----------
ĐỀ TÀI:
LỄ HỘI NGHINH ƠNG Ở BÌNH THẮNG,
BÌNH ĐẠI – NÉT ĐẸP TRONG VĂN HÓA CỦA
NGƯ DÂN VÙNG BIỂN BẾN TRE
TP. HỒ CHÍ MINH
1
MỤC LỤC
PHẦN TỔNG QUAN ............................................................................. ...............2
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 2
2. Mục đích nghiên cứu đề tài ................................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 3
5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu ......................................................... 3
PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................3
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN....................................3
1.1
Cơ sở lý luận.................................................................................................3
1.1.1. Khái niệm về “Văn hóa”................................................................................3
1.1.2. Khái niệm về “lễ hội”..................................................................................3
1.1.3. Khái niệm “lễ hội Nghinh Ông”...................................................................4
1.2. Cơ sở thực tiễn...............................................................................................4
CHƯƠNG II: TÌM HIỂU VỀ TỤC THỜ CÁ ƠNG Ở NAM BỘ.....................5
2.1. Những nghiên cứu về cá Ông trước đây...........................................................6
2.2. Tín ngưỡng thờ cúng cá Ơng: Vấn đề nguồn gốc.............................................6
2.3. Tục thờ cá Ông ở Nam Bộ...............................................................................7
CHƯƠNG III: LỄ HỘI NGHINH ƠNG Ở XÃ BÌNH THẮNG, BÌNH ĐẠI,
BẾN TRE................................................................................................................9
3.1. Cơ sở hình thành...............................................................................................9
3.2. Lăng Ơng và điện thần thờ cá Ơng...................................................................9
3.3. Diễn trình lễ hội Nghinh Ơng......................................................................10
3.3.1. Lễ túc yết.....................................................................................................11
3.3.2. Nghi thức Nghinh Ông.................................................................................11
3.3.3. Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền............................................................................12
3.3.4. Nghi thức xây chầu đại bội..........................................................................13
3.3.5. Nghi thức lễ chánh tế...................................................................................13
CHƯƠNG IV: GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA VÀ PHƯƠNG HƯỚNG BẢO TỒN LỄ
HỘI NGHINH ƠNG Ở BÌNH THẮNG, BÌNH ĐẠI, BẾN TRE......................14
KẾT LUẬN............................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................19
1
PHẦN TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài:
Xuân, hạ, thu, đông, mùa nào trong năm cũng là mùa trẩy hội của người Việt.
Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, nước ta có gần 8000 lễ hội lớn nhỏ trải dài khắp
đất nước. Lễ hội phát triển mạnh mẽ như vậy vì lễ hội là bảo tàng sống về văn hóa và
sinh hoạt cộng đồng, là nơi phản ánh tinh thần, phong tục tập quán của dân gian. Lễ hội
là nơi người dân tìm đến thể hiện niềm tâm linh, mong ước về tươi lai tốt đẹp hơn, cầu
mong đất nước ấm no, thịnh vượng. Lễ hội tồn tại từ đời này qua đời khác, góp phần
tái hiện lại lịch sử, giúp con cháu hậu thế hiểu được phần nào truyền thống dân tộc.
Tiêu biểu trong số đó khơng thể khơng kể đến lễ hội Nghinh Ơng của cư dân
miền biển Nam Bộ. Từ lâu lễ hội Nghinh Ông là cái gì đó vừa gần mà vừa xa đem đến
cho bản thân tôi một cảm xúc dạt dào. Trong khi đó bản thân của tơi lại là người con
của vùng sông nước, nhà gần kế bên biển nên thường xuyên được tận mắt chứng
kiến lễ hội Nghinh Ông, tận mắt chứng kiến các nghi thức, cũng như nghi lễ của
lễ hội, nó vơ cùng hấp dẫn và đặc sắc với nhiều ý nghĩa thiết thực. Nó thể hiện
được đời sống văn hóa tin thần của ngư dân miền biển Nam Bộ chúng tôi. Từ thuở nhỏ
chúng tôi đã cùng nhau chạy theo những đồn múa lân trên đường Nghinh Ơng,
nơ nức đón những đồn thuyền rước Ơng từ ngồi khơi về bên cạnh đó tơi cũng
đã từng tận mắt chứng kiến cảnh Ông Lụy và cũng tận mắt chứng kiến cảnh mọi
người chơn cất Ơng, để tang Ơng và lập miếu thờ với thái độ vơ cùng thành kính.
Do đó bản thân tôi vô cùng hứng thú với lễ hội này.
Bên cạnh đó đề tài về lễ hội Nghinh Ơng là một vấn đề hay và vơ cùng có ý
nghĩa thể hiện được đặc điểm tính cách, tín ngưỡng của cư dân miền biển Nam Bộ mà
hiện nay cũng chưa thật sự có nhiều người nghiên cứu đến, đặc biệt là tục thờ cá Ơng
của ngư dân ở xã Bình Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre q tơi.
Tiếp đến, việc tìm hiểu đề tài này giúp ích rất nhiều cho bản thân tôi: thứ
nhất, tôi được bổ sung kiến thức để đáp ứng cho lòng cầu thị về vấn đề mà mình
đã quan tâm; đồng thời là sinh viên chun ngành Văn hóa học, đề tài “Lễ hội Nghinh
Ơng ở Bình Thắng, Bình Đại – Nét đẹp trong văn hóa của ngư dân vùng biển Bến
Tre” giúp tơi hiểu sâu hơn về lễ hội dân gian của mảnh đất q hương. Thực hiện đề
tài này tơi hi vọng góp phần nhỏ bé vào việc giữ gìn và phát huy những giá trị truyền
thống, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của mảnh đất miền Tây sông nước quê tôi.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Đề tài đi sâu tìm hiểu về lễ hội Nghinh Ơng ở Bình Thắng, Bình Đại, Bến Tre nhằm
tìm ra những giá trị đặc sắc của lễ hội dân gian, từ đó góp phần vào giới thiệu và quảng
bá hình ảnh lễ hội cùng những giá trị văn hóa mà lễ hội Nghinh Ơng ở Bình Thắng,
Bình Đại, Bến Tre đang lưu truyền. Đồng thời, thơng qua đề tài này tơi hi vọng sẽ ít
2
nhiều góp phần tác động vào ý thức của người dân địa phương trong việc bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội Nghinh Ơng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Đề tài tìm hiểu về tục thờ cá Ông ở Nam Bộ và đặc biệt là Lễ hội Nghinh
Ơng xã Bình Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.
- Phạm vi: xã Bình Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập và xử lí thơng tin: trên cơ sở thu thập thông tin tư liệu từ
nhiều nguồn khác nhau như: sách, báo, đài, tivi, tạp chí, mạng internet,..., từ đó
chọn lọc để có cái nhìn khái qt, những nhận xét và đánh giá ban đầu về vấn đề
nghiên cứu, mà cụ thể ở đây là lễ hội Nghinh Ơng ở Bình Thắng, Bình Đại – Bến
Tre.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích và tổng hợp các tài liệu liên quan đến
đề tài, từ đó có định hướng, giải pháp phát triển những giá trị văn hóa truyền thống
của lễ hội Nghinh Ơng ở Bình Thắng.
