_______________
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
ĐẠO CAO ĐÀI – DẤU ẤN TÔN GIÁO VÙNG
NAM BỘ
NĂM 2020
MỤC LỤC
PHẦN TỔNG QUÁT
3
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II. MỤC ĐÍCH VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
1. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
2. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
III. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
IV. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
a. Cở sở lý luận
b. Cở sở thực tiễn
3
3
3
3
4
4
4
4
PHẦN NỘI DUNG
5
I. SỰ HÌNH THÀNH CỦA ĐẠO CAO ĐÀI Ở NAM BỘ
1. BỐI CẢNH NAM BỘ
1.1. Dân cƣ Nam Bộ
1.2. Bối cảnh Nam Bộ tác động đến sự hình thành đạo Cao Đài
2. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
II. NHƢNG TÍN ĐỒ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
1. ÔNG NGÔ VĂN CHIÊU
2. ÔNG LÊ VĂN TRUNG
3. ÔNG PHẠM CÔNG TẮC
III. GIÁO LÝ, SỰ THỜ PHỤNG, LUẬT LỄ VÀ LỄ NGHI CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
1. GIÁO LÝ CƠ BẢN
2. SỰ THỜ PHỤNG
2.1. Thờ Thiên nhãn
2.2. Thờ ngũ chi
2.3. Các Đấng Chí tơn
3. LUẬT LỆ VÀ LỄ NGHI
3.1. Luật lệ
3.2. Lễ nghi
5
5
5
6
7
8
8
9
10
11
11
12
13
13
13
14
14
15
PHẦN TỔNG KẾT
16
*MỘT SỐ HÌNH ẢNH LIÊN QUAN
17
*TÀI LIỆU KHAM THẢO
20
2
ĐẠO CAO ĐÀI – DẤU ẤN TÔN GIÁO VÙNG NAM BỘ
_________
PHẦN TỔNG QUÁT
I.
Lý do chọn đề tài
Tôn giáo đƣợc coi là lĩnh vực về tinh thần ảnh hƣởng không nhỏ tới cuộc sống của
con ngƣời. Trong quá trình hình thành và phát triển, tôn giáo đã tác động khá sâu sắc
và tồn diện từ đời sống văn hóa, xã hội đến tâm lý, đạo đức, lối sống. Đến các quan
điểm triết học nhận định thế giới hay cách ứng xử xã hội, ảnh hƣởng cả các dạng nghệ
thuật hay phong tục, tập quán… của nhiều quốc gia, dân tộc.
Bản thân mỗi tôn giáo chứa đựng một kho tàng kiến thức phong phú về lịch sử, tƣ
tƣởng, triết học, đạo đức, văn hóa…Việc tìm hiểu chúng để có cái nhìn đúng đắn về
các tôn giáo để củng cố, phát triển tôn giáo đó. Đó là điều cần thiết trong xã hội hiện
nay, khi cả thế giới và nƣớc ta đang trong q trình hội nhập, giao lƣu kinh tế, văn
hóa thì việc thiết yếu nhất trong thời kỳ này là hội nhập mà khơng hịa tan các giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc và tôn giáo cũng là một phần trong đó. Đặc biệt là
với một tơn giáo địa phƣơng nhƣ đạo Cao Đài ở Nam Bộ. Ta cần phát huy các giá trị
nhân văn, tốt đẹp của các tơn giáo vì mục đích chung phục vụ cuộc sống và sự phát
triển của xã hội.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc chọn đề tài nghiên cứu này là vì đạo Cao Đài
đã kết hợp đƣợc những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới để tạo nên một nét
văn hóa tơn giáo riêng biệt, sau đó trở thành một trong những tơn giáo lớn ở nƣớc ta
nói chung và ở Nam Bộ nói riêng. Để góp phần làm rõ hơn các giá trị văn hóa mà đạo
Cao Đài và những tác động của nó trong đời sống cƣ dân Nam Bộ, nên đã lựa chọn đề
tài mong muốn qua đó có thể phát huy tốt các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài ở Nam
Bộ hiện nay.
II.
Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về quá trình hình thành cũng nhƣ các giáo lý, lễ nghi của đạo Cao Đài
để qua đó thấy đƣợc nét đặ sắc, ý nghĩa, vai trò của nó trong đời sống cƣ dân Nam Bộ
góp phần khẳng định và phát huy các giá trị văn hóa của nó trong đời sống cƣ dân
Nam Bộ hiện nay
2. Đối tƣợng nghiên cứu
3
Đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu là các luật lệ, lễ nghi hành đạo… những vấn đề đã
làm hình thành nên các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cƣ dân Nam
Bộ trƣớc đây và hiện nay.
III. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp là tổng hợp và phân tích tài liệu, tức là sử dụng thơng tin trong các
tài liệu để rút ra thông tin cần thiết cho mục đích nghiên cứu của đề tài. Phƣơng pháp
này chủ yếu thực hiện thông qua các tài liệu sách báo, luận văn… Hiện nay, sự bùng
nổ của khoa học công nghệ giúp nguồn thông tin thêm đa dạng, phong phú tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho ngƣời nghiên cứu thu thập và xử lý thông tin khi không thể
tiếp xúc trực tiếp với đối tƣợng cần nghiên cứu.
