ĐỀ TÀI:
VAI TRỊ, VỊ TRÍ CỦA ƠNG ĐỊA VÀ ƠNG TÀ
TRONG VĂN HÓA NAM BỘ
NĂM 2020
MỤC LỤC
I. TỔNG QUAN ----------------------------------------------------------------- 1
1. Lý do chọn đề tài ---------------------------------------------------------------------------- 1
2. Mục đích nghiên cứu ----------------------------------------------------------------------- 2
3. Đối tượng nghiên cứu ---------------------------------------------------------------------- 2
4. Phương pháp nghiên cứu ----------------------------------------------------------------- 2
5. Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu --------------------------------------------------- 2
II. NỘI DUNG ------------------------------------------------------------------- 3
1. Cơ cở lý luận và cơ sở thực tiễn--------------------------------------------------------- 3
1.1. Cơ sở lý luận ----------------------------------------------------------------------------- 3
1.1.1. Ông địa ------------------------------------------------------------------------------- 3
1.1.2. Ông tà --------------------------------------------------------------------------------- 3
1.2. Cơ sở thực tiễn -------------------------------------------------------------------------- 4
1.2.1. Khái quát về vùng đất Nam Bộ ----------------------------------------------- 4
1.2.2. Chuyện kể về Ông Địa và Ông Tà trong dân gian ---------------------- 6
2. Vị trí của Thổ Địa – Ơng Tà đối với văn hóa người dân Nam Bộ ------------ 6
2.1. Phương tiện thờ cúng Ông Địa – Ơng Tà --------------------------------------- 6
2.1.1. Hình tượng -------------------------------------------------------------------------- 6
2.1.2. Không gian thờ cúng ------------------------------------------------------------- 9
2.2. Nghi thức thờ cúng Ông Địa – Ông Tà ---------------------------------------- 11
2.2.1. Nghi thức thờ cúng Ông Địa ------------------------------------------------- 11
2.2.2. Nghi thức thờ cúng Ông Tà -------------------------------------------------- 12
3. Vai trò – Chức năng của Thổ địa – Ơng Tà trong văn hóa Nam Bộ ------- 12
3.1. Trong văn hóa vật thể -------------------------------------------------------------- 12
3.1.1. Chức năng sinh sản của cải -------------------------------------------------- 12
3.1.2. Chức năng cai quản đất đai -------------------------------------------------- 13
3.1.2. Chức năng bảo trợ đời sống vật chất cho người dân ----------------- 14
3.2. Trong văn hóa phi vật thể --------------------------------------------------------- 16
3.2.1. Chức năng hộ mệnh ho con người ----------------------------------------- 16
3.2.2. Chức năng ban phúc lành ---------------------------------------------------- 17
3.2.3. Chức năng xử lí tranh chấp -------------------------------------------------- 18
3.2.4. Chức năng dẫn đường --------------------------------------------------------- 18
III. KẾT LUẬN ------------------------------------------------------- 19
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO --------------------------------------- 20
I. TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài
Tín ngưỡng thờ thần là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt.
Ngay từ buổi đầu hình thành nhà nước sơ khai, người ta đã biết thờ phụng các vị
thần tự nhiên, siêu nhiên, như: thần Đất, thần Mây, thần Mưa, than Gió, thần
Sấm… Tín ngưỡng thờ thần này bắt nguồn từ tâm lý e sợ các hiện tượng tự nhiên
mà họ chưa lý giải được trong thời điểm lúc bấy giờ. Và đó cũng là tâm lý thể hiện
sự tri ân đến các sự vật, hiện tượng tự nhiên xung quanh đã tạo cho họ có được mơi
trường sống, và làm cho cuộc sống của họ được giàu có, sung túc và bình an.
Đời sống người Việt chủ yếu là gốc làm nơng nghiệp, mà nơng nghiệp thì lại phụ
thuộc rất nhiều các điều kiện tự nhiên như: đất đai, thời tiết, khí hậu… trong đó có
thể nói, đất đai được xem là yếu tố cơ bản cấu tạo nên vạn vật, giúp cho người ta
có được cuộc sống ấm no và sung túc. Do đó nên có sự xuất hiện và ra đời của tín
ngưỡng thờ thần Đất với tục thờ ông Tà cũng giống như tục thờ Thổ Thần hay cịn
được gọi là Ơng Địa trở nên phổ biến và cần thiết trong cuộc sống người dân vùng
đồng bằng lúa nước nơi đây bởi vì ai cũng muốn trong nhà ngồi ngõ ln có một
vị thần trông coi việc gia cư, định đoạt phúc họa và mang lại an cư lạc nghiệp cho
xóm làng. Vì vậy, thần Đất hay Ông Địa cùng Ông Tà là những vị thần được cư
dân nông nghiệp luôn để tâm đến trước nhất.