5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu:
Nhiệm vụ đưa ra là trình bày về lễ hội Nghinh Ơng ở Bình Thắng, Bình Đại,
Bến Tre. Nêu lên thực trạng các điều kiện phát triển và từ đó đưa ra các giải pháp nhằm
khai thác tốt hơn lễ hội này, góp phần giữ gìn và phát huy nét đẹp văn hóa của ngư dân
vùng biển Nam Bộ nói chung và Bến Tre nói riêng. Kết quả sau khi nghiên cứu giúp
tơi có được nhiều kiến thức mới, hay và bổ ích, giúp tơi có thể ứng dụng vào cuộc sống
và công việc sau này.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm “Văn hóa”:
Trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm định nghĩa:
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.”
1.1.2. Khái niệm “lễ hội”:
“Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là hệ
thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tơn kính của con người với thần linh,
phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ
3
chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tơn giáo, nghệ thuật của cộng
đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.
Lễ hội là hoạt động tập thể và thường có liên quan đến tín ngưỡng, tơn giáo.
Con người xưa kia rất tin vào trời đất, thần linh. Các lễ hội cổ truyền phản ảnh hiện
tượng đó. Tơn giáo rất có ảnh hưởng tới lễ hội. Tơn giáo thông qua lễ hội đê phô trương
thanh thế, lễ hội nhờ có tơn giáo đề thần linh hóa những thứ trần tục. Nhưng trải qua
thời gian, trong nhiều lễ hội, tính tơn giáo dần giảm bớt và chỉ cịn mang nặng tính văn
hóa.” – Wikipedia.
Khái niệm “lễ hội Nghinh Ông”:
Lễ hội nghinh Ông là lễ hội cúng cá Ông của ngư dân các tỉnh miền ven biển
Việt Nam từ Quảng Bình trở vào Nam (gồm cả Phú Quốc). Cùng nhiều lễ hội khác, lễ
hội Nghinh Ông là lễ hội cầu ngư: cầu cho biển lặng gió hịa, ngư dân may mắn làm ăn
phát đạt, an khang.
Lễ hội nghinh Ông là loại lễ hội nước lớn nhất của ngư dân. Có nhiều tên gọi
khác nhau như lễ rước cốt ơng, lễ cầu ngư, lễ tế cá "Ông", lễ cúng "Ông", lễ nghinh
"Ơng", lễ nghinh ơng Thủy tướng, nhưng tất cả đều có chung một quan niệm rằng cá
"Ơng" là sinh vật thiêng ở
biển, là cứu tinh đối với
những người đánh cá và làm
nghề trên biển nói chung.
Điều này đã trở thành một tín
ngưỡng dân gian phổ biến
trong các thế hệ ngư dân ở
các địa phương nói trên. Ở
mỗi địa phương, lễ hội
nghinh Ông diễn ra vào một
thời điểm khác nhau.
1.1.3.
Lễ hội nghinh Ông là loại lễ hội nước lớn nhất của ngư dân
Nguồn:
/>Cơ sở thực tiễn
Ở Bến Tre tục thờ cúng cá ơng voi có ngay từ buổi đầu lập nghiệp (cách nay
trên 200 năm). Chứng tích của tín ngưỡng này là lăng ơng Vang Quới Tây (huyện Bình
Đại), lăng ông Nam Hải xã An Thủy (huyện Ba Tri)..., nhưng lễ hội nghinh ông tập
1.2.
4
trung vào những năm 1940-1950 thế kỉ XX. Vì, tuy Bến Tre có 65 km bờ biển, nhưng
nghề đánh bắt thủy sản của ngư dân Bến Tre sống ven biển Đông phát triển chậm, chủ
yếu đánh bắt theo thời vụ bằng các phương tiện: đăng, đáy, lưới bén, cào, xiệp,... theo
con nước lớn, nước rịng ven bờ, sản lượng khơng đáng kể, phục vụ chủ yếu cho cộng
đồng cư dân ven biển. Từ đánh bắt thủy sản mang tính tự cung, tự cấp phát triển thành
nghề đánh bắt, không chỉ ni sống bản thân mà trở nên giàu có.
Lễ hội nghinh ơng ở xã Bình Thắng tuy ra đời muộn màng hơn so với các địa
phương khác trong tỉnh nhưng lễ hội khơng chỉ thể hiện đầy đủ tính vốn có của lễ hội
dân gian, mà cịn phản ánh sinh động cả nội dung và hình thức của nghề hạ bạc trong
hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Ngày nay, tục thờ cúng cá ơng có vai trị, vị trí quan trọng trong đời sống văn
hóa, tinh thần và tâm linh của ngư dân ven biển. Lễ hội Nghinh Ông ở xã Bình Thắng,
huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre là một hoạt động văn hóa/tín ngưỡng thu hút nhiều ngư
dân và khách du lịch. Sự phát triển của tín ngưỡng này đến thời hiện đại càng tỏ ra phù
hợp với nhu cầu bảo vệ môi trường sinh thái, động vật nguy cấp… Trong khi nhiều
quốc gia tiên tiến vẫn tìm cách săn cá voi thì những người dân chài Việt Nam đã bảo
vệ loại động vật nguy cấp đó theo cách của mình, một cách bảo vệ rất văn hố.
Vì thế lễ hội Nghinh Ơng ở Bình Thắng, Bình Đại, Bến Tre cần phải được tìm
hiểu sâu hơn, quảng bá tới mọi người nhiều hơn và đều cốt lõi là cần phải có phương
hướng bảo tồn và chuẩn hóa lễ hội trong thời đại xã hội hội nhập và phát triển.
CHƯƠNG II: TÌM HIỂU VỀ TỤC THỜ CÁ ƠNG Ở NAM BỘ.
Nam Bộ được biết là nơi có bờ biển trải dài với những địa hình khác nhau,
là nơi hội tụ nhiều tầng lớp cư dân với các hoạt động kinh tế đa dạng. Cộng đồng
cư dân ven biển Nam Bộ là cách gọi chỉ những nhóm dân cư sống ven biển, hoạt động
đa ngành nghề như những người chuyên sống bằng nghề chài lưới đánh bắt thuỷ hải
sản trên biển, cửa sơng, đầm
phá…Trong bức tranh đa
văn hố đó, sự hiện diện của
tín ngưỡng thờ cá Voi mà
trong dân gian thường gọi
một cách thân mật là cá Ơng,
đã góp phần tạo nên một nét
rất đặc thù trong đời sống
văn hoá của cư dân miền
biển Nam Bộ.
Tục thờ cá ông hiện diện ở tất cả các tỉnh có giáp biển của Nam Bộ
5
Nguồn: />2.1. Những nghiên cứu về cá Ông trước đây
Hầu hết những tác phẩm đề cập, nghiên cứu về tục thờ cá Ông (cá voi) xuất
hiện vào sau những năm 1945. Xuất hiện sớm và miêu tả một cách đầy đủ về tín
tục này phải kể đến Kẻ thừa tự của ông Nam Hải của Cung Giũ Nguyên (Le Fils
De La Baleine) viết bằng tiếng Pháp và Tục thờ cá voi (Le culte de la baleine)
của Thái Văn Kiểm. Kẻ thừa tự của ông Nam Hải miêu tả về cuộc sống và tục
thờ cá voi của cư dân ven biển Nam trung bộ, tuy nhiên, tác giả lại quan niệm nó
như một hủ tục cần phải loại bỏ. Cũng trong giai đoạn này, một số tác phẩm viết
bằng tiếng Việt như Nếp cũ hội hè - đình đám của Toan Ánh, miêu tả một cách
khá chi tiết về tục thờ cúng cá voi của cư dân Vàm Láng; Lê Quang Nghiêm với
Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hoà, đây là một khảo sát rất công phu của tác
giả về những tập tục có phần kỳ lạ ở các làng chài thuộc tỉnh Khánh Hoà thời
gian trước những năm 1975. Tác phẩm này đã giúp ích cho tơi rất nhiều trong
quá trình đối sánh về việc thực hành nghi lễ của tục thờ cúng cá Ông theo cấp độ
địa phương, vùng miền.