IV. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
a. Cở sở lý luận
Theo wikepidia “Tơn giáo hay giáo phái có thể được định nghĩa là một hệ thống
các văn hố, tính ngưỡng, đức tin bao gồm các hành vi và hành động được chỉ định
cụ thể, các quan niệm về thế giới, thể hiện thông qua các kinh sách, khải thị, các địa
điểm linh thiêng, lời tiên tri, quan niệm đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân
loại với các yếu tố siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh” (wikipedia.org/wiki/Tôn_giáo)
Hay theo Nguyễn Thanh Xn “Tơn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và
phát triển từ hàng ngàn năm nay, và sẽ tồn tại cùng với loài người trong một thời
gian khó mà đốn định trước được” (Nguyễn Thanh Xuân , Một Số Tôn Giáo Ở Việt
Nam, Nxb. Tôn Giáo, 2007, tr.5)
Tôn giáo là một điều thiết yếu trong đời sống con ngƣời, khi mọi thứ vƣợt sự hiểu
biết của con ngƣời thì chúng ta thƣờng sẽ tìm đến tốn giáo, tín ngƣỡng-những cái siêu
nhiên. Đó nhƣ là một nguồn sáng giúp con ngƣời có thêm sức mạng niềm tin vƣợt qua
mọi khó khăn, thử thách. Dù bạn có theo đạo hay khơng đạo thì cũng khơng thể phủ
nhận lợi ích, vai trị, ý nghĩa mà tơn giáo đem lại cho chúng ta. Từ đó có thể thấy tầm
quan trọng của mỗi tôn giáo đối với cƣ dân mỗi quốc gia, dân tộc từ quá khứ cho đến
hiện tại và tƣơng lai.
b. Cở sở thực tiễn
Mấy thập kỷ gần đây, vấn đề tín ngƣỡng, tơn giáo đƣợc nhiều ngƣời quan tâm,
theo dõi trên cả phƣơng diện lý luận cũng nhƣ thực tiễn. Việt Nam là một quốc gia có
nhiều hình thức tín ngƣỡng, tơn giáo và đang có xu hƣớng ngày càng phát triển. Việt
Nam hiện có 06 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hồ
Hảo. Khác với các tơn giáo khác chủ yếu là du nhập từ nƣớc ngoài vào Việt Nam thì
Cao Đài và Hịa Hỏa là tơn giáo bản địa.
4
Đạo Cao Đài đƣợc hình thành tại Việt Nam, là sự dung hịa các tin hoa văn hóa
của các tơn giáo lớn trên thế giới và đƣợc biến đổi để phù hợp với tryền thống, văn
hóa dân tộc Việt Nam. Đạo Cao Đài ra đời trong khoảng thời gian đất nƣớc gặp khó
khăn, điều đó cũng ảnh hƣởng rất nhiều đến q trình hình thành của đạo.Có thời gian
đạo tan rã nhƣng với lòng tin của những ngƣời theo đạo để đến hơm nay thì Cao Đài
là một trong sáu tôn giáo lớn ở Việt Nam và là một tôn giáo tiêu biểu đại diện cho cƣ
dân Nam Bộ.
PHẦN NỘI DUNG
Đạo Cao Đài hay Cao Đài giáo là một tôn giáo địa phƣơng, đƣợc thành lập ở
Miền Nam của Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, năm 1926. Tên gọi Cao Đài theo nghĩa
đen chỉ "một nơi cao", nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thƣợng đế ngự trị, cũng là
danh xƣng rút gọn của Thƣợng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xƣng đầy đủ
là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Để tỏ lịng tơn kính, một số các tín đồ
Cao Đài thƣờng gọi tơn giáo của mình là Đạo Trời. Hiện nay, đạo Cao Đài có khoảng
2,5 triệu tín đồ thuộc 10 hệ phái, 01 pháp môn tu hành, trên 10.000 chức sắc, hơn
1.200 cơ sở thờ tự hoạt động ở 37 tỉnh, thành phố.
I. Sự hình thành của đạo Cao Đài ở Nam Bộ
1. Bối cảnh Nam Bộ
1.1. Dân cƣ Nam Bộ
Nam Bộ đƣợc hình thành qua quá tình lịch sử với nhiều tên gọi khác nhau nhƣ:
Nam Kỳ, Nam Kỳ Lục Tỉnh, Nam Việt, Gia Định,… Về vị trí thì Nam Bộ ở cuối bản
đồ Việt Nam, có diện tích hơn 67km2 , có 19 tỉnh thành, và đƣợc ngƣời Việt (chiếm
đa số) và một số dân tộc ngƣời khác khai phá cách đây 300 năm. Nam Bộ đất rộng
ngƣời thƣa với cƣ dân chủ yếu di cƣ từ nơi khác đến. Đây là vùng đất ngự cƣ của
nhiều dân tộc nhƣ Viêt, Khmer, Hoa, Chăm…nên cũng là nói tụ hội của nhiền nền
văn hóa khác nhau giữa các dân tộc.
Nhƣng trong đó nổi trội nhất vẫn là văn hóa của ngƣời Việt, là những ngƣời
nghèo khổ khơng sống nổi ở “Đàng Trong” nên di cƣ vào đây. Trong đó cịn có một
phần các binh lính, quan lại mang nhiệm vụ vào đây khai hoang, gìn giữ biên giới,
nên mang theo gia đình vào vùng đất mới. Cũng có một phần là tù nhân, bị lƣu đầy và
những ngƣời bị truy nã về chính trị. Vì chiếm dân số đơng nhất khu vực Nam Bộ, nên
họ giữ vai trị chủ yếu về kinh tế, chính trị từ hàng trăm năm qua đã làm cho yếu tố
văn hóa Việt có sự ảnh hƣởng mạnh mẽ trên toàn vùng đất Nam Bộ. Sau mới đến văn
hóa của ngƣời Hoa, họ cũng di cƣ vào nƣớc ta do chính trị từ nƣớc họ.Tiếp đến là
5
Khmer, tuy là dân bản địa nhƣng lại thƣa thớt, ngồi ra cịn có văn hóa các dân tộc
thiểu số khác nhƣng không phổ biến nhiều.
1.2. Bối cảnh Nam Bộ tác động đến sự hình thành đạo Cao Đài
Cũng chính sự đa dạng, pha trộn văn hóa ấy mà Nam Bộ trở thành nơi có nhiều
tơn giáo bản địa nhất cả nƣớc, trong đó tiêu biểu phải kể đến các tôn giáo nhƣ Tứ Ân
Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hƣơng, Hịa Hảo, hay Cao Đài – một tơn giáo dung hịa văn
hóa của các tơn giáo lớn trên thế giới. Đạo Cao Đài ra đời trong thời kỳ đất nƣớc đang
trải qua khó khăn, thời gian là giữa hai cuộc thế chiến thế giới, thực dân Pháp đang
đẩy mạnh khai thác thuộc địa lần hai ở nƣớc ta, với các phong trào yêu nƣớc đang
diễn ra sôi nổi trên cả nƣớc.
