Nghi lễ thờ cúng, lễ hội
Nghi thức thờ cúng là phương tiện, cầu nối để con người giao tiếp với
thần linh. Thơng qua trình tự thờ cúng, cũng như lễ vật cúng tế, bài văn tế, con

người thể hiện sự tơn kính, ca ngợi cơng đức vị thần mình thờ phụng. Hoạt động
này thường diễn ra trong không gian kiến trúc thờ tự.
Mỗi dịp tết đến, các dịp lễ như Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu hoặc
vào các ngày mùng 1, ngày rằm hàng tháng người dân cũng như người du lich
thường nô nức tới chùa Bà Thiên Hậu để cầu mong phù hộ cho sự an lành, bình
n, đặc biệt là vào lễ vía Bà số lượng khách đến chùa là đông đúc nhất. Hàng
năm, hầu hết các miếu Thiên Hậu đều mở hội vía Bà trong tháng ba, lễ vía
chính thường được diễn ra trong hai ngày 22 và 23 tháng 3 âm lịch, vào ngày
này bà con người Hoa hay người Việt đều đến cúng lễ rất đông. Ngày nay đám
rước Bà Thiên Hậu trên đường phố đã được giảm đi, chỉ còn tổ chức ở khuôn
viên nhà chùa, phần lớn là do đường phố chật hẹp, người dân đông đúc.
Để chuẩn bị cho ngày lễ vía bà, từ ngày trước đó Ban quản trị nhà chùa
đã tổ chức trang hoàng, sửa sang lại bên trong nội thất và chang đèn kết hoa ở
bên ngoài. Ngay từ chiều 22 tháng 3, Ban quý tế tổ chức lễ cúng. Lễ vật cúng
bao gồm lợn quay, gà, ngỗng cùng các loại hoa quả, bánh trái. Sau lời khấn khai
mạc của vị chánh tế, người phụ nữ đọc bản văn viết sẵn bằng tiếng Trung Hoa
13


ca ngợi cơng đức của Bà, nay nhân ngày vía Bà, mọi người xin tỏ lòng biết ơn
chân thành và mong sao Bà phù hộ cho mọi người, mọi nhà sống yên vui, làm
ăn phát đạt, đoàn kết tương thân tương ái với nhau… Sau bài văn tế, các thành
viên trong Ban quản trị tổ chức bốc thăm để lựa chọn người “cầm ấn” lên trước
ngai thờ Bà, đóng lên tấm giấy đỏ mang dòng chữ Khai ấn đại kết và Hợp cảnh
bình an viết bằng mực xạ, để dán lên hai bên các điện thờ trong chùa.
Đêm 22 sẽ diễn ra lễ mộc dục, để tắm tượng, thay xiêm y mới và chuẩn bị
các công tác cần thiết cho đại lễ ngày hôm sau. Sáng ngày 23, mọi người tổ
chức lễ rước Bà: Thỉnh tượng vào kiệu và cung nghinh kiệu qua các đường phố
quanh chùa. Theo sau kiệu có thuyền rồng, các tấm bảng đỏ ghi tên các vị thần
được thờ phụng trong chùa, các đội múa gồm: múa lân, múa sư tử, múa rồng,

các đội nhạc dân tộc vừa biểu diễn vừa múa hát, tạo nên một quang cảnh náo
nhiệt trong các khu phố đông đảo người Hoa.
Sau nghi lễ ba tuần rượu và ba tuần trà ở nơi chính điện thì ở phía trước,
nơi sân thiên tĩnh bắt đầu đốt vàng mã và đốt pháo. Khi tràng pháo dài chấm
dứt, mọi người vào làm lễ chào Bà lần cuối, một người trong Ban quản trị đi
thâu nhang tận tay của từng người dự lễ, đem đi cắm rải rác ở quanh chùa.
Bước sang ngày 23, ngày chính vía Bà từ 4h sáng, trong chùa trên các
điện thờ, đèn nến thắp sáng choang, nhang trầm hương ngào ngạt. Sau một hồi
chng dóng lên, cửa chùa từ từ mở để đón các đồn khách đến cúng Bà. Lễ vật
dâng cúng thì tùy hồn cảnh và lịng hảo tâm của từng người, riêng món nhang
đèn, giấy tiền là những vật khơng thể thiếu, vì người Hoa cịn quan niệm đây là
quà biếu dâng lên các vị thần. Ngoài phần lễ bái ở nơi chính điện thờ Bà Thiên
Hậu, khách còn tùy theo nhu cầu và ước vọng riêng của từng người, từ việc gia
đạo, đến chuyện tình duyên, con cái, từ việc cầu sức khỏe đén chuyện buôn bán
làm ăn… mà mang lễ vật tiếp tục đến cúng bái ở các điện thờ nhân vật khác. Vì
thế lư hương lúc nào cũng nghi ngút khói nhang, người làm cơng quả cũng tất
bật chẳng kém để lấy bớt phần nhang đã cháy nhiều, chừa chổ cho người sau