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về tục thờ cúng cá Ông được
nhiều tác giả quan tâm hơn về tính tương đồng và dị biệt giữa các vùng miền
trong việc thực hành nghi lễ, lễ hội, về vấn đề nguồn gốc hình thành…Trong Lễ
hội dân gian của ngư dân Bà Rịa - Vũng Tàu, Tác giả Đinh Văn Hạnh và Phan
An đề cập một cách chi tiết về tục thờ cá Ông của ngư dân Bà Rịa-Vũng Tàu,
các tập tục trong mối tương quan giữa các địa phương, vùng miền. Đặc biệt, tác
phẩm thể hiện sự phát triển về hệ thống tín ngưỡng của người Việt trong q
trình di cư về phương Nam.
2.2. Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông: Vấn đề nguồn gốc
Tục thờ cúng cá Ông (cá Ngài, cá Ơng, Ơng Nam Hải…) là tín ngưỡng dân
gian của cộng đồng cư dân ven biển nước ta, phổ biến từ Bắc miền Trung, kéo
dài vào Nam. Ý kiến được thừa nhận phổ biến, đây là một cổ tục của người
Chăm.
Trong Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hoà, tác giả Lê Quang Nghiêm
cũng thừa nhận rằng, tục thờ cá Ông xuất phát từ người Chiêm Thành và người
Việt, đã tiếp nhận nó trong q trình di cư về phương Nam. “Có thuyết cho rằng khi
xưa dân Việt Nam còn ở miền Bắc, chưa tràn xuống miền Nam, thì chịu ảnh hưởng lễ
giáo, văn hố Tàu khơng thờ cá ơng vì người Tàu khơng có tục này. Ngư phủ Tàu ở
đảo Hải Nam và miền Nam Trung Hoa chuyên nghề săn cá ông. Đến khi dân Việt Nam
6
di cư vào đất Chiêm Thành (từ Thanh Hoá, Nghệ An đến tỉnh Bình Định, Phan Thiết
hiện thời) thì chịu ảnh hưởng của phong tục Chiêm Thành, mới có tục thờ cá ông voi
theo người Chàm và sau này gọi là ông Nam Hải…”.
Như vậy, từ một cổ tục phát xuất từ cộng đồng cư dân bản địa, trong quá
trình đi về phương Nam, người Việt đã không ngần ngại tiếp thu và qua nhiều
bước chuyển đã Việt hố nó, thể hiện trên nhiều khía cạnh của đời sống tín
ngưỡng, tâm linh.
Tục thờ cá Ông biểu hiện rõ nét trong văn hoá dân gian các làng ven biển
miền Nam, với mật độ miếu thờ phổ biến, hầu như làng nào cũng có. Đặc biệt,
tất cả nghi thức ở đây đều được thực hiện trọng thể như đối với vong linh tổ tiên
đầy đức hạnh của con người, bao gồm đầy đủ từ việc để tang, đưa tiễn cho đến
nghi lễ cải táng, thờ cúng, từ nghĩa địa cho đến miếu thờ. Ngay ở vốn ngôn từ
được sử dụng trong bối cảnh này, cũng đặc biệt nhấn mạnh điều đó:"Ơng lụy",
"Ngọc cốt", "Dinh Ông”…
2.3. Tục thờ cá Ông ở Nam Bộ
Hầu hết các làng ven biển Nam bộ đều có tín ngưỡng thờ cá Ông, tức cá Voi
hay "Nam Hải Đại tướng quân". Tục thờ cúng cá Ông được thể hiện dưới dạng Nghinh
Ông và thường gắn liền với lễ Cầu Ngư. Nghi thức cúng Ông Nam Hải cũng giống như
cúng Đình, nhưng khác nhau ở chỗ lễ hội Nghinh Ơng bao giờ cũng diễn ra trên ghe,
thuyền, tàu bè. Cho nên nơi nào có làng chài, có bến cá là nơi đó có lăng miếu thờ Ơng
Nam Hải. Cụ thể như tại Ba Tri - Bến Tre, bà con ngư dân đã lập miễu thờ cá Ông, mỗi
khi ra khơi họ đều đến cúng vái. Tại xã đảo Hòn Tre thuộc huyện đảo Kiên Hải, Kiên
Giang, ngư dân có lập một Lăng thờ bộ xương cá Voi mắc cạn, chết trôi giạt vào bờ
vào ngày 26/4/2006, hằng năm dân làng đều tụ tập về làm lễ Nghinh Ơng. Tại huyện
Đơng Hải, tỉnh Bạc Liêu có Lăng Ơng Nam Hải tại thị trấn Gành Hào được thờ phụng
rất tôn nghiêm. Nơi đây, ngồi thờ Thủy tổ Ngư nghiệp cịn lưu giữ trên 20 xương cá
Ông và một bộ da cá Ông (thuộc loại cá nhám Voi - tên khoa học Rhincodon typus) dài
9 mét, nặng 13 tấn, được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục "Bộ da cá
nhám Voi lớn nhất". Cũng tại Bạc Liêu, Lăng Ông Dun Hải có thờ một bộ xương cá
Ơng Bạch dài 16 mét, nặng 15 tấn. Cá Ơng này lụy ngồi khơi biển Cái Cùng thuộc
huyện Hịa Bình và được ngư dân đưa vào bờ ngày 9 tháng Giêng âm lịch 2010. Các
làng ven biển Trà Vinh cũng có nhiều Lăng Ông, nổi tiếng nhất là lăng Ông Long Hòa
với bộ xương Đức Ông được coi là lớn nhất ở Nam kỳ lục tỉnh.
Theo nhà văn Sơn Nam, tục thờ cá Ông và thờ Bà Cậu bắt nguồn từ các làng
chài Bình Định, Phú Yên được đưa vào đất Đồng Nai. Từ đó lan truyền đến miền Tây
Nam bộ. Có thể nói Kiên Giang là tỉnh có lăng miếu thờ cá Ông nhiều nhất. Chỉ riêng
Phú Quốc có tới 6 điểm thờ. Ngồi ra, Tây Nam bộ có ba địa phương tuy khơng giáp
biển nhưng cũng có lăng miếu thờ cá Ông là: Cần Thơ, Long An và Vĩnh Long.
7
Mỗi Lăng Ơng thường có bàn thờ Ơng Nam Hải tại Chánh điện. Hai bên bố trí nhiều
bộ xương cá Voi được bọc bằng vải đỏ. Ngồi ra cịn có bàn thờ Tả ban và Hữu ban liệt
vị với nghi thức cúng bái trang nghiêm. Có Lăng cịn thờ Tiên sư, Tiền hiền, Hậu hiền,
Ngũ hành, Lang Lại đại tướng quân (rái cá).