Ngày nay, dù đã biến đổi theo thời gian những tín ngưỡng thờ hai vị thần này vẫn
cịn tồn tại và đã ăn sâu vào tiềm thức, trở thành tín ngưỡng khơng thể thiếu đối với
người dân Nam Bộ nơi đây. Vì thế mà tơi đã chọn đề tài nghiên cứu về “Vai trị, vị
trí của Ơng Địa và ông Tà trong đời sống văn hóa Nam Bộ”
1
2. Mục đích nghiên cứu
Lý giải tầm quan trọng, nét đặc trưng trong tín ngưỡng thờ Ơng Địa – Ơng Tà của
người dân vùng Nam Bộ để từ đó hiểu được vai trị và vị trí của Thổ Địa và Ông
Tà trong đời sống văn hóa dân gian Nam Bộ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ông Địa cùng Ông Tà ở vùng Nam Bộ
Giới hạn không gian: cư dân ở Nam Bộ có thờ Ơng Địa – Ơng Tà
Giới hạn thời gian: từ khi người Việt định cư ở Nam Bộ cho đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Ở đây tôi đã kết hợp sử dụng 3 phương pháp:
- Phân tích – tổng hợp
- Phân tích hệ thống – cấu trúc
- So sánh
Qua các phương pháp trên và dựa vào nguồn tài liệu thu thập được trong sách, báo
cùng như một số phóng sự, phim tài liệu để phân tích và tìm hiểu rõ về sự tác động
của Ơng Tà – Ông Địa đến đời sống văn háo vật chất cũng nhưu tinh thần của
người dân vùng Nam Bộ. Từ đó chỉ ra được vị trí cũng như vai trị của Ơng Địa –
Ơng Tà trong văn hóa Nam Bộ
5. Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu
Tìm hiểu một cách cụ thể và làm phong phú hơn nguồn tư liệu về văn hóa dân gian
của người dân vùng Nam Bộ, cho thấy Ơng Tà – Ơng Địa có vai trị quan tọng như
thế nào và vị trí của tín ngưỡng này đối với đời sống cũng như ảnh hưởng đến tính
cách của người dân Nam Bộ như thế nào.
2
II. NỘI DUNG
1. Cơ cở lý luận và cơ sở thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Ơng địa
Thổ cơng (土公), cịn được gọi là thổ địa (土地), thổ địa cơng (土地公), ông địa
hay thổ thần (土神) hoặc xã thần (社神), là một vị thần trong tín ngưỡng Châu Á,
cai quản một vùng đất nào đó.
Tục thờ Ơng Địa có lẽ nguồn gốc bắt đầu từ Trung Quốc rồi sau đó lan dần sang
các nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Người xưa quan niệm thờ
cúng Ơng Địa trong nhà để cai quản săn sóc nhà cửa và cầu mong cho gia đình êm
ấm, làm ăn phát tài phát lộc.
Theo tín ngưỡng dân gian cho rằng thờ ông Địa để Địa phù hộ buôn may bán đắc,
thật ra theo các tôn giáo Á Đông ông Địa lại là vị thần cai quản các địa phương
hoặc là thần bảo vệ của mỗi gia đình. Ở các cấp độ cao hơn thì ơng Địa trở thành vị
thần hộ trì cho những người lương thiện, những bậc tu hành được bình an trên
đường giáo dân độ thế, hiểu theo nghĩa này thì ơng Địa lại là một vị thần có sứ
mạng về mặt tâm linh.
Cũng có nhiều nơi theo ảnh hưởng của Trung Hoa cịn gọi Ơng Địa là ơng Thần
Tài do quan niệm mọi thứ đều từ đất mà ra, bởi “Tấc đất, tất vàng”.
1.1.2. Ơng tà
Ơng Tà có nguồn gốc từ kho tàng văn hóa của người Khmer. Đó là vị thần mang
tên Neak-ta, có quyền năng cai quản đất đai trong phạm vi phum sóc hoặc một khu
3
vực rộng lớn hơn. Thần Neak-ta khi được Việt hóa lại đã biến âm thành “Tà”,
“Ông Tà”. Người Khmer cho rằng những thiên tai, bệnh tật đều do sự bất kính của
con người đối với ơng Tà. Mỗi lần đi ngang qua miễu ơng Tà, họ đều giở nón, lột
khăn và kính cẩn nghiêng mình.
Theo khảo cứu của cụ Vương Hồng Sển, “Neak-ta có nhiều cấp bậc. Có những
ơng Tà được thờ nơi góc giường, chuyên lo chuyện trong nhà ngồi cửa. Có những
ơng lại lo việc cứu người bị rắn cắn. Lại có những Neak-ta có miếu thờ đàng
hồng ở các ngã ba, ngã tư đường hoặc đầu gành cuối bãi, trách nhiệm và địa vị
cũng giống như thổ địa của người Việt”.
Lịch sử của vùng Nam Bộ có sự cộng sinh giao thoa văn hóa giữa người Việt,
người Khmer và người Hoa. Do đó tục thờ ơng địa và thần tài của người Việt xuất
phát từ người Hoa, cịn thờ ơng Tà là của người Khmer. Đối với người Khmer,
Neak-ta là vị thần cai quản, bảo trợ bao quát hết đất đai ruộng vườn hay nhà cửa
của người dân nhưng với người Việt ở Nam Bộ, vị trí của Ông Tà đã được san sẻ
một phần với các vị thần khác. Bởi vậy mà vị trí của Ơng Tà chỉ giới hạn trong dân
gian rất phổ biến ở vùng Nam Bộ là “Ông địa giữ nhà, Ông Tà giữ ruộng”.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khái quát về vùng đất Nam Bộ
Theo Wikipedia: “Nam Bộ là một trong 3 vùng lãnh thổ của Việt Nam (gồm Nam
Bộ, Trung Bộ, và Bắc Bộ). Phần lớn địa hình Nam Bộ là đồng bằng phù sa thuộc
hệ thống sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Từ thế kỷ 17, Nam Bộ là phần lãnh thổ
mới nhất của Việt Nam trong quá trình Nam tiến, và từng được gọi là Gia Định rồi
Nam Kỳ (1832–1945).”