14


đến viếng. Nhang thơm tan vào hư không, thoảng trong gió, mang theo ước
nguyện từ tận đáy lịng.
Sau khi lễ cúng xong thân chủ thường để lại cho nhà chùa một phần, cịn
một phần thì mang về nhà, gọi là để “hưởng lộc thánh”. Đến chiều ngày 23
tháng 3 lễ vía Bà kết thúc. Và lúc đó những đội lân cùng xuất hiện, trình diễn
nơi sân chùa, rồi tỏa về một số ngã phố như để báo hiệu với mọi người rằng một
lễ hội vía Bà đã diễn ra thuận lợi, tốt lành và hi vọng sẽ gặp mọi người trong lễ
hội năm sau.


IV. Đặc trưng văn hóa tín ngưỡng Thiên Hậu tại thành phố Hồ Chí Minh
Cộng đồng người Hoa mượn tục thờ Thiên Hậu để thực hiện các chức
năng giáo dục truyền thống, định hướng cộng đồng mình về nhân cách, đạo đức
sống cao đẹp. Thơng qua tín ngưỡng này người Hoa giữ gìn đặc trưng văn hóa
tộc người mình, nhất là các yếu tố thuần phong mỹ tục của đồng bào người Hoa.
Qua các hoạt động tín ngưỡng người Hoa cịn lưu lại nhiều loại hình văn hóa
nghệ thuật như diễn xướng, ca múa dân gian, múa lân - sư - rồng, các loại hình
thể thao giải trí…Các cơ sở tín ngưỡng đặc sắc như miếu, đình với phong cách
kiến trúc đặc sắc đã góp phần giáo dục các thế hệ trẻ về nguồn gốc văn hóa dân
tộc mình. Hàng năm vào dịp lễ hội vía bà còn là dịp để bà con gặp gỡ nhau, thắt
chặt tinh thần cố kết cộng đồng.
Đứng ở góc độ kinh tế, bản sắc văn hóa truyền thống cùng với giá trị tâm
linh của tục thờ Thiên Hậu từ rất sớm đã trở thành cơ sở cho sự phát triển du
lịch văn hóa – hành hương.
Tín ngưỡng Thiên Hậu tại TP.HCM có xu hướng phật giáo hóa, trong suy
nghĩ của nhiều người Việt, Thiên Hậu vừa là thánh mẫu vừa là Phật Bà. Điển
hình nhất là ngơi Thiên Hậu Tự tọa lạc tại số 21 Lê Trực, quận Bình Thạnh, TP.
HCM, vừa thờ Thiên Hậu vừa thờ Phật bà Quan Âm, các nghi thức cúng thực
hiện theo nghi thức Phật giáo và tín ngưỡng, vì thế mới gọi là chùa Thiên Hậu.
Trong suy nghĩ người Hoa, Thiên Hậu Thánh Mẫu là vị hải thần, vị thần đã giúp
15


tổ tiên họ vượt biển cả gian nan để đến bến bờ mới an tồn, từ vị trí một vị hải
thần Thiên Hậu Thánh Mẫu đã trở thành thần bảo hộ cho cộng đồng mình,
mang đầy đủ ý nghĩa của một vị Bồ tát. Tuy nhiên trong con mắt của người Việt
và người Khmer, Thiên Hậu trước hết là vị phúc thần, là một mẫu linh thiêng,
được người Việt tiếp nhận theo ngã phật giáo, trong tư tưởng người Việt miếu
thờ Thiên Hậu là nhà chùa và Bà Thiên Hậu hiển linh như Phật Bồ Tát vậy.
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở TP.HCM là sự giao lưu văn hóa Hoa –

Việt, phản ánh sinh động tính chất dung hợp văn hóa đa tộc người, đa văn hóa.
Nhìn chung tục thờ Thiên Hậu nhìn chung mang tính mở, sẵn sàng giao lưu văn
hóa, nội dung và hình thức cúng tế Bà Thiên Hậu đều có dấu ấn Việt hóa. Đầu
tiên là hiện tượng cúng cầu an hoàn toàn hoàn toàn theo lối người Việt nhưng
diễn ra ở hầu hết các miếu Thiên Hậu. Khi đánh trống trong các dịp lễ hội,
người Việt ln gióng ba hồi, các miếu Thiên Hậu cũng gióng ba hồi, trong đó
có hai hồi gióng theo quy ước chung của người Hoa và một hồi để tạ ơn đất
nước và con người Việt Nam đã cưu mang họ.
Hình thức kiến trúc và nguyên vật liệu xây dựng cũng mang nhiều dấu ấn
bản địa hóa. Kiến trúc thờ Thiên Hậu ở Việt Nam thời kì đầu được xây dựng
bằng nhiều vật liệu cũng như thuê mướn nhân công từ Trung Quốc sang. Họ cố
gắng xây dựng nguyên thể như bản gốc ở đất nước mình, tuy nhiên theo thời
gian, những vật liệu bằng gỗ thường có tuổi thọ thấp, thêm vào đó bị thiên nhiên
và bàn tay con người tàn phá, nên trong quá trình trùng tu, sửa chữa, hay những
cơng trình xây dựng về sau họ phải thay bằng các chất vật liệu và nhân công sợ
tại hơn, nhằm tiết kiệm tri phí và cũng thuận tiện, nhanh chóng hơn. Một số bà
con người Việt cịn góp cơng, góp của vào việc xây dựng những di tích này. Bởi
vậy dấu ấn văn hóa Việt ngày càng đậm nét hơn.
Trong bất kì hoạt động, lễ hội nào diễn ra ở các chùa Thiên Hậu, người
Việt đều tham gia với tất cả lịng tơn kính và nhiệt thành. Và vì thế để phục vụ
đơng đảo các tín đồ người Hoa và người Việt, ở nhiều chùa Thiên Hậu người ta
đã tổ chức tế lễ và hát tuồng bằng tiếng phổ thông. Tại TP. HCM, vào những
16