Nguyên nhân ra đời của đạo Cao Đài một phần cũng liên quan đến yếu tố kinh tế,
chính trị. Trong cả nƣớc Nam Bộ là nơi thực dân Pháp vơ vét, bóc lột. Khi các cuộc
đấu tranh nổ ra liên tục nhƣng cũng nhanh chống thất bại, do lúc đó chƣa có sự dìu
dắt của Đảng Cộng Sản, ngƣời dân rơi vào sự đau khổ, tuyệt vọng. Thất bại, bế tắc
trong cuộc sống và trong cuộc đấu tranh khiến một bộ phận quần chúng nhan dân tìm
đến các tơn giáo, đến với đạo Cao Đài nhƣ một sự an ủi, che chở.
Lúc bấy giờ tuy liên tục thất bại, nhƣng do khơng chịu đƣợc áp bức bóc lột, cộng
với tinh thần yêu nƣớc luôn sục sôi của cƣ dân Nam Bộ, các cuộc đấu tranh vẫn liên
tục nổ ra, dù dƣới bất cứ hình thức nào, kể cả tín ngƣỡng, tơn giáo cũng gây tiếng
vang rất lớn. Do đó “Điều này làm rõ thêm đạo Cao Đài lúc mới ra đời mang nội
dung chống Pháp, đã thu hút đông đảo quần chúng tin theo” (Nguyễn Thanh Xuân ,
Một Số Tôn Giáo Ở Việt Nam, Nxb. Tôn Giáo, 2007, tr.308)
Theo Nguyễn Thanh Xuân thì “Một vấn đề tư tưởng quan trọng dẫn đến việc ra
đời và sự phát triển của đạo Cao Đài là sự khủng hoảng, suy thoái của các tôn giáo,
đạo ly đương thời.” (Nguyễn Thanh Xuân , Một Số Tôn Giáo Ở Việt Nam, Nxb. Tôn
Giáo, 2007, tr.309). Trƣớc đó đa số cƣ dân Nam Bộ theo đạo Phật, đạo Nho và một số
ít theo đạo Cơng Giáo. Do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan mà Phật giáo dần
bị suy thoái, ngƣời dân phê phán Phật giáo mạnh mẽ, chùa chiền thì khơng đƣợc sửa
sang, kinh sách không đƣợc xuất bản, tông mông bị lu mờ. Cịn đối với Cơng Giáo
ngƣời dân cho rằng nó gắn liền với thực dân Pháp xâm lực, nên họ khinh thƣờng, căm
ghép. Nho giáo thì là do các tƣ tƣởng, đạo lý đã lỗi thời, sớm khơng cịn phù hợp với
các nhu cầu xã hội thời bấy giờ của Việt Nam nói riêng và Nam Bộ nói chung .
Lịch sử của đạo Cao Đài còn gắn liền với sự phổ biến Cơ bút (Đàn cơ) tại Việt
Nam đầu thế kỷ XX. “Đàn cơ (hoặc Cơ bút) là một phƣơng tiện để qua đó ngƣời ta
tiến hành cầu cơ. Cầu cơ là những hoạt động để con ngƣời liên hệ trực tiếp với thần
linh, qua đó cầu xin các đấng siêu nhiên ban cho ngƣời ta những điều cơ mật, nhƣ bài
6
thuốc chữa bệnh…” (Nguyễn Đức Lữ chủ biên, Lý Luận Về Tơn Giáo và Chính Sách
Tơn Giáo Ở Việt Nam, Nxb Tôn Giáo, 2007, tr.259). Cơ bút là nền tảng căn bản cũng
nhƣ mọi yếu tố liên quan đến quá trình hình thành và phát triển của tơn giáo Cao Đài
từ quá khứ đến hiện tại, từ việc thu nhận tín đồ, phong chức sắc, ban hành luật đạo,
các nghi thức cúng tế, phẩm phục, kinh điển, thậm chí đến các thiết kế cơ sở thờ tự
cũng đƣợc thông qua bởi hình thức Cơ bút.Hai hình thức Cơ bút ảnh hƣởng đến sự ra
đời của tôn giáo Cao Đài là thuật Xoay Bàn theo thuyết Thông linh học ở Phƣơng Tây
và tục cầu hồn, cầu tiên ở Phƣơng Đông.
2. Sự ra đời của đạo Cao Đài
Ngày 28/09/1926, 28 ngƣời sáng lâp đạo Cao Đài làm đơn, kèm theo chữ ký của
247 tín đồ, gửi thống đốc Nam Kỳ xin phép khai đạo. Đƣợc sự đồng ý của chính
quyền thức dân, trong 3 ngày, từ ngày 18-20/11/1926 lễ khai đạo Cao Đài đƣợc tổ
chức long trọng tại tại chùa Từ Lâm (hay còn gọi là chùa Gò Đen) thuộc huyện Hòa
Thành, tỉnh Tây Ninh. Ngay khi mới thành lập, đạo Cao Đài đã thu hút đƣợc sự
hƣởng ứng của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giai cấp nông dân tham gia đông
đảo, bởi tinh thần dung hợp giáo lý, lễ nghi nhiều tôn giáo của Cao Đài vừa gần gũi
trong đời sống văn hóa, vừa mang tính huyền bí phù hợp với tâm linh của ngƣời dân
Nam Bộ.
Số liệu cho thấy “Tín đồ đạo Cao Đài, vào cuối năm 1926 có 50 ngàn ngƣời, đến
năm sau đã lên tới gần 300 ngàn, năm 1954 có khoảng trên dƣới 2 triệu tín đồ và năm
1975 khoảng gần 3 triệu ngƣời” (Nguyễn Đức Lữ chủ biên, Lý Luận Về Tôn Giáo và
Chính Sách Tơn Giáo Ở Việt Nam, Nxb Tơn Giáo Hà Nội, 2007, tr.259). Tuy từ khi
ra đời cho đến nay số tín đồ cũng nhƣ sức ảnh hƣởng của đạo Cao Đài không ngừng
mở rộng, nhƣng trên thực tế đạo Cao Đài chỉ hoạt động chủ yếu ở vùng Nam Bộ, càng
đi dần ra phía Bắc tín đồ càng ít.