(Nguồn: />4
Tuy Nam Bộ là phần lãnh thổ mới của Việt Nam nhưng đã có nguồn gốc hình
thành từ rất lâu đời với nhiều giai đoạn và nhiều tộc người từ nhiều nước đến sinh
sống. Đặc biệt trong đó phải nói đến vùng đất Nam Bộ trước đó là nơi từng có nền
văn hóa Ĩc Eo phát triển nổi tiếng của xứ Phù Nam từ thế kỉ I đến thế kỉ VII, sau
đó xứ Phù Nam bị Chân Lạp xâm chiếm vào thế kỉ thứ VII và sau đó chia Lục
Chân Lạp (Campuchia hiện nay) và Thủy Chân Lạp (Nam Bộ hiện nay). Tuy nhiên
vùng đất Thủy Chân Lạp lúc đó rất hoang vắng, từ thế kỉ thứ VIII người Khmer
mới bắt đầu chuyển đến sinh sống. Sau đó từ thế kỉ XVI-XVII, người Việt từ Đàng
Trong khai phá đất xuống phía nam và đến vùng đất Nam Bộ để sinh sống. Do đó
vùng đất này có nhiều tộc người khác nhau cùng sinh sống và là vùng đất của sự
giao thoa văn hóa đa dạng.
Địa hình Nam Bộ khá bằng phẳng, phía Tây giáp Vịnh Thái Lan, phía bắc và tây
bắc giáp Campuchia và phía Đơng Nam giáp biển Đơng. Gồm 17 tỉnh và hai thành
phố là Hồ Chí Minh và Cần Thơ được chia thành hai miền Đông Nam Bộ và Tây
Nam Bộ. Vùng đất này có hai hệ thống sơng chính lớn nhất vùng là sơng Đồng Nai
và sơng Cửu Long. Trong đó đồng bằng sơng Cửu Long là đồng bằng trồng lúa
nước đem lại sản lượng lớn nhất nước ta. Được thiên nhiên ưu đãi, đất ở đây vừa
được phù sa của sông bù đắp nên màu mỡ lại có nhiều khống sản, tài ngun thiên
nhiên phong phú đa dạng.
Nam Bộ nằm trong vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa và cận xích đạo
nên có nền nhiệt ẩm phong phú, ánh nắng dồi dào, nhiệt độ cao và thời gian bức xạ
dài. Thời tiết Nam bộ quanh năm có hai mùa chủ yếu là mùa mưa và mùa khô.
Màu mưa từ tháng 5 cho đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4. Do đó
nên vụ mùa sản xuất cũng khác so với khu vực Đồng bằng Bắc Bộ.
5
1.2.2. Chuyện kể về Ông Địa và Ông Tà trong dân gian
Theo truyện dân gian “Ơng Tà kiện ơng Địa” được tác giả Nguyễn Hữu Hiếu thuật
lại trong cuốn “Truyện kể dân gian Nam bộ”, ngày trước, người dân Nam kỳ lục
tỉnh thờ ông Tà trong nhà chớ không phải ông Địa. Nhưng rồi ông Tà mải mê ngao
du thiên hạ, ít lo chuyện dân tình, làm ăn của người dân. Bẵng đi một thời gian,
ông Tà thấy người dân thờ ơng ở bờ mương, ruộng vườn, mé sơng cịn ơng Địa thì
được thờ trang trọng trong nhà. Tức chí, ơng Tà đến đình làng, tìm Thần hồng để
kiện.
Ơng Thần vốn đã nắm rõ sự tình nên phân xử kiểu “Hùm bắt được hùm ăn, sấu bắt
được sấu ăn”. Ông Địa có cơng theo sát dân tình nên tiếp tục ở trong nhà cịn ơng
Tà vốn thích du sơn ngoạn thủy nên được thờ ngồi ruộng rẫy. Ơng Địa nghe vậy
nên xoa bụng, tay phe phẩy quạt, tay vỗ vai ông Tà mà rằng: “Tà cũng đừng buồn.
Địa với Tà cùng màu da màu máu. Dù ở trong nhà hay ngoài ruộng cũng cùng ở
trên mảnh đất này, đều là anh em bè bạn. Tơi và anh hãy cũng hịa thuận hãy hợp
nhau giúp đỡ độ hộ dân chúng làm ăn, giữ gìn đất đai”. Nghe chí lý, ơng Tà đổi
giận làm vui. Và câu “Ơng Địa giữ nhà, ơng Tà giữ ruộng” ra đời từ đó.