Tại miền Tây Nam bộ, Ban chủ lễ chọn ngày cá Ông lụy để cúng giỗ, gọi là lễ
tế Ông Nam Hải hay lễ Nghinh Ông. Việc cúng tế hàng năm lớn hay nhỏ thường tùy
thuộc vào hoạt động đánh bắt và tình hình kinh tế của mỗi địa phương. Có những nơi
tổ chức linh đình hai ba ngày đêm, kèm theo múa lân, trình diễn văn nghệ, thi đấu thể
thao và nhiều trò chơi dân gian như ở Lăng Ơng Sơng Đốc, Lăng Ơng Nam Hải - Gành
Hào. Có nơi tổ chức rước thần Thành Hồng, thần Bạch Mã Thái giám như Vàm Láng.
Có nơi Ban tổ chức cho ghe chạy quanh đảo như ở Hòn Nghệ, hòn Lại Sơn, huyện Kiên
Hải - Kiên Giang… Đặc biệt, tại miếu Hải An thuộc xã Hiệp Thanh, thành phố Bạc
Liêu (vườn nhãn cổ), lại do người Triều Châu tổ chức cúng tế cùng với sự tham dự của
người Kinh và người Khmer, quy mơ rất hồnh tráng. Chính vì ý nghĩa và tầm quan
trọng đó mà người miền Tây có câu:
“Vui gì bằng lễ Nghinh Ơng
Đèn hoa, pháo nổ ngập sơng ánh trời”
Ngày nay, lễ hội Nghinh Ơng (Cầu Ngư) là ngày hội lớn của ngư dân vùng biển
đảo, vừa thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh của bà con ngư dân, vừa thắt chặt thêm
tình làng nghĩa xóm, cầu nguyện cho mưa thuận gió hịa, quốc thái dân an. Do đó, nhiều
nơi tổ chức lễ hội quy mô, nặng về phần hội hơn phần lễ. Các yếu tố mê tín giảm dần,
chỉ giữ phần nghi thức truyền thống.
Lễ hội Nghinh Ông ở Nam Bộ
Nguồn: />CHƯƠNG III: LỄ HỘI NGHINH ƠNG Ở BÌNH THẮNG, BÌNH ĐẠI, BẾN TRE.
8
3.1.
Cơ sở hình thành
Lễ hội Nghinh Ơng, khơng riêng gì ở đây, được hình thành từ tục thờ cá Ơng –
một hình thức tín ngưỡng phổ biến từ miền Trung nước ta trở vào. Ở Bình Thắng, cá
Ơng cịn được gọi là Nam Hải Tướng Quân, ông Nam Hải hay đơn giản là Ông, vốn là
một vị thần phù hộ cho ngư dân mỗi khi xuôi thuyền ra khơi đánh bắt
Ở Bình Thắng, tục thờ cá Ơng có khá muộn do cộng đồng này được thành lập
vào đầu thập niên 50 của thế kỉ trước. Một tư liệu cho biết cụ thể về niên đại của Lăng
Ơng Bình Thắng như sau: Ơng Ngơ Minh Châu gửi đến xin lập ấp Bình Thuận 2 và đề
cử ơng Nguyễn Văn Quởn làm trưởng ấp, được chính quyền chấp nhận, đồng thời ơng
đứng ra xây dựng Lăng Ông Nam Hải và được tổ chức khánh thành vào ngày 19 tháng
7 năm 1951, tức là ngày 16 tháng 6 Âm lịch. Hiện nay, trong Lăng Ơng Bình Thắng có
2 bộ cốt cá Ơng. Bộ cốt đầu tiên hiện đặt trên bàn thờ chính, do ngư dân phát hiện thi
hài của cá Ông con xẩy tại ấp Bình Mỹ (thuộc xã Bình Thắng ngày nay) vào khỏang
năm 1956 đến năm 1957. Ngoài ra, bộ hài cốt thứ 2 tương đối khá lớn, đặt ở hướng án
ngồi thuộc gian giữa chính diện và có ghi nguồn gốc: “Chi hội nghề cá lâm sản Bến
Tre gặp cá Ông Lụy ở Biển Đông ngày 4 tháng 4 năm Tân Tỵ 2001, trục vớt lên tàu
đưa về Lăng Ông Nam Hải Bình Thắng, ngày 18 tháng 4 năm Tân Tỵ phụng cúng”.
Theo giải thích của ơng Mai Lợi – đại diện Ban Khánh tiết Lăng Ơng Bình Thắng,
người gặp được Ông Lụy sẽ là người chịu tang và làm đúng theo nghi thức tang ma
truyền thống của cộng đồng. Mặt khác, hài cốt cá Ông khi mang về lăng được cúng bái
nghiêm túc. Sau thời gian phân hủy xác, người ta lau sạch phần xương rồi rửa bằng
phooc-mon và làm nghi thức nhập lăng thật trang trọng. Ngư dân địa phương còn cho
biết thêm, thịt cá trong thời gian phân hủy có mùi hơi khét, khơng hề hơi. Như vậy,
trước kia cũng như hiện tại, cá vẫn được ngư dân Bình Thắng tơn thờ và tin tưởng vào
sự phù hộ, thể hiện sự tiếp nối truyền thống tín ngưỡng, văn hóa của thế hệ trước.
Đối với ngư dân Bình Thắng, tục thờ cá Ông phản ánh sự may rủi của con người
trước những bất trắc, khó lường của biển cả cũng như sự cầu mong độ trì của cộng đồng
để có những mùa cá bội thu, cuộc sống phát đạt, giàu có và bình an. Do vậy, lễ hội
Nghinh Ơng của ngư dân Bình Thắng là sinh hoạt tín ngưỡng nhằm bày tỏ niềm tin
thiêng liêng của họ trong đời sống hiện tại. Thông qua những nghi lễ cúng bái, cộng
đồng bày tỏ tấm lịng của mình với thần linh, cầu mong sự phù hộ, che chở nơi thần
thánh, ở đây chính là thần Nam Hải.
Lăng Ơng và điện thần thờ cá Ơng
Khác với Thành hồng Bản cảnh được phụng thờ ở đình làng, cá Ơng được thờ
ở lăng. Trên địa bàn các xã ven biển Bến Tre có 9 lăng Ơng. Ngoại lệ có một lăng nằm
3.2.
9
rất xa bờ biển. Đó là lăng Ơng tại xã Vang Quới Tây (huyện Bình Đại), lăng này cách
xa bờ biển tới gần 20km đường chim bay.
Tất cả các nơi thờ trên đều có một nét chung là các lăng đều có để xương cá Ơng.
Các bộ xương này được bày trí ở nơi hậu cung. Theo ngư dân thì các xương này được
đem về từ nơi an táng cá Ông sau ba năm. Người dân miền biển đều coi những bộ
xương ấy là sự hiện diện của cá Ông.
Kiến trúc lăng Ông cơ bản mang dáng vẻ của một ngơi đình của cư dân làm nghề
trồng lúa nước. Nó vừa mang chức năng tín ngưỡng: là nơi trú sở của thần linh, vừa
mang chức năng thế tục: là nơi vui chơi, giải trí, đãi khách trong ngày hội của dân vạn
chài. Hiện diện của đối tượng được tin, đối với người dân chài, chính là xương cá Ơng
để trong lăng. Có thể do thời gian, trước đây, những lăng Ơng này do người dân lập dân
ra, nên khơng có sắc phong của triều đình nhà Nguyễn.