Khi ra đời, đạo Cao Đài là một tổ chức thống nhất với cơ quan đầu não là Tòa
Thánh Tây Ninh. Nhƣng ra đời đƣợc ít năm, đạo Cao Đài đã có mâu thuẫn giẵ các cá
nhân có chức sắc dẫn đến sự rạn nút nội bộ. Tuy nhiên phải đến năm 1934 mới chính
thức chia thành các chi phái. Bằng việc ông Nguyễn Ngọc Tƣơng và Lê Bá Trang –
hai chức sắc cấp cao vì bất đồng với hai ông Lê Văn Trung và Phạm Công Tắc về
việc điều hành Giáo hội đã rời khỏi Tòa thánh Tây Ninh về Bến Tre lập chi phái
riêng. Trong khoảng thời gian những năm 1930, 1940 đạo Cao Đài chia rẽ thành các
chi phái tồn tại cho đến ngày nay và không có thay đổi là mấy. Cụ thể là các chi phái:
Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh (gốc của đạo Cao Đài, có Tịa Thánh Tây Ninh), Cao
Đài Ban Chỉnh Đạo ( có Tịa thánh Tổ đình ở Bến Tre), Cao Đài Tiên Thiên (có Tịa
Thánh Tổ đình ở Bến Tre), Cao Đài Minh Chơn Ly ( có Tịa Thánh Tổ đình ở Mỹ
7
Tho), Cao Đài Minh Chơn Đạo (có Tịa Thánh Tổ đình ở Bạc Liêu), Cao Đài Bạch y
Liên đồn Chơn Lý (có Tịa Thánh Tổ đình ở Rạch Giá), Truyền giáo Cao Đài (có
Tịa Thánh Tổ Đình ở Đà Nẵng), Cao Đài Cầu Kho Tam Quan (có Tịa Thánh Tổ đình
ở Bình Định) và Cao Đài Chiếu Minh (có Tịa Thánh Tổ đình ở Cần Thơ)
Nhƣng tín đồ đầu tiên của đạo Cao Đài
Quá trình hình thành đạo Cao Đài gắn với một số nhân vật đến nay đã đi vào lịch
sử của đạo Cao Đài nhƣ những bậc sáng lập đạo nhƣ Vƣơng Quan Kỳ, Cao Quỳnh
Cƣ, Cao Hoài Sang,... Nếu kể ra hết thì rất nhiều nên chỉ liệt kê một vài nhân vật tiêu
biểu đƣợc coi là tín đồ đầu tiên của đạo Cao Đài.
1. Ơng Ngơ Văn Chiêu
II.
Chân dung ông Ngô Văn Chiêu
Nguồn: />Tên thật của ông là Ngô Văn Chiêu (có sách gọi Ngô Minh Chiêu), sinh ngày 8
tháng 2 năm 1878 tại làng Bình Tây, tổng Tân Phong Hạ, hạt Chợ Lớn trong một ngơi
nhà nhỏ ở phía sau chùa Quan Đế,trong một gia đình nghèo, dịng dõi quan lại Huế.
Năm 1902 ơng đƣợc bổ nhiệm làm tri phủ ở Phú Quốc. Chịu ảnh hƣởng của ngƣời
dƣợng rể vốn là một tín đồ Minh Sƣ đạo, từ nhỏ ông đã đƣợc tiếp xúc với văn hóa
Đạo giáo, nên rất tơn sùng các vị thần tiên, đặc biệt rất hâm mộ hình thức cơ bút để
giao tiếp với giới thần tiên, vốn khá thịnh hành bấy giờ. Từ đó ơng sống cuộc đời nhƣ
một tín đồ Đạo giáo, thƣờng xuyên tổ chức hoặc tham gia các đàn cơ bút để hình
thành đƣờng lối tu luyện. Qua những buổi cầu cơ đó, ơng Chiêu đã đặt niềm tin vào
“thế giới siêu linh”, một thế giới “hƣ ảo” mà nội dung tôn giáo đề cập.
8
Thế giới hƣ ảo đó là nơi tồn tại của các đấng siêu linh, trong đó “Cao Đài Tiên
Ơng” giảng đàn ở Tân An đã chở thành một trong những đấng siêu linh quan trọng
trong “thế giới hƣ ảo” của đạo Cao Đài. Sau đó , đấng siêu linh này thƣờng xuất hiện
trong các buổi cầu cơ của ông Chiêu tại Hà Tiên và Phú Quốc. Năm 1921, thông qua
các buổi cầu cơ tại Phú Quốc, đáng “Cao Đài Tiên Ông” đã nhận ông Chiêu làm đệ
tử, khuyên ông ăn chay trƣờng và luyện tâm pháp. Cũng trong năm này, ông Chiêu dã
bắt đầu thờ Thiên Nhãn (Mắt trời) và đã cụ thể hóa “thế giới hƣ ảo” bằng cảnh “Bồng
Lai” hi cho rằng mình đã đƣợc “Tiên ơng” tƣởng thƣởng cho công phu tu hành bằng
việc cho thấy “Tiên cảnh” (có nghĩa là ơng Ngơ Văn Chiêu thờ Cao Đài khi Cao Đài
chƣa ra đời). Ông thƣờng gặp gỡ trao đổi với bạn bè về thuyết này và tổ chức cầu cơ,
hình thành nhóm cơ bút do ơng và ông Vƣơng Quan Kỳ làm nồng cốt, gọi là nhóm Cơ
bút Chiêu – Kỳ. Ông thƣờng gặp bạn bè loan báo về sự phát hiện của mình về Đấng
Cao Đài à đƣợc mọi ngƣời, nhất là ông Lê Văn Trung và Phạm Cong Tắc, nhiệt liệt
hƣởng ứng.