2. Vị trí của Thổ Địa – Ơng Tà đối với văn hóa người dân Nam Bộ
2.1. Phương tiện thờ cúng Ông Địa – Ông Tà
2.1.1. Hình tượng
6
a) Ơng Địa (Thổ Địa)
Hình tượng Thổ Địa của người dân Nam Bộ
(Nguồn: />
Ơng địa là người đàn ơng trung niên có khn mặt niềm nở và ln cười, tay thì
hay phe phẩy quạt làm tươi mới khơng khí gia đình. Ơng Địa trong tâm thức người
Nam bộ khác hẳn so với Ông Địa ở các vùng miền khác của đất nước và càng khác
biệt hơn với người Trung Hoa. Ông Địa ở Nam bộ quấn khăn rằn, một tay cầm
quạt mo, một tay cầm điếu thuốc rất bình dân. Càng bình dân hơn với những đồ
cúng tế rất đơn giản: nải chuối, chén chè, ly cà phê… và nơi thờ ơng Địa thường
khơng có bàn cao mà dưới nền đất, sàn nhà.
Khơng những vậy, hình tượng Ơng địa cịn gần gũi với người dân Nam Bộ đến
mức hễ trong nhà bị mất thứ gì như chiếc chìa khóa, cây dao hay búa người ta
thường hay vái xin Ông Địa: “Vái ông Địa kiếm được con cúng nải chuối”. Nếu
kiếm được thật, họ sẽ cúng nải chuối và bẻ ăn trước trái chuối đầu tiên vì tương
truyền trong dân gian ở Nam Bộ rằng Ông Địa đã từng một lần bị ngộ độc thành ra
sợ mà không dám dùng đồ cúng, người cúng phải ăn để thử độc trước. Niềm tin
này rất phổ biến ở vùng Nam Bộ, nhưng bên cạnh đó cũng thể hiện sự gần gũi thân
7
thuộc của thần Thổ Địa với người dân. Còn ở chợ thì Ơng Địa sướng hơn khi cứ
sáng ra là được chủ nhà mời thuốc lá hay cà phê để lấy hên.
b) Ơng Tà
Hình tượng Ơng Tà trong tiềm thức người dân Nam Bộ chính là những viên đá
hình trịn nhẵn nhụi có khi nhỏ chỉ như viên sỏi hoặc có khi nặng đến vài chục ki –
lơ – gram thường được thấy ở bờ sông, ven đường và được người dân đem về thờ
cúng ở miếu, gốc cây hay thờ cùng bàn thờ với Thơng Thiên, bàn thờ Ơng Địa,…
Người dân tin rằng Ông Tà thường đi về trong hịn đá vào nửa đêm, nhất là những
đêm trời khơng trăng, lúc đó hịn đá sẽ lóe sáng trong một khoảnh khắc, nếu ai may
mắn lắm mới có thể bắt gặp được khoảnh khắc linh thiêng ấy.
Hình tượng Ơng Tà của người dân Nam Bộ (Nguồn: />Người trong dân gian Nam Bộ truyền nhau rằng Ơng Tà rất thích trẻ con nên nơi
miếu thờ, gốc cây ven sông hay chỗ nào có Ơng Tà mà có trẻ con thường đến chơi
đùa nghịch ngợm đều khơng bị la rầy. Cịn có chuyện kể rằng có đứa nhỏ phá
8
phách, đem ném hịn đá “Ơng Tà” xuống sơng, sáng hôm sau quay lại thấy ông vẫn
nằm ở chỗ cũ, nghĩa là ơng đã tự “bị” từ dưới sơng lên lại đúng chỗ mình.
2.1.2. Khơng gian thờ cúng
a) Ơng Địa
Ơng Địa thường được thờ tại bàn thờ trong nhà cùng với ơng Thần Tài vì người ta
quan niệm cặp đơi này sẽ mang đến vừa tiền tài mà vừa hạnh phúc êm ấm gia đình.
Vị trí đặt bàn thờ phải là nơi có thể quan sát hết được khách ra vào của nhà, có thể
chọn hướng hợp theo chủ nhà hay hướng đón tài lộc vào nhà. Hơn nữa bàn thờ
không được để gần nhà vệ sinh hay chỗ không được sạch vì các Ơng thần sẽ “giận”
mà mất linh. Cùng với đó, bàn thờ phải ln được lau dọn sạch sẽ, thay hoa, trái
cây tươi thường xun vì Ơng Địa và Ông Thần tài khá là ở sạch.
Bàn thờ Ông Địa – Ông Thần tài trong gia đình (Nguồn: />
9
Bàn thờ Ông Địa và Ông Thần Tài của người dân Nam Bộ thường này rất đơn
giản, chỉ gồm một hay nhiều loại trái cây, hoa, chum nước nhỏ cùng bát cắm
nhang. Nhưng khi ngày lễ hay cúng thì sẽ được trưng thêm nhiều đồ cúng và cầu kì
hơn một tí.
Sơ đồ cách sắp xếp bàn thờ Ơng Địa – Ông Thần Tài (Nguồn:
/>
b) Ông Tà
Cách đây vài chục năm, nếu đi vào các vùng nông thôn Cà Mau rất dễ dàng bắt gặp
những “miếu ông Tà” (hay đọc trại là “miễu ông Tà”) ở ven các sông, rạch, hoặc
ngã ba, ngã tư sơng. Có ngơi miếu lớn như nhà ở, người ta có thể vào bên trong để
10
thắp nhang khấn vái, cầu nguyện; có ngơi miếu nhỏ như miếu Thổ thần, chỉ cao
khoảng 60-80 cm.