Lăng Ơng Nam Hải
Nguồn: />Diễn trình lễ hội Nghinh Ơng
Ngư dân Bình Thắng tổ chức lễ ra khơi nghinh ông vào dịp 15, 16 và 17 tháng 6
âm lịch hằng năm. Sự kiện này trùng hợp với ngày thành lập Lăng Ơng Bình Thắng
như một lời nhắc nhở về truyền thống lịch sử, văn hóa của người dân địaa phương. Nhìn
chung, lễ hội nghinh ơng ở Bình Thắng có thời gian khá dài và được cộng đồng tổ chức
3.3.
10
với quy mơ lớn. Diễn trình của lễ hội này diễn ra theo trình tự: lễ túc yết, nghi thức
nghinh ông, lễ tế Tiền hiền Hậu hiền, nghi thức xây chầu đại bội, nghi thức lễ chánh tế.
Trình tự của các nghi lễ này phản ánh được cấu trúc chặt chẽ của một lễ hội nghinh ông
của cư dân địa phương. Ở đây, mỗi nghi lễ có một chức năng và ý nghĩa khác nhau, góp
phần tạo nên tính đa dạng với nhiều không gian, thời gian thiêng cho lễ hội như Victo
Turner nhận xét: “Nghi lễ (ritual), tôi muốn nói, là hành vi được quy định có tính chất
nghi thức dành cho những dịp, không liên quan đến các cơng việc có tính chất kĩ thuật
hàng ngày, mà có quan hệ với các niềm tin vào đấng tối cao hay hay các sức mạnh thần
bí. Biểu tượng (Symbol) là đơn vị nhỏ nhất của nghi lễ, cái giữ lại nhữung thuộc tính
cụ thể của hành vi nghi lễ, nó là đơn vị cơ bản của một cấu trúc cụ thể trong một bối
cảnh nghi lễ”. Cụ thể, từng nghi lễ này được diễn ra như sau:
3.3.1. Lễ túc yết
Nghi thức này được tiến hành rất đơn giản. Mọi người dân trong vạn lạch, từ
những ngày trước đã góp tiền làm lễ cúng Ơng. Đóng góp nhiều hay ít là tùy tấm lịng
của từng gia chủ ngư dân mà khơng bắt buộc, và cũng khơng có sự phân biệt giữa người
có đóng tiền và người khơng có đóng tiền. Đêm đầu tiên của ngày lễ hội này có một
nghi thức khơng hồn tồn bắt buộc, tùy theo ban tổ chức. Đó là lễ cầu an. Ơng chánh
niệm hương và phó niệm hương phải tham gia lễ này. Bắt đầu vào lễ, ông chánh niệm
hương quay mặt vào điện thần, khấn vái, xin sự chứng kiến của Nam Hải Ngọc Lân
Tôn thần. Ơng phó niệm hương đội tờ sớ xin cầu an lên đầu, quì lạy. Tám nhà sư đứng
thành hai hàng q lạy phía sau, sau đó các nhà sư đứng lên, đọc Kinh Nhật Tụng làm
lễ cầu an cho vạn lạch. Cuối buổi lễ cầu an, lá sớ được đem đốt.
3.3.2. Nghi thức nghinh Ông
Nghi thức này được tiến hành với sự tham gia đông đảo của tất cả ngư dân trong
vạn chài. Đồn người ra khơi nghinh Ơng gồm có ơng chanh niệm hương, phó niệm
hương, 4 học trò lễ, 4 đào thài (2 đào nam và 2 đào nữ), 8 người mang bát bửu chấp
kích, 1 người vác cờ có chữ Nam Hải, 4 ngi khiêng long đình, 2 người khiên lọng, 1
người vác lá cờ lớn, cùng với phường bát âm. Tất cả những người này khênh long đình,
cùng tất cả đồ lễ, từ lăng tiến ra cửa sông để xuống một ghe riêng đã được chọn sẵn,
gọi là ghe lễ. Thông thường chiếc ghe được chọn này là ghe của gia chủ song tồn,
khơng vướng mắc gì, làm ăn phát đạt và ghe mang số chẵn. Trên ghe này còn một bàn
bày các lễ vật, gồm có một con heo quay, hai đĩa lịng, gan heo (một đĩa sống, một đĩa
chín), một đĩa bánh hỏi, cùng hoa quả. Hai bên cạnh con heo quay là 12 chiếc chén
(bát) cùng 12 đôi đũa. Sau ghe lễ là ghe chở đoàn múa lân. Đằng sau hai ghe này là tất
cả một đoàn ghe hàng trăm chiếc của ngư dân trong vạn lạch. Trên từng chiếc ghe đều
có bày đồ lễ như ghe chính. Tất cả cùng tiến ra ngồi biển, để nghinh Ơng. Cả ghe lễ,
11
ghe chở đoàn múa lân và các ghe của ngư dân, đều có thả một sợi dây xuống nước, cuối
sợi dây là một cái giẻ. Người dân thả trôi chiếc giẻ này trên mặt nước. Khi cả đoàn ghe
ra tới chổ giáp nước (nơi nước sông và nước biển gặp nhau), ông chánh niệm hương
bắt đầu làm thủ tục để xin sự linh ứng của cá Ơng. Cả đồn ghe hồi hộp để chờ Ông lên
vọi. Ngư dân tin rằng, năm nào đồn ghe ra khơi nghinh Ơng, gặp Ơng lên vọi là năm
đó vạn lạch gặp may mắn, làm ăn phát tài. Trường hợp, Ơng khơng lên vọi, ơng chánh
niệm hương sẽ xin âm dương. Nếu một trong hai đồng tiền mà ông chánh niệm hương
tung lên, roi xuống đĩa, có một đồng sấp, một đồng ngửa, coi như ông Nam Hải đã
chứnh minh lòng thành của người dân. Liền ngay đó, ghe lễ thổi tù và vang động một
vùng sông và bắt đầu đốt pháo. Tất cả hàng trăm chiếc ghe đi sau ghe lễ, đều đốt pháo.
Sự hứng khởi tột độ của ngư dân đã khiến tất cả các ghe chạy ào ào hỗn độn. Có ghe
va chạm vào ghe khác, không sao, người dân chấp nhận sự ồn ào và hỗn độn này. Đòan
ghe náo nức quay trở về bến. Đi đầu vẫn là chiếc ghe lễ. Tới bến, người ta khênh long
đình, hương án và tất cả các đồ lễ lên bờ, rước về lăng. Tới lăng, người chánh niệm
hương, cùng phó niệm hương đã khênh bát hương vừa mang ra khơi nghinh Ông, đặt
lên bàn thờ. Sau khi làm các nghi thức an vị, đưa bát hương lên, làm các thủ tục khấn
vái, nghi thức nghinh Ông mới chấm dứt. Ngư dân tin rằng ông Nam Hải đã về ngự tại
điện thần, chứng cho lòng thành của họ.