Tuy nhiên, đến cuối năm 1926, khi phong trào Cao Đài phát triển rầm rộ, ơng
Ngơ Văn Chiêu khơng muốn có sự rắc rối, ồn ào nên nhƣờng sự lãnh đạo Cao Đài cho
ông Lê Văn Trung để trở về Cần Thơ tu luyện và cầu cơ,sau này hình thành phái Cao
Đài Chiếu Minh Tam thanh Vơ vi. Ơng Ngơ Văn Chiêu qua đời năm 1933 tại Cần
Thơ
2. Ơng Lê Văn Trung
Quyền Giáo Tơng Lê Văn Trung
Nguồn: />9
Ông Lê Văn Trung 1875 trong một gia đình tiểu nông, ở làng Phƣớc Lâm, tổng
Phƣớc Điền Trung, tỉnh Chợ Lớn. Thân phụ của ông là Lê Văn Thanh, mất khi ông
mới đƣợc vài tháng. Thân mẫu là Văn Thị Xuân, một ngƣời đàn bà nhân hậu. Năm
1893, ông tốt nghiệp trƣờng trung học Chasseloup Laubat và đucợ bổ nhiệm làm thƣ
ký ở phủ Thống đốc Nam Kỳ. Năm 1920 ông bị thua lỗ trong kinh doanh và đến năm
1924 thì bị phá sản. Sau khi thất bại trong doanh nghiệp, ông quay vào hoạt động tô
giáo.
Theo tài liệu của tơn giáo Cao Đài thì ngày 7 tháng 1 năm 1926 (tức 23 tháng 11
năm Ất Sửu), các ông Cao Quỳnh Cƣ, Phạm Công Tắc đem Đại Ngọc Cơ đến nhà
ông Trung để cầu cơ. Tại lần cầu cơ này, ông đƣợc nhận làm môn đồ. Từ đó, ông bắt
đầu lập bàn thờ đạo tại tƣ gia, dốc lòng cùng với các ông Phạm Công Tắc và Cao
Quỳnh Cƣ lo việc mở đạo. Nhờ sự thông minh, tài ngoại giao, kiến thức đạo giáo sâu
sắc, ơng đã nhanh chóng tiếp thu sứ mệnh khai đạo của ông Ngô Văn Chiêu và trở
thành một trong những nhân vật sáng lập đạo Cao Đài. Ơng chính là ngƣời chủ chốt
cùng 27 đệ tử Cao Đài khác, gởi Tờ Khai Đạo, kèm danh sách 247 tín đồ đầu tiên, lên
Thống đốc Nam Kỳ vào ngày 7/10/1926. Sau đó, ngày 15/10/1926, ơng cùng các môn
đồ chủ chốt khác tổ chức Lễ Khai Đạo rất trọng thể tại chùa Gị Kén (Tây Ninh). Ơng
trực tiếp đảm nhận làm Giáo tôn đứng đầu Cửu Trùng đài- cơ quan hành pháp của đạo
Cao Đài.
3. Ơng Phạm Cơng Tắc
Chân dung ông Phạm Công Tắc
Nguồn: />10
Ông Phạm Công Tắc sinh năm 1893 trong một gia đình Cơng giáo ở Tây Ninh và
cũng học ở trƣờng Chasseloup Laubat. Thời gian học trung học, Phạm Công Tắc tham
gia tích cực trong phong trào Đơng Du tại Sài Gịn do hai ơng Gilbert Trần Chánh
Chiếu và Dƣơng Khắc Ninh lãnh đạo. Năm 1908, ông đƣợc Hội Minh Tân, một tổ
chức con của phong trào Đông Du, chuẩn bị đƣa đi nƣớc ngồi; nhƣng sau đó, bị bại
lộ khơng đi đƣợc. Do bị chính quyền chú ý theo dõi, ông phải bỏ học. Sau khi bị lộ,
ông chuyển sang hoạt động Cao Đài, hình thành nhóm Cơ bút do ông và ông Cao
Quỳnh Cơ làm nồng cốt, gọi là nhóm Cơ bút Cao – Phạm.
Sau khi đạo Cao Đài ra đời, ông Phạm Công Tắc trở thành Hộ pháp đứng đầu
Hiệp Thiên Đài – cơ quan lập pháp đạo Cao Đài. Từ khi ông Lê Văn Trung chết (
năm 1934), ông trở thành ngƣời lãnh đạo tối cao của đạo Cao Đài nắm cả hai cơ quan
lập pháp và hành pháp.
III.
Giáo lý, sự thờ phụng, luật lễ và lễ nghi của đạo Cao Đài
1. Giáo lý cơ bản
Các tín đồ Cao Đài tin rằng Thƣợng đế là Đấng sáng lập ra vũ trụ và hình thành
nên các tơn giáo. Theo thời gian, tùy theo địa phƣơng, Thƣợng đế đã hình thành các
tơn giáo khác nhau để phù hợp với thời điểm và địa điểm, và đƣợc phân làm 3 kỳ phổ
độ với ba nhánh khác nhau.
+ Nhất kỳ Phổ độ: Là thời kỳ hình thành các tơn giáo trên thế giới gồm Phật
giáo, Kì Na giáo ở Ấn Độ, Lão giáo, Nho giáo ở Trung Hoa, Do Thái giáo ở Trung
Đông. Thời kỳ này Thƣợng đế mặc khải cho các đệ tử đầu tiên thay mặt mình để
truyền đạo.
+ Nhị kỳ Phổ độ: Là thời kỳ chấn hƣng các nền tơn giáo trên thế giới. Các tín đồ
Cao Đài cho rằng sau một thời gian phổ độ, các giáo lý đƣợc Thƣợng đế truyền dạy
theo thời gian đã bị các tín đồ diễn giải sai lạc, khơng cịn mang đúng giáo lý nguyên
thủy của Ngài. Vì vậy, Thƣợng đế một lần nữa đã truyền dạy cho các đệ tử của mình
ở các nơi trên thế giới, thực hiện hiện vụ chấn hƣng nền đạo. Từ đó hình thành Phật
giáo Đại thừa, Phật giáo Tiểu thừa, Jaina giáo, Tiên giáo, Khổng Mạnh giáo, Cơ Đốc
giáo và Hồi giáo. Thời kỳ này các tôn giáo đƣợc chấn hƣng và phát triển mạnh mẽ,
vƣợt ra khỏi ranh giới vùng miền quốc gia, dần truyền bá ra thế giới.