Bên trong miếu bao giờ cũng có một bàn thờ nhỏ, phía trên đặt một “ông Tà” và
một lư hương, vài cái ly nhỏ, có khi có thêm nải chuối hoặc trứng vịt, trứng gà mà
ai đó vừa mới cúng xong.
2.2. Nghi thức thờ cúng Ông Địa – Ông Tà
Theo như lý giải của học giả Nguyễn Văn Hầu, vào thời khai hoang mở cõi, người
dân phải đi làm ruộng ở xa, suốt ngày chỉ trong chòi lá hay trên xuồng, xung quanh
chỉ tồn thiên nhiên sơng nước rừng rậm hoang vắng nên họ cần có một chỗ dựa
tinh thần. Bởi đó mà người dân cứ đến đâu là thờ đến đó: trong nhà, có khi ngồi
Miếu, thậm chí trên bệ đá, trong hang, trong động hay chót núi. Ngay cả trong bữa
cơm người Nam Bộ cùng không quên cúng bái ông Địa hay ơng Tà.
2.2.1. Nghi thức thờ cúng Ơng Địa
Ơng Địa là vị thần thân quen và đucợ người dân xem như rất gần gũi, dân dã với
đời sống của họ nên đồ cúng cũng rất dân dã, đồ thờ cúng ông Địa thông thường
chỉ là chuối xiêm, thuốc lá hay ly cà phê. Người ta thường cúng Ông vào sáng sớm
chuẩn bị đi làm và chiều tối khi đi làm về. Trước khi cúng chủ nhà sẽ thay nước
trắng trong ly, thay nước cho hoa hay thay hoa mới trước khi đốt nhang. Sau đó họ
sẽ đốt 3 hay 5 nén nhang để cầu mong mọi sự bình an cho ngày mới cũng như
những mong ước nguyện cầu của họ với Ơng Địa.
Tuy nhiên Ơng Địa vốn thích sạch sẽ nên người ta luôn phải nhớ thường xuyên lau
dọn tủ bàn thờ Ông Địa kẻo nếu để bụi hay bị bẩn thì mất đi sự linh thiêng và Ơn
gĐịa sẽ khó chịu với việc này. Hơn thế nữa, nếu bàn thờ sạch sẽ thì cơng việc làm
ăn của họ sẽ ăn nên làm ra, phát tài phát lộc hơn.
11
2.2.2. Nghi thức thờ cúng Ông Tà
Ông Tà hết sức bình dân trong việc thờ cúng: Khơng địi hỏi cầu kỳ và tốn kém mà
chỉ cần một gò đất cao, một gốc cây, bệ đá, thậm chí sống chung với thổ thần cũng
được, miễn sao có chỗ đi-về, vì tính ông Tà hay du sơn ngoạn thủy, ít khi ngồi một
chỗ như các vị thần khác. Đồ ăn thì cứ có gì là cúng nấy như nải chuối, ba vắt xơi
hay khi giàu thì gà, vịt, đầu heo và một bình rượu trắng. Cái quan trọng nhất khi
cúng Ơng Tà là tấm lòng thành.
3. Vai trò – Chức năng của Thổ địa – Ơng Tà trong văn hóa Nam Bộ
3.1. Trong văn hóa vật thể
3.1.1. Chức năng sinh sản của cải
Ông Địa và Ông Tà trong tiềm thức của người dân Nam Bộ đều là những Thổ thần,
là những vị thần cai quản đất đai. Mà đất đai là thứ nuôi dưỡng và sản sinh ra sự
sống của thực vật, qua đó cịn gián tiếp ni dưỡng các loại động vật khác. Khơng
những thế, những khống chất, khống sản có trong đất giúp đỡ cho việc sinh sản
và hoạt động của khơng chỉ là con người mà cịn là những lồi động vật khác.
Lại thêm vào hình tượng Ơng Địa trong mắt người dân Nam Bộ có cái bụng bự.
Đó là một yếu tố trong tín ngưỡng phồn thực của người dân Việt Nam, thể hiện
quan niệm bụng bự như bụng của người mẹ mang bầu sẽ sinh đẻ ra vạn vật. Chức
năng sinh sản của cải của Ông Địa còn đucợ thể hiện rõ qua tiết mục “Địa Đẻ”
trong tuồng hài “Địa – Nàng”, nhất là trong đoạn:
“Địa: Nói chơi với chị chớ:
Địa sanh là đất tốt,
12
Địa tử là ăn mừng.
Địa sanh sanh hóa hóa để đức lại thế gian,
Chớ Địa đực đẻ củi tròn, đẻ đá trái chớ đẻ gì”
Từ cái “sanh sanh hóa hóa” đó của Địa mà bởi đó mới có hình tượng Ơng Địa với
cái bụng chình bình.
Bên cạnh đó, ngồi việc sản sinh ra của cải vật chất, Ơng Tà cịn được xem là vị
thần có thể giáng họa hay tước đoạt lại sự sống của một sinh vật nào đó dám bất
kình và khơng tơn trọng mình. Người dân ở đây cịn ln tin rằng cứ đến ban đêm
Ơng Tà sẽ cầm gậy đi dạo quanh khắp làng để nghe ngóng tình hình xem coi có ai
khơng kiêng nể mình. Nếu lỡ có ai mà lỡ miệng nói xấu hay xúc phạm đến, ông sẽ
đập cho một gậy. Hôm sau người bị đập sẽ tự nhiên mà đau đầu hay đau vai mà
không rõ lý do.