3.3.3 Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền
Lễ vật ở nơi thờ cúng Tiền hiền là lễ mặn, như mọi đám giỗ tổ tiên, có 4 mâm
xơi (3 mâm xôi trắng, 1 mâm xôi đỏ). Sau một hồi chiêng, một hồi trống và lễ nhạc,
ông chánh niệm hươhư, phó niệm hương lau tay, mặt, các bơig tế dâng đĩa nến và hoa.
Sau đó, chánh niệm hương vào khấn vái, dâng thức ăn dâng rượu, Và đọc văn tế Tiền
hiền. Ngồi những thủ tục có tính chất “hành chính” như năm tháng cúng, những người
tham gia cúng, lễ vật cúng, văn tế Tiền hiền như sau: “Tiền hiền khai khẩn chi linh vị,
Hậu hiền khai cơ chi linh vị, tả ban hữu ban chi vị, đẳng thanh tiên linh cập cô hồn đồng
lai phối hưởng”.
Viết:
“Cung vị tôn thần khắc kiệm khắc cần nãi văn nãi vũ sanh thành hữu thử tư cơ
sáng tạo vi chi sư phụ khai cương trạt lý tài bồi hữu thử qui mô lập ấp chiêu dân chí
thành hơn hộ cấu đình kiến miếu lưu hương hỏa bá niên, lý nghĩa an nhơn thọ phong
thanh vẹn cổ, tư nhơn đáo lệ viên ưu, diện phí nghi vĩ biểu thành tâm thục thùy bảo hộ
chi an khánh dã. Phục duy thượng hưởng”. Dịch là : “Dám xin kính cáo trước vong linh
các bậc Tiền hiền khai khẩn đầu tiên, các bậc xây nền tiếp sau, trước linh vị tả ban hữu
ban.
Đọc văn tế xong, bồi tế dâng rượu lần hai, dâng trà rồi đốt văn tế.
12
Nghi thức xây chầu đại bội
Nghi thức xây chầu đại bội là nghi thức không cố định, nghĩa là phụ thuộc vào
ban tổ chức có mời đồn hát bội hay không. Nơi diễn ra hát bội là gian nhà võ ca. Trước
khi vào xây chầu, các đào thài lạy trước điện thờ ông Nam Hải. Lễ vật tại ban thờ lúc
này là một con lợn trắng đã mổ, cạo sạch lơng, quay đầu vê phía bàn thờ Ơng, bát huyết,
đặt bên cạnh, lá mỡ chài phủ lên đầu con lợn. Người cầm chầu là ông chánh tế. Dân
chúng ở trong vạn chài ngồi xem hát bội ở ngay nhà võ ca. Các đào thài hát, múa cho
dân chúng xem, cũng với nghĩa, hát múa cho ơng Nam Hải vui lịng.
3.3.4.
Nghi thức lễ chánh tế
Nghi thức lễ chánh tế được tiến hành vào giữa đêm Mười sáu tháng Sáu Âm
lịch, vào lúc giao điểm giữa hai ngày, kết thúc một ngày cũ, bắt đầu một ngày mới. Sau
các nghi thức thông thường như củ soát lễ vật, tựu vị, chỉnh y, mở đầu buổi lễ chánh
tế, ban tổ chứuc chọn một người có tuổi, có đức độ song tồn, được mọi cư dân trong
vạn lạch kính trọng, làm nhiệm vụ khai mõ. Kế đến là nghi thức khai chiêng rồi khai
trống. Ba nhạc cụ này đều được đánh theo hồi, theo nhịp đã quy định, khi dứt nhịp trống
là dàn nhạc lễ bắt đầu vào nhịp. Phần tế bắt đầu. Ông bồi tế dâng nến, hoa cho ơng
chánh niệm hương. Ơng này giơ mấy nén nhang trong tay lên ngang trán, vừa khấn vái
vừa đọc: “Nhất nhơn tư lệ đáo thời thuần, hết hạ sang thu lễ cầu an, kiến an tu trong
thôn ấp đều kiến nguyện.
Nhất nguyện hương, Việt Nam củng cố, quốc diệu thới sương phong điều hòa
thuận, vạn thọ vô cương.
Nhị nguyện hương binh linh ngũ trưởng, ngũ trù canh mục sĩ nông công thương,
bá tánh nghinh tường nhân dân đồng thạnh lợi.
Tam nguyện hương cát kiến ngũ trường thịnh an kỳ nghiệp, Nam Hải chứng
minh ô hô, phù trì trong thơn ấp, tịnh tam chúc nguyện”.
Sau đó, ông thắp nhang lên bàn thờ. Theo sau học trò lễ là các đào thài, vừa đi
từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ của điện thần vừa hát nhữung câu hát chúc
thần. Tiếp theo là nghi thức dâng rượu, vị chanh niệm hương rót rượu ra chén, vừa làm
nghi thức vái lạy vừa đọc: “Quỳnh tương tiền dạ ngọc hiến lễ chúc sơ tình thốn tỉnh tư
đơn chúc hà linh tấn tước”. Học trò lễ nhận rượu từ tay ông chánh niệm hương, đi lên
dâng thần. Các đào thài vừa đi sau học trò lễ, vừa hát chúc thần. Ba lần dâng rượu, đều
được tiến hành như trên. Hết tuần rượu thứ nhất, vị chánh tế bắt đầu đọc văn tế ông
Nam Hải.
Sau khi đọc văn tế, chánh niệm hương lại dâng tiếp hai tuần rượu. Rồi dâng tuần
thịt, cùng lời khấn: “Ẩm tứ phước thiên thu thiên thới, tạ nam hải chứng minh, chứng
cho thôn tư nhật khả minh, ngưỡng lại miên trường ẩm phước”. Cùng lúc đó, những
người trogng ban khánh tiết, lại bàn bày con lợn tế thần, lật ngửa con lợn, để một lát rồi
3.3.5.
13
mang con lợn ra ngoài, xả thịt để dùng sau lễ chánh tế. Nghi thức cuối của việc dâng lễ
vật là dâng trà. Người chanh niệm hương dâng trà cùng lời khấn: “Ô kim long phưởng
phất thiết thiết điểm trà than, kim cúc ngọc nhờ an tạ”. Sau khi dâng trà, bốn đào thài
vái lạy trước bàn thờ Ông. Cuối cùng là nghi thức đốt văn tế. Tất cả ban khánh tiết, học
trị lễ, đào thài vái lạy Ơng lần cuối. Nghi thức chánh tế kết thúc, đồng thời cũng là kết
thúc lễ hội nghinh Ông của người dân vạn lạch.
Để sang một bên vài nghi thức lễ bái còn rờm rà với ít tập tục có tính chất mê
tín từ xưa còn lưu lại, ta thấy đây là lễ hội nước lớn nhất của ngư dân các vùng biển
phía phía nam, trong đó hàm chứa niềm khao khát mộc mạc, chân thành của những con
người làm nghề trên sóng nước, hàng ngày phải đối diện với một thiên nhiên đầy huyền
bí và cũng đầy bất trắc. Trong khoảnh khắc của khơng khí lễ hội thiêng liêng và thành
tín này, ta thấy khoảng cách giữa thần linh và đời sống dân dã dường như khơng cịn
nữa.