+ Tam kỳ Phổ độ: Là thời kỳ tất cả các tôn giáo đều hợp thành một tôn giáo duy
nhất dƣới quyền cai quản Thƣợng đế, đƣợc Thƣợng đế điều hành, truyền giảng thơng
qua hình thức cơ bút. Đây cũng là lý do một số tín đồ gọi tơn giáo của họ là "Đạo
Thầy" với hàm ý họ là những ngƣời thọ giáo trực tiếp từ Thƣợng đế.
11
Giáo lý đạo Cao Đài khơng có hệ thống các tín điều dựa trên cơ sở triết học, thần
học nhƣ những tôn giáo khác, mà là sự kết hợp của các tin ngƣỡng tôn giáo cổ, kim,
đông, tây.
Đạo Cao Đài có chủ trƣơng “quy nguyên tam giáo” và “hiệp nhất ngũ chi”. “Quy
nguyên tam giáo” đƣợc hiểu là hợp nhất ba tôn giao lớn ở phƣơng Đông: Phật giáo,
Lão giáo và Nho giáo, với ba tƣ tƣởng: từ bi (Phật), bác ái (Lão), cơng bình (Nho).
Cịn “Hiệp nhất ngũ chi” tức là thống nhất 5 ngành đạo: Nhân đạo (do Khổng Tử chủ
chƣơng), Thần đạo (do Khƣơng Tử Nha lập), Thánh đạo (do Gie-su Kito lập), Tiên
đạo( do Lão Tử lập) và Phật đạo (do Thích Ca Mâu Ni lập).
Trung tâm giáo lý của đạo Cao Đài là sự thể hiện các tƣ tƣởng của Phật giáo, Lão
giáo và Nho giáo, từ đó, bộc lộ ý đồ là “tơn giáo của các tơn giáo” và giáo lý của đạo
mang tính dung hợp đến phức tạp. Vì thế, để hiểu đƣợc bản chất của tơn giáo này, địi
hỏi phải có nhận thức nhất định về giáo lý của nhiều tôn giáo khác nhau. Đối với tín
đồ của đạo Cao Đài, sự phức tạp của giáo lý đƣợc chấp nhận tự giác, thông qua việc
thực hành giáo luật, lễ nghi và tuân thủ tổ chức, đƣợc thẩm thấu hàng ngày và trở
thành phong tục tập quán của họ.
2. Sự thờ phụng
Sự tổng hợp giáo lý của các tôn giáo đƣợc thể hiện rõ ràng trong việc thờ phụng
của đạo Cao Đài
Nguồn: />12
2.1. Thờ Thiên nhãn
Một trong những đặc điểm của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ gọi tắt đạo Cao đài đó là
biểu tƣợng Thiên Nhãn, Thiên Nhãn là Mắt Trời, thờ Thiên Nhãn tức là thờ Trời.
Trên Quả Càn Khôn, Ðức Chí Tơn bảo vẽ Thiên Nhãn ngay phía trên ngơi sao Bắc
Ðẩu, Ðức Chí Tơn ngự tại ngơi Bắc Ðẩu. Lý do vẽ có một con mắtlà vì mỗi ngƣời có
một tâm, nên bề ngồi vẽ một con mắt mà thơi, hễ mình thấy con mắt đó cũng nhƣ
mình thấy tâm mình; khi ngƣời nào thấy đƣợc cái tâm mình thì mới biết rõ nó ra sao
mà kiềm chế, sửa chữa nó cho đƣợc tồn diện. Đạo Cao Đài cịn cho rằng hình ảnh
con mắt đại diện cho thờ Thƣợng đé, cho rằng Thiên Nhãn trong sáng nhƣ gƣơng nên
khơng mảy may gì xảy ra dƣới phàm trần, dù lớn nhỏ, lành dữ mà Thƣợng đé không
biết
2.2. Thờ ngũ chi
Phía dƣới Thiên Nhãn là một ngơi sao lớn, đó là sao Bắc đẩu, trung tâm của Càn
Khôn Vũ Trụ. Đây là nơi ngự của Đức Chí Tơn nên phải vẽ Thiên Nhãn ngay phía
trên sao Bắc đẩu.Hai bên sao Bắc đẩu có vẽ mặt trời và mặt trăng. Hợp lại là Nhật,
Nguyệt, Tinh. Đó là Tam bửu của Trời.
2.3. Các Đấng Chí tơn
Các Đấng ngồi bên dƣới kể ra từ trên xuống dƣới:
+ Đức Phật Thích Ca ngồi giữa, đắp y vàng, ngồi kiết già trên tòa sen, là Giáo
chủ Phật giáo.
+ Đức Lão Tử, ngồi bên tay phải của Đức Phật Thích Ca, mặc áo đạo màu xanh,
tay cầm phất chủ, râu bạc trắng, đầu để trần. Ngài là Giáo chủ Tiên giáo.
+ Đức Khổng Tử, ngồi bên tay Trái của Đức Thích Ca, mặc áo đạo màu hồng,
râu bạc trắng, đầu đội mũ. Ngài là Giáo chủ Nho giáo.
Nhƣ vậy, ở hàng ngang này là hình của Ba Đấng Giáo chủ Tam giáo thời Nhị Kỳ
Phổ Độ. Tiếp đến là:
+ Đức Lý Thái Bạch, ngồi hàng giữa, ngay phía dƣới Đức Phật Thích Ca, có râu
dài và đen, đầu đội mũ cánh chuồn. Ngài là một vị Đại Tiên Trƣởng, giữ chức Nhất
Trấn Oai Nghiêm, thay mặt Đức Lão Tử, cầm quyền Tiên giáo thời Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ.
+ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, ngồi phía tay Phải của Đức Lý Thái Bạch, là vị Nữ
Phật ngự trên tòa sen. Ngài là Nhị Trấn Oai Nghiêm, thay mặt Đức Phật Thích Ca,
cầm quyền Phật giáo thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
+ Đức Quan Thánh Đế Quân, ngồi phía tay trái của Đức Lý Thái Bạch. Ngài là
Tam Trấn Oai Nghiêm, thay mặt Đức Khổng Tử, cầm quyền Nho giáo thời Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ.
13
Ba Đấng: Lý Thái Bạch, Quan Âm Bồ Tát, Quan Thánh Đế Quân, là Tam Trấn
Oai Nghiêm của đạo Cao Đài, cầm quyền Tam giáo thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
+Đức Chúa Jésus (Kitô Giáo chủ), ngồi hàng giữa, ngay dƣới Đức Lý Thái
Bạch,. Ngài là Giáo chủ của Kitô giáo thời Nhị Kỳ Phổ Độ.
+Đức Khƣơng Thƣợng Tử Nha, ngồi hàng giữa, ngay phía dƣới Đức Chúa Jésus.
Ngài cầm Bảng Phong Thần, đứng đầu Thần vị.
Bảy cái ngai, đặt phía dƣới các Đấng, sơn son thếp vàng: ngai giữa lớn nhất là
ngôi Giáo Tông, 3 ngai kế dƣới dành cho 3 vị Chƣởng Pháp ba phái Thái- Thƣợng Ngọc, 3 ngai kế dƣới nữa dành cho 3 vị Đầu Sƣ ba phái. Bảy ngai này tƣợng trƣng 7
Chức sắc cao cấp nhất của Cửu Trùng Đài cầm quyền Đạo Cao đài trong cơ phổ độ
nhơn sanh của Đức Chí Tơn.
Sự trình bày Thánh tƣợng Thiên Nhãn - Ngũ Chi của đạo Cao đài gồm đủ các
Đấng Giáo chủ các tôn giáo thời Nhị Kỳ Phổ Độ và Tam Trấn Oai Nghiêm của Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nói lên tôn chỉ của Đạo Cao đài là: Tam giáo qui nguyên, Ngũ
Chi phục nhất. Hai bên Thánh tƣợng Thiên Nhãn - Ngũ Chi trên Thiên bàn thƣờng có
đơi liễn chữ Nho, viết ra nhƣ sau:
“Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.”
Đôi liễn này là cặp trạng trong bài thi của Đức Chí Tơn có in trong Thánh Ngơn
Hiệp Tuyển, nghĩa là:May mắn gặp đƣợc Đức Cao đài truyền ra nền Đại Đạo/Tốt đẹp
thay gặp Đấng Thƣợng Đế giáng xuống cõi trần.
3. Luật lệ và lễ nghi
3.1. Luật lệ
Luật lệ lễ nghi đạo Cao Đài đƣợc ghi trong các sách: Đại thừa chân giáo, Ngộc
đế chân truyền, Pháp chánh truyền, Tân luật, Thánh ngôn hợp tuyển. Có sự khác biệt
ít nhiều trong lt lệ lễ nghi giữa các tơng phái nhƣng có thể tóm tắt một số nội dung
nhƣ ngũ giới cấm và tứ đại điều quy. Ngũ giới cấm (tức 5 điều cấm kỵ) nhƣ của Phật
giáo là bất sát sinh ( không đƣợc làm hại đến cuộc sống của động vật), bất du đạo (tức
không trộm cắp, lừa gạt, tham lam hại ngƣời), bất tửu nhục (là không ăn thịt, uống
rƣợu), bất tà dâm (tức là không đƣợc lấy vợ hoặc chồng của ngời khác, không đƣợc
đàn điếm) và bất vọng ngữ (khơng đƣợc nói dối, nói thơ tục, nói khơng giữ lời). Cịn
tứ đại điều quy là tín đồ rèn luyện đạo đức theo 4 điều trau dồi đức hạnh: ôn hịa, cung
kính, khiêm tốn và nhƣờng nhịn. Ngồi ra cũng chú trọng giáo dục đạo đức cho tín đồ
theo tiêu chuẩn đạo đức Nho giáo, nhƣ tam cƣơng, ngũ thƣờng, tam tòng, tứ đức.
Về việc ăn chay, đạo Cao Đài bắt buộc tín đồ ăn chay, ít là từ 7 ngày (lục trai), 10
ngày (thập trai), nhiều nhất là chay trƣờng. Ngồi ra, đạo cịn quy định rất cụ thể về
14
nhập mơn cầu đạo, phải có 2 tín đồ dìu dắt, đảm bảo. Còn việc xây dựng thánh thất, tổ
chức quan, honn, tang, tế … đều có quy định chi tiết. Đạo có quy định, nơi nào có từ
500 tín đồ trở lên mới đƣợc lập họ đạo riêng.
3.2. Lễ nghi
Lễ nghi của đạo Cao Đài rất rƣờm rà, cầu kỳ và đucợ giải thích rằng lễ nghi cũng
phản ánh tinh thần tổng hợp các tơn giáo. Ví dụ: lễ phẩm gốm có 5 cây hƣơng tƣợng
trƣng cho tiến tình ngƣời theo đạo của đạo Phật gồm Giới – Định – Tuệ - Tri kiến –
Giải thốt. Có sách ghi chẹp lại thì 5 cây hƣơng cịn tƣợng trƣng cho ngũ hành kim mộc – thủy – hỏa – thổ. Đồ dâng cũng thì gồm rƣợu, trà, hoa tƣợng trƣng cho Tam
bảo : tinh – khí – thần, nền tảng của sự sống theo quan niệm của đạo Lão. Tín đồ dâng
lễ thì chân phải đi theo chữ “tâm” là dấu ấn của đạo Nho. Các lấy dấu thì theo đạo
Công giáo nhƣng không phải tƣợng trƣng cho Ba ngôi Thiên chúa: Cha – con – Thánh
thần mà là cho Tam bảo của Phật giáo gồm Phật, Pháp, Tăng.