ngày đầu năm mới việc đi viếng chùa Bà Thiên Hậu đã trở thành một phong tục
quan trọng trong năm khơng thể thiếu của người dân nơi đây.

KẾT LUẬN
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu gốc Hoa Nam đã theo bước chân di dân của

người Hoa đi theo đường biển đến TP. HCM từ các thế kỉ XVII – XIX và trở
thành một tín ngưỡng phổ biến ở nơi đây. Cùng với các hoạt động văn hóa –
nghệ thuật và các khía cạnh khác, tín ngưỡng Thiên Hậu đã sớm trở thành một
kênh gìn giữ, lưu truyền văn hóa truyền thống, giáo dục đạo đức, lối sống hiệu
quả và sâu sắc của người Hoa. Tín ngưỡng Thiên Hậu cịn góp phần quan trọng
tạo nét đặc trưng văn hóa đa tộc người và trở thành một phần không thể thiếu
trong cuộc sống của cả người Hoa và người Việt.
Trong suốt ba trăm năm tồn tại và phát triển cùng với quá trình dung hợp
văn hóa đa tộc người tín ngưỡng Thiên Hậu dần hấp thụ yếu tố văn hóa từ các
cộng đồng xung quanh để phù hợp với nhịp sống xã hội hiện tại. Và ngược lại,
các tộc người cũng đã dần chấp nhận tín ngưỡng với tấm lịng thành kính và
xem nó như là một hình thức tín ngưỡng dân gian của vùng.
Bên cạnh đó tín ngưỡng đã mang lại các giá trị thiết thực khi bảo lưu
những di sản văn hóa quý báu cho đời sau, trở thành chổ dựa vững chắc cho
người dân và đóng góp tích cực vào cơng cuộc xây dựng đời sống xã hội. Tục
thờ Thiên Hậu đang phát huy thêm giá trị kinh tế du lịch – điều đó cũng có
nghĩa là miếu thờ và sinh hoạt tín ngưỡng của miếu thờ đang tiếp xúc với những
tác nhân mới của ngoại cảnh, trở thành trạm dừng chân quan trọng của du khách
thập phương khi đến TP. HCM.

17


HÌNH ẢNH

Ảnh: Cổng trước Tuệ Thành hội quán ở quận 5, Tp. HCM (Nguồn tác giả)

Ảnh: Kiến trúc giếng trời độc đáo của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh
(nguồn Tác giả)


18


Ảnh: Khói hương nghi ngút tại nơi thờ tự (nguồn Tác giả)

Ảnh: Bàn thờ Bà Thiên Hậu

Ảnh: Lễ rước bà Thiên Hậu

(Nguồn: Tác giả)

(Nguồn internet)

19


Ảnh: Trung điện Tuệ Thành Hội Quán tại quận 5, thành phố Hồ Chí Minh
(Nguồn: Tác giả)

Ảnh: Phần mái độc đáo mang đậm nét Trung Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh
(Nguồn: Tác giả)
20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thị Hoa Lý (2018).Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu ở Việt Nam.NXB Hội
Nhà Văn.
2. Phan An – Phan Yến Tuyết – Trần Hồng Liên – Phan Ngọc Nghĩa (1990),
Chùa Hoa Thành phố Hồ Chí Minh, NXB TP. HCM.
3. Phan An (2005), Người Hoa ở Nam Bộ, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Nguyễn Ngọc Thơ (2017).Tín ngưỡng Thiên Hậu vùng Tây Nam Bộ, NXB.
Chính Trị Quốc Gia Sự Thật.
5. Võ Thanh Bằng (2005).Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ Chí Minh,
NXB Đại học Quốc Gia, thành phố Hồ Chí Minh.
6. Nguồn:
/>ien_Hau_o_Nam_Bo
7. Nguồn:
/>%A1nh_m%E1%BA%ABu

21



×