Tục thờ cúng cá Ơng với cội nguồn rất xa xưa, được phủ thêm màu sắc Phật
giáo và cả Nho giáo phù hộ với cấu trúc đa nguyên trong tín ngưỡng của người Việt,
trong quá trình tồn tại và phát triển đã tiếp thu và tơn vinh một số đạo lí cổ truyền thấm
đượm tính nhân văn. Cá voi, một sinh vật có ích đã được nhân cách hóa thành một Đấng
cứu nhân độ thế, một sinh vật “hiền” và “thiêng” chuyên giúp con người qua khỏi tai
nạn, vì thế được con người biết ơn, tôn sùng không những khi sống mà cả lúc chết. Lễ
hội Nghinh Ơng hay lễ Cúng cá Ơng chính là dịp để thỏa mãn nhu cầu đền ơn, đáp
nghĩa theo đạo lí truyền thống. Cốt lõi hiện thực của tục thờ cúng cá Ông, cũng như
việc tổ chức lễ hội hàng năm của cư dân ven biển có lẽ cũng là ở chỗ đó.
CHƯƠNG IV: GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA VÀ PHƯƠNG HƯỚNG BẢO TỒN LỄ HỘI
NGHINH ƠNG Ở BÌNH THẮNG, BÌNH ĐẠI, BẾN TRE
Lễ hội nghinh ơng của cộng đồng ngư dân xã Bình Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh
Bến Tre đã phản ánh được các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa và con người ở
đây. Thơng qua lễ hội, người ta hiểu biết thêm về lịch sử, về mong ước của ngư dân địa
phương trong đời sống hiện tại. Đó là sự thể hiện lịng thành kính đến thần Nam Hải để
phù hộ cho mỗi chuyến ra khơi được thuận buồm xi gió, được độ trì khi sóng to gió
lớn và hơn nữa là đời sống ngư nghiệp phát triển.
Qua lễ hội này còn cho thấy được tính cộng đồng cũng như việc giáo dục và trao
truyền văn hóa giữa các thế hệ để lễ hội nghinh ơng của ngư dân vùng ven biển xã Bình
Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre cịn lưu truyền, giữ gìn được những giá trị truyền
thống trong đời sống hơm nay. Một nguyên nhân để lễ hội diễn ra lớn và thành cơng
chính là sự đóng góp cơng sức, tiền bạc, lễ vật của cộng đồng để trang trải khá nhiều
kinh phí (thực phẩm, lễ vật và đồn hát bội,...). Ngư dân cịn gọi đây là hình thức chung
14
“chung đậu”. Với những chủ ghe làm ăn phát đạt, họ chuẩn bị tạ lễ khá lớn và ủng hộ
kinh phí lớn cho lăng để trùng tu, sửa chữa. Ngày nay, Bến Tre có nhiều ghe cá đánh
bắt ở ngư trường Cà Mau, Kiên Giang,... Cho nên vào dịp lễ hội này, các ghe quay trở
về để cúng tạ, đồng thời còn mời mọc thêm các ghe bạn cùng tham gia, cùng chia sẻ
niềm tin và niềm vui của mình. Ban Khánh tiết Lăng Ơng Bình Thắng cịn duy trì mối
quan hệ khá rộng với ban khánh tiết nơi các lăng, đình, miếu trong vùng. Cho nên, ở lễ
hội nghinh ông, các ban khánh tiết nơi khác trước đến dâng hương, dâng lễ vật và sau
là dự tiệc, tâm tình, trao đổi việc cúng kiếng, tình hình đời sống,... cho nhau. Ẩm thực
cho người tham gia trong lễ hội nghinh ông ở đây phản ánh điều kiện tự nhiên của vùng
biển như: Mắn tép đu đủ, cá nhúng dấm, cá xào nghệ,... Lễ hội nghinh ông ở đây đã thể
hiện được chức năng cố kết khơng nhữung trịn mà cịn ngồi cộng đồng, đồng thời cịn
thể hiện ý thức văn hóa cộng đồng sâu sắc. Bên cạnh đó, lễ hội này cịn là dịp tái hiện
và trao truyền văn hóa giữa các thế hệ. Với người dân ở đây, không phân biệt già trẻ,
những ngày lễ hội, là dịp họ chứng kiến, trải nghiệm những nghi lễ văn hóa truyền
thống, được các bậc cao niên kể lại những truyền thuyết mang màu sắc linh thiêng của
thần Nam Hải, lắng nghe cơng đức của tiền nhân, nhìn những bộ áo lễ phục truyền
thống (áo dài đen, xanh và khăn đống) và cùng tham gia vào việc tổ chức lễ hội,... Vì
vậy, điều này sẽ giúp cho thế hệ sau có điều kiện được thực hành, học hỏi và sẽ tiếp nối
truyền thống của cha ông họ. Đặc biệt, các thành viên trong ban khánh tiết có nhiều độ
tuổi khác nhau để đảm bảo sự kế thừa. Các thành viên có độ tuổi trẻ được thay thế vai
trò của người thân để tiếp tục công việc. Họ được phân công vào một vị trí để tham gia
và phải có lối sống tốt đẹp, khơng dính mắt tai tiếng, có tinh thần tự nguyện và nhất là
phải lắng nghe ý kiến từ các bậc cao tuổi. Vì thế, đây là những thành viên nịng cốt tiếp
tục duy trì việc tổ chức lễ hội trong tương lai.
Để hiểu sâu hơn về hoạt động lễ hội nghinh ơng của cư dân xã Bình Thắng, huyện
Bình Đại, tỉnh Bến Tre, cần tiếp cận và phân tích dưới hai góc độ mang tính đối lập
nhau là thiêng và tục. Hai yếu tố này là hai mặt đối lập nhưng khơng thể tách rời và
chính nó đã tạo nên tính cân bằng, đáp ứng được nhu cầu tham gia của cộng đồng, làm
cho lễ hội trở thành một chỉnh thể thống nhất, bền vững. Trong lễ hội nghinh ông của
cộng đồng ngư dân Bình Thắng, hai yếu tố thiêng và tục luôn song hành với nhau. Yếu
tố thiêng được diễn ra bên trong lăng với nhiều nghi thức được quy định sẵn, với thành
phần rõ ràng gồm các vị chức sắc trong ban khánh tiết điều phối, thực hiện, là thái độ
tơn kính, cẩn trọng cùng với việc ăn mặc chỉnh tề theo truyền thống, là không gian hoạt
động chính của nam giới. Cịn yếu tố tục được thể hiện ở phía ngồi. Người dân đến
tham dự cịn được thưởng thức sinh hoạt đờn ca tài tử, phát thưởng cho ngư dân có
năng suất đánh bắt cao, được ăn uống và tâm tình trao đổi. Người dân cịn tổ chức các
hoạt động buôn bán tấp nập hai bên đường để ăn uống, mua sắm, thanh niên nam nữ
trò chuyện với nhau tạo nên một khơng khí rộn ràng, nhộn nhịp, chật kín người và hịan
15
tồn khác hẳn khơng gian bên trong. Thậm chí ngay trong nghi thức ra khơi, nếu chuyến
đi là thể hiện yếu tố thiêng (các ghe chạy chậm, bày hương án cúng, cầu nguyện thần
Nam Hải,...) thì chuyến về mang yếu tố tục (các ghe chạy đua với nhau, va quẹt, người
tham gia vẫy gọi, vui đùa, ăn uống,...). Chính vì vậy, hai yếu tố này đã tạo nên cho lễ
hội nghinh ơng Bình Thắng sinh động, khơng nhàm chán, thu hút được nhiều thành
phần tham gia.