Nhạc lễ của đạo Cao Đài thì gồm chng, trống và các nhạc cụ dân tộc. Lễ phục
của tín đồ là màu trắng, của chức sắc là dùng màu theo từng ngành: Thái (thuộc Phật)
màu vàng, Thƣợng (thuộc Lão) màu đỏ, Ngọc (thuộc Nho) màu xanh, nhƣng đƣợc cắt
may cầu kỳ theo thẩm phục của các vua quan phong kiến phƣơng Đông.
Kinh của Cao Đài gồm có Kinh cúng tứ thời, Kinh quan hôn, tang tế, Kinh thiên
đạo, Kinh thế đạo,… đƣợc biên soạn theo văn vần, đọc theo giọng nam ai, nam xuân
và các làn điệu dân ca Nam Bộ. Hàng ngày có 4 khóa lễ vào các giờ mão, ngọ, daauh
và tý. Hàng tháng có 2 ngày lễ Sóc, Vọng. Hàng năm có nhiều ngày lễ lớn hơn cả, là
mồng 9 tháng Giêng: vía Ngọc Hồng Thƣợng đế và 15 tháng Tám: Lễ Hội yến Diêu
trì Kim Mẫu (Phật bà Quan Âm). Ngồi ra, từng chi phái cịn có cac ngày lễ riêng kỷ
niệm ngày thành lập chi phái, ngày sinh, ngày giỗ của những ngƣời đứng đầu chi
phái,…
Một lễ nghi đƣợc tổ chức ở Tòa Thánh Tây Ninh
15
Nguồn: />
PHẦN TỔNG KẾT
Giáo lý, luật lệ, lễ nghi hay những vấn đề đƣợc nêu ở trên đã dẫn đến một số
ngƣời nhận xét đạo Cao Đài là một tôn giáo hỗn hộp, chỉ là phép cộng đơn thuần
những cái đã có sẵn trong các tơn giáo. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng, đạo Cao
Đài rất gần gũi và phù hợp với trình độ nhận thức của số đơng nơng dân Nam Bộ
trong những hồn cảnh kinh tế, xã hội nhất định. Hơn thế nữa, với luật lệ, lễ nghi,
cách thức hành đạo kế thừa và lƣu giữ những nhận nét văn hóa truyền thồng ở Nam
Bộ nên đã nhanh chóng ăn sâu vào cuộc sống ngƣời dân noi đây, trở thành phong tục
tập quán, lối sống của đông đảo quần chúng tín đồ.
Đạo Cao Đài có vai trị rất lớn đố với các tín đồ, chức sắc theo đạo. “ Đại đa số tín
đồ đạo Cao Đài đánh giá cao về ƣu điểm của tơn giáo mình rằng đã giúp họ hoàn
thiện đạo đức, lối sống cá nhân tốt đẹp hơn. Sinh hoạt đạo, tín đồ cịn cảm thấy lƣơng
tâm đƣợc thanh thản hơn.” (Nguyễn Đức Lữ, Lý Luận Về Tơn Giáo và chính sách tơn
giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn Giáo, 2007, tr. 272).
Trƣớc đây những ngƣời theo đạo Cao Đài đƣợc cho là mê tín dị đoan vì đạo một
phần liên quan đến cơ bút và một số điều có thể coi là lạc hậu so với các tôn giáo
khác. Nhƣng theo thời gian phát triển, đạo Cao Đài cũng có những sự thay đổi tích
cực và hƣớng tới khoa học hơn nhƣng vẫn giữ đƣợc các nét đặc sắc ban đầu. Ngày
nay, nhờ chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc, trong đó có chính sách tơn giáo,
nên hoạt động tơn giáo có nhiều hƣớng khởi sắc hơn, trong đó có đạo Cao Đài. Nhiều
chi phái của đạo đã xây dựng đƣợc hiến chƣơng, chƣơng trình hoạt động trong đạo…
phù hợp với luật pháp nhà nƣớc và đạo pháp. Nhiều hệ phái của đạo Cao Đài, trong
đó có Cao Đài Tây Ninh, đã đƣợc Nhà nƣớc công nhận tƣ cách pháp nhân
16
*Một số hình ảnh liên quan
Tịa Thánh Tây Ninh năm 1930
Nguồn: />
Tòa Thánh Tây Ninh hiện nay
Nguồn: />
17
Tòa Thánh Tây Ninh thờ Thiên Nhãn
Nguồn: />
Đang cử hành lễ bên trong Tòa Thánh Tây Ninh
Nguồn: />
18
Lễ hội Yến Diêu Trì Cung ở Tây Ninh
Nguồn: />
Múa Rồng Nhan tại Hội Yên Diêu Trì Cung
Nguồn: />
19
*Tài liệu kham thảo
1. Nguyễn Thanh Xuân , Một Số Tôn Giáo Ở Việt Nam, Nxb. Tôn Giáo, 2007.
2. Nguyễn Đức Lữ chủ biên, Lý Luận Về Tôn Giáo và Chính Sách Tơn Giáo Ở Việt
Nam, Nxb Tơn Giáo, 2007.
3. Nguyễn Duy Hinh, Một Số Bài Viết Về Tôn Giáo,Nxb. Khoa học Hà Nội, 2007.
4. Wikipedia, Tôn Giáo, wikipedia.org/wiki/Tôn_giáo.
5. Liên Thanh sƣu tập, Tiểu Sử Đức Ngô Văn Chiêu,
/>6. Kiến Thức, Hình Ảnh Hiếm Có Về Đạo Cao Đài Ở Tây Ninh Năm 1930,
/>7. Wikipedia, Đạo Cao Đài, , wikipedia.org/wiki/Đạo_Cao_Đài.
8. Tòa Thánh Tây Ninh, />9. Liên Thanh sƣu tập, Các Đấng Giáo Chủ Trong Cao Đài
/>10. Đại Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, />11. Nguyễn Tấn Hùng, Cội nguồn và ý nghĩa tâm linh của ngƣời đạo,
/>12. Lễ Ban Hành Đạo Lịnh Bổ Nhiệm Chức Sắc Hội Thánh Và Cửu Viện,
/>
20