3.1.2. Chức năng cai quản đất đai
Theo như câu nói “Ơng Địa giữ nhà, Ơng Tà giữ ruộng” đã nêu rõ chức năng cai
quản đất đai của các vị thổ thần này. Người dân ở đây vùng Nam Bộ quan niệm
Ơng Địa là người có nhiệm vụ cai quản, bảo trợ mọi người dân trong gia đình được
yên ổn làm ăn, sinh sống và tránh để các thế lực đen tối, tà ma xâm nhập vào trong
nhà. Miễn là đất ở trong nhà sẽ do ơng cai quản và coi sóc hết.
Cịn Ơng Tà được người dân quan niệm là người giữ đồng ruộng. Với người
Khmer thì Ơng Tà có nhiều các chức năng như coi sóc cây, rừng, núi,… nhưng với
người Việt, Ơng chỉ được phân chia một nhiệm vụ duy nhất là canh giữ đồng
ruộng. Do đó mà trong dân gian, người dân vùng này luôn mở đàu câu khấn câu
cúng bàng “tổ tiên, đất nước, Ông Tà” nhưng theo thời gian, dần dần câu nói bị
13
nhầm và chuyển thành “tổ tiên, đất nước, ông bà”. Nhưng nhiêu đó cũng đủ để
thấy được vị trí rất quan trọng trong chức năng của Ơng Tà. Vì nếu khơng có Ơng
cai quản, ruộng đất nơi người dân trực tiếp mưu sinh sẽ khơng có ai cai quản và
bảo vệ. Khơng những vậy, vì quan niệm tồn bộ đất đai đều do Ông Tà cai quản
nên thuở khai phá ruộng đất, người dân sẽ dùng những hòn đá làm ranh giới những
vùng đất mà mình đã khai phá. Việc làm này để người khác nhìn vào mà biết được
vùng đất này đã được Ông Tà làm chứng và xác nhận chủ quyền đất. Và do quyền
năng cai quản đất mà những mảnh đất đã được Ông Tà chứng giám và canh giữ
như thế thì người dân sẽ để nguyên chứ khơng dám xâm phá. Bởi vậy mà vị trí của
Ông Địa – Ông Tà trong đời sống của người dân Nam Bộ càng trở nên quan trọng,
giúp phân biệt rạch ròi đất đai của người dân cũng như phù hộ, bảo vệ vùng đất đó.
3.1.. Chức năng bảo trợ đời sống vật chất cho người dân
Vừng đất Nam Bộ là vùng đồng bằng châu thổ nên người dân sinh sống ở đây mưu
sinh chủ yếu bằng nghề nơng. Vì vậy mà hai vị thần này đucợ người dân thờ cúng
cũng có phần liên quan đến hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân. Theo
Huỳnh Ngọc Tràng, “đối với cư dân sống dựa vào sản xuất nông nghiệp, các vị
Thần Đất ngồi chức năng bảo trợ đời sống cịn có đầy đủ quyền năng mang đến
mùa màng bội thu, sự sung túc và no đủ cho họ.” Bởi thế mà Ơng Tà – Ơng Địa có
quyền năng bảo vệ mùa màng cùng khả năng sinh sản của đất ruộng và khả năng
cầu mưa gió thuận hịa.
Người dân ở đây thường vái Ông Địa để cầu mưa nhất là trước những vụ mùa
chuẩn bị gieo trồng, người ta sẽ thường hay cùng vái Ông để cầu cho cây cối đâm
chồi nảy mộc được tốt tươi, cầu cho vụ mùa bội thu mà không bị chuột hay sâu bọ
14
phá hoại. Qua đó, Ơng Địa như một vị thần để người dân gửi gắm hết những niềm
hy vọng, những mong ước cho của cải của mình.
Bên cạnh đó, người Khmer cũng cầu mong, khấn vái Ông Tà để mong cầu cho của
cải của mình: “Người Khmer trước khi bắt đầu cày ruộng, người ta cúng vái Ông
Tà, xin phù hộ cho mùa màng được tốt, người đi cày thắp nhang xin Ơng Tà tha
thứ những gì anh ta làm lỗi và xin cho anh ta, đơi bị và cấy cày được ‘bình n’
suốt mùa.”
Theo đó, tác giả Lê Hương cịn ghi lại “Người Việt gốc Miên rất tơn sùng Ông Tà.
Họ tin rằng những thiên tai như nắng hạn, ngập lụt, bịnh dịch thú vật, tai họa đến
cho người là do sự bất kình của người đối với Ơng Tà! Vì thế họ tin rằng mỗi khi
có những chuyện khơng may xảy đến thì họ phải cúng Ơng Tà để cầu xin ông bớt
giận hoặc che chở cho họ.” (Lê Hương, 1969:70)
Không những vậy, người dân Nam Bộ ở đây cịn cầu mưa bằng cách nhấn Ơng Địa
xuống nước để Ông Địa sợ mà phải xin trời làm mưa nhanh nhanh cho dân. Việc
cầu mưa này còn thể hiện phương thuật dân gian dựa trên quan niệm ngũ hành
tương khắc, Ông Địa là thần Đất nên là Thổ, mà Thổ thì thắng Thủy. Bởi đó mà
Ơng Địa sợ hãi mà tích cực tham gia cầu mưa.