Lễ hội nghinh ông của ngư dân ven biển Bình Thắng, Bình Đại, Bến Tre nói
riêng cũng như nước ta nói chung khơng nằm ngồi quy luật biến đổi. Chẳng hạn, ở lễ
hội nghinh ông Bình Thắng, theo quan sát của Nguyễn Chí Bền cách đây hơn 20 năm:
“Cả ghe lễ, ghe chở đoàn múa lân và các ghe của ngư dân, đều có thả một sợi dây
xuống nước, cuối sợi dây là một cái giẻ. Người dân thả trôi chiếc giẻ này trên mặt
nước”. Tác gải đã giải thích thêm: “Có lẽ, chính sợi dây buộc mảnh giẻ này là một
dạng “hèm” của tục thờ cúng. Nó liên quan đến truyền thuyết cá ơng được sinh ra từ
tấm lòng của Phật Bà Quan Âm. Nhưng hèm này còn ở dạng khá đơn gỉản , và khơng
có đường dây gắn kết với trị diễn và cũng chỉ tiến hành khi các ghe thuyền khi ra khơi
nghinh ơng”. Hiện tài thì tục này đã khơng cịn nữa. Phải chăng vì lí do thời gian nên
nó dần phai nhạt và khơng cịn nữa? Gần đây, vì lí do xăng dầu tăng cao , trong lễ hội
nghinh ông ở Bình Thắng, số lượng ghe thuyền tham gia ra khơi nghinh ơng có phần
giảm sút hơn trước kia.
Lễ hội nghinh ơng ở Bình
Thắng cịn là tài sản văn hóa, được
ngư dân địa phương bảo tồn, phát
triển cho đến ngày nay. Vì thể,
tỉnh Bến Tre đã có chủ trương kết
hợp lễ hội nghinh ơng Bình Thắng
với việc thu hút khách du lịch
trong, ngoài nước đến tham gia.
Tuy nhiên, điều này khơng thành
cơng vì thiếu người thuyết minh
hiểu rõ vấn đề, đường sá chật chội
và thiếu vệ sinh, khơng có áo phao
cho du khách khi theo thuyền ra
khơi,...
Lễ hội nghinh Ông ở Bình Thắng cần được bảo tồn và phát huy
Nguồn:
/>13
16
Do đó, việc đề ra các giải pháp phát huy giá trị tín ngưỡng thờ Cá Ơng ở Bình
Thắng, Bình Đại, Bến Tre là vô cùng cần thiết:
Giải pháp nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân về tín ngưỡng: Cần quán
triệt, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, cơng chức của cấp ủy Đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp, nhất là cán bộ làm cơng tác văn hóa, tín
ngưỡng, tơn giáo về vai trị, giá trị tốt đẹp mà tín ngưỡng thờ Cá Ơng mang lại.
Giải pháp phát huy giá trị tích cực của tín ngưỡng thờ Cá Ơng: Chính quyền địa
phương cần xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh cho hoạt động văn hóa - xã hội
đang diễn ra tại các lăng, miếu thờ Cá Ông trên địa bàn xã Bình Thắng.
Giải pháp hạn chế mặt tiêu cực của tín ngưỡng thờ Cá Ơng: Cần đẩy mạnh phong
trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, trong đó, đặc biệt chú ý đến vấn
đề xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, nhiều hoạt động đồng bóng, bói tốn, xin
xăm, xem quẻ... cịn gắn liền với tín ngưỡng thờ Cá Ơng, do đó để loại bỏ, bài trừ các
tệ nạn mê tín dị đoan nói trên, cần vận dụng xây dựng nếp sống văn hóa văn minh, gia
đình văn hóa; xây dựng làng, bản, ấp, văn hóa; xây dựng khu phố, khu tập thể văn hóa;
xây dựng các cơ quan, trường học, bệnh viện, các đơn vị lực lượng vũ trang... văn hóa.
Giải pháp liên quan đến cơng tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng: Cần có quy
định cụ thể và thống nhất từ Trung ương đến địa phương, trách nhiệm cơ quan quản lý
nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng.
Giải pháp về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng: Pháp
luật về tín ngưỡng, tơn giáo đã được ban hành nhưng còn bộc lộ nhiều vấn đề cần sửa
đổi, bổ sung, cụ thể Luật Tín ngưỡng, tơn giáo khơng quy định trình tự, thủ tục thành
lập mới cơ sở tín ngưỡng, đất đai cơ sở tín ngưỡng, cho nên một số vấn đề liên quan
đến tín ngưỡng ở địa phương cịn có khó khăn nhất định.
Giải pháp đối với Ban Quản trị, quản lý cơ sở thờ tự Cá Ông: Ban Quản trị, quản
lý các miếu, Ban Tế sự lăng thờ Cá Ông thường xuyên kiểm tra hiện trạng các cơ sở
hiện tại đang sử dụng để có kế hoạch bảo tồn, quản lý, gìn giữ những hiện vật, vật phẩm,
góp phần trong việc bảo tồn những giá trị văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
17
KẾT LUẬN
Với điều kiện tự nhiên là giáp biển, có bờ biển dài, đời sống kinh tế của người dân
là nơng - lâm - ngư nghiệp, trong đó ngư nghiệp giữ vai trò chủ đạo, chi phối đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre. Cho nên lễ hội nghinh ơng tín ngưỡng thờ
cá Ơng là một trong những loại hình tín ngưỡng có vai trị chính và chi phối đến đời
sống văn hóa tinh thần của người dân, đặc biệt là ngư dân của xã Bình Thắng nói riêng
và tồn tỉnh Bến Tre nói chung. Lễ hội nghinh ơng ở Bình Thắng đã để lại những giá
trị rất đặc sắc. Thông qua lễ hội và sinh hoạt tín ngưỡng này, người dân vùng sơng
nước giảm đi nỗi lo sợ, căng thẳng khi phải đối mặt với nhiều yếu tố bất trắc, rủi ro từ
biển cả và thể hiện sự tơn kính của mình đối với tự nhiên đối với biển cả. Đồng thời
cũng thông qua những sinh hoạt tín ngưỡng, cộng đồng bày tỏ tấm lịng biết ơn của
mình đối với cá Ơng, cầu cho biển lặng, sống êm; ngư dân và gia đình làng xóm gặp
nhiều may mắn, làm ăn phát đạt, an khang, hạnh phúc. Trong xã hội hiện đại ngày nay,
lễ hội nghinh ơng ở Bình Thắng, Bình Đại, Bến Tre vẫn còn tồn tại và phát triển. Với
những giá trị văn hóa độc đáo để lại qua lễ hội này đã góp phần làm phong phú thêm
bản sắc văn hóa của Việt Nam.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Ngọc Thêm, 1996. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nhà xuất bản tổng
hợp thành phố Hồ Chí Minh.
2. Thạch Phương – Lê Trung Vũ, 1995. 60 lễ hội truyền thống Việt Nam. Nhà xuất
bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nhiều tác giả, 2014. Lễ hội cộng đồng: truyền thống và biến đổi. Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
4. Lê Trung Vũ – Lê Hồng Lý, 2012. Lễ hội Việt Nam. Nhà xuất bản Văn hóa Thơng
tin.
5. Nhiều tác