Ngồi ra, hình tượng Ông Địa cầm chiếc quạt mo phe phẩy đã thể hiện mong ước
khí hậu mát mẻ, thuận hịa với người dân nơi đây. Có câu “mát trời Ơng Địa” là
câu cửa miệng hay được người dân sử dụng hằng ngày mỗi khi bày tỏ cảm xúc
thoải mái hay hài lòng về một việc gì đó gống như hình tượng ơng địa ngồi cười
khối chí phe phẩy quạt. Và cịn có nhiều người dân cho rằng Ông Địa là một vị
thần may mắn nên họ thờ phụng ông để đem lại điều may mắn.
15
3.2. Trong văn hóa phi vật thể
3.2.1. Chức năng hộ mệnh cho con người
Ơng Địa là một Thổ thần, ngồi chức năng sinh sản của cải, ơng Địa cịn được coi
là có chức năng bảo trợ giúp người sanh đẻ dễ dàng. Vì thế mà Ơng Địa cũng có
phần được cúng tạ ơn trong thôi nôi hay đầy tháng của trẻ.
Bên cạnh đó, người dân cũng quan niệm Ơng Tà cũng là vị thần hộ mệnh, chỉ cần
đeo bùa Ông Tà là sẽ được bảo vệ, bừa còn trừ được tà ma và được khỏe mạnh,
may mắn cùng làm ăn thuận lợi. Trẻ em nếu đeo bùa sẽ ngày càng khỏe mạnh và
thơng minh. Bùa của Ơng Tà chính là lầy từ tấm vải quấn quanh Ông Tà. Cứ mỗi
một năm, đến lễ cúng Ông Tà, người ta sẽ thay mảnh vả đỏ mới quấn quanh người
cho Ông Tà. Mảnh vải cũ không bỏ đi mà được người dân chia nhau ra từng mảnh
nhỏ đem theo bên mình như bùa hộ mệnh, cịn được gọi là bùa Ơng Tà. Việc được
đeo bùa Ông Tà là một niềm vinh dự, may ắm đối với người dân vùng Nam Bộ mà
đặc biệt là người vùng Tây Nam Bộ. Lâu dần theo thời gian, điều này đã ăn sâu
vào tiềm thức của họ. Nếu khơng xin được bùa Ơng Tà sẽ được xem như một niềm
xui rủi, từ đó mà sinh ra bất an trong lòng. Bởi vậy nên những người con đi làm ăn
xa xứ, đến ngày cúng Ông Tà cũng phải tranh thủ ráng về cúng để xin bùa Ông Tà
mới n lịng.
Ơng Tà là vị thần có thể làm người bị quở bệnh được nên người dân ở đây cũng tin
Ơng có thể chữa được bệnh. Do đó mà việc cầu cúng Ơng Tà cũng là một hình
thức để mong xin sao cho hết bệnh. Cứ mỗi ần ở làng hay ở đâu có dịch bệnh
hồnh hành, nắng hạn hay mất mùa đói kém, người dân sẽ cúng Ơng Tà để hỏi cho
biết vì sao có tai họa và xin Ông giúp đỡ. Không những thế, người dân wor đây
16
cịn tin nếu đem nước lạnh để ở miếu Ơng Tà qua một đêm thì nước đó sẽ được
Ơng Tà làm phép thành nước để trị nhiều chứng bệnh, hễ đau ở đâu àm thoa vào là
hết ngay.
3.2.2. Chức năng ban phúc lành
Trong tiềm thức người dân Nam Bộ, Thổ thần mà rõ nhất là Ông Địa và Ông Tà
được xem như là những vị phúc thần mang đến phúc lành cho người lương thiện.
Thêm vào đó, gương mặt của Ông Địa hiền hậu, có phúc nên người dân thường
hay cầu thuận lợi trong công việc, học hành, thi cử được may mắn suốn sẻ. Ở một
số vùng, trước những kì thi lớn, các thầy cơ thường hay cúng Ơng Địa để mong
việc tổ chức cuộc thi thuận lợi, nhanh chóng và tránh được những sai sót.
Cùng là Thổ thần nên xin Ơng Địa việc gì thì người dân cũng xin Ơng Tà như vậy.
Người dân nơi đây cịn thường hay xin Ông Địa – Ông Tà cho trúng số đề, sổ xố.
Dựa vào những may mắn và bất ngờ khi người ta hay trúng mà dần dần người ta
đồn thổi nên uy quyền của các ông Thần rằng cứ xin, ứ cúng đồ ăn thật ngon hay
cúng nhiều vào sẽ trúng số. Đây cũng là một mặt xấu của tục thờ cúng Ơng Địa –
Ơng Tà.
Khơng chỉ là cầu may mắn mà cúng Ơng Địa – Ơng Tà cịn là để câu fbinhf anh,
hịa thuận cho gia đình cũng như làng xóm. Ngồi ra, Ơng Địa – Ơng Tà có khả
năng quan sát nhất cử nhất động của tất cả mọi người cũng như là người nhà thờ
cúng các Ông để qua đó ban thưởng ân huệ cho xứng. Bởi vậy mà Ông Địa – Ông
Tà răn đe, dạy cách sống cho con người ta như làm chuyện lành thì được ban ơn
phước cịn làm chuyện xấu thì bị quở trách.
17
Người dân ở vùng Nam Bộ thường cho rằng thờ Ơng Địa trong nhà khiến ngơi nhà
có khơng khí ấm cúng hơn, làm người dân yên tâm mà sinh sống hơn. Bởi vậy nên
thờ Ông Địa – Ông Tà chỉ có lợi chứ khơng hề có hại nên người dân rất thường hay
thờ.
3.2.3. Chức năng xử lí tranh chấp
Trái với vẻ mặt phúc hậu, hay cười đem lại hình tượng hiền lành của Ơng Địa thì
Ơng Tà trong tiềm thức người dân Nam Bộ lại mang một vẻ oai linh, nghiêm ngặt
của một vị tướng quân canh giữ của một vùng đất. Nhờ vậy mà người dân luôn
xem ông là một “quan tịa” xử lí những tranh chấp rất nghiêm minh. Kéo theo đó,
khác với vùng Bắc Bộ những phiền tịa sẽ được diễn ra ở Đình làng thì ở Nam Bộ,
miếu Ông Tà là nơi những vụ kiện tụng, tranh chấp trong dân gian. Những người
có tranh chấp thường kéo đến trước miếu Ông Tà để nhờ Thần giúp phán xét đâu là
người ngay kẻ gian mà xử phạt. Người dân nơi đây có niềm tin mạnh mẽ rằng với
quyền năng nhìn thơng suốt mọi sự việc và trừ khử được tà ma của Ông Tà, Thần
sẽ nhận ra được đâu là đúng đâu là sai mà có biện pháp trừng trị thích đáng.
3.2.4. Chức năng dẫn đường
Theo quan niệm dân gian, Ông Địa là một vị thần nhanh nhẹn, tháo vát nên ông
thông thạo hết mọi con hẻm hay ngóc ngách trong địa bàn mà Ơng cai quản. Do đó
Ơng địa là người dẫn đường dẫn lối giúp tài lộc, may mắn và bình an đến với gia
chủ. Khơng những vậy mà trong các đồn múa Lân, Ơng Địa luôn là người đứng
đầu, dẫn đường cho Lân đi. Mà khi Lân đến chính là dấu hiệu báo sự xuất hiện của
thái bình. Do đó mà Ơng Địa trong mắt người dân Nam Bộ là một vị thần dẫn
đường, đem lại thái bình, may mắn cho nhà nhà.
18
III. KẾT LUẬN
Việc thờ cúng cũng như hình tượng và khơng gian, nghi thức thờ cúng cho thấy
Ơng Địa và Ông Tà là những vị thần được người dân Nam Bộ coi rất gần gũi, thân
thiết và gắn bó mật thiết như những người thân quen.
Vì thế nên Ơng Địa và Ông Tà là những vị thần gắn liền với đời sống sinh hoạt
hằng ngày của người dân Nam Bộ nói chung và đặc biệt là dân miền Tây Nam Bộ
nói riêng. Với người dân nơi đây, hai vị thần này như là những phúc thần, đem lại
sự bình an, may mắn và suôn sẻ trong mọi việc. Không những thế Ông Địa với
Ông tà với những chức năng như sinh sản, cai quản của cải, bảo trợ đời sống vật
chất cho người dân hay chức năng hộ mệnh, ban phúc lành, xử lí tranh chấp hay
dẫn đường khiến vai trị các Ơng chiếm một vị trí nhất định trong đời sống và cũng
như niềm tin của người dân Nam Bộ nơi đây. Nhờ đó mà người dân có thêm niềm
tin về việc làm tốt thì sẽ được ban phước cịn làm xấu làm ác thì sẽ bị thần quở
trách, qua đó mà răn đe dạy dỗ con người sống lương thiện hơn, hiền hậu chất phác
hơn, hướng người dân nơi đây đến những cái tốt đẹp.
Theo thời gian, vị trí và vai trị của Thổ Địa là Ơng Địa và Ơng Tà có sự thay đổi
nhưng các “Ơng” vẫn là những vị thần quan trọng không thể thiếu trong đời sống
của người dân và là vị thần bảo trợ khơng chỉ là về đời sống vật chất mà cịn về đời
sống tinh thần của người dân vùng đất Nam Bộ.
19
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách:
Lê Hương, Người Việt Gốc Miên, 1969
Mai Thị Minh Thuy, Tín ngưỡng thờ Ơng Địa – Ông Tà của người Việt ở An
giang, Luận văn Thạc sĩ, Tháng 6-2016.
Kiêm Đạt, Phật giáo Khmer Đồng bằng Nam bộ
2. Tài liệu trên mạng:
- Ông Địa trong đời sống người dân Nam Bộ:
/>_nguoi_Nam_bo
- Ơng Tà mà khơng “tà”: />- Thổ cơng: />- Sự tích và Tục thờ Ơng Địa – Thần tài ngày Tết:
/>- Ơng Tà trong tín ngưỡng dân gian Nam bộ: />- Ông Tà, Ông Địa là ai ?: />- Ông Địa trong tâm thức dân gian miền Nam:
/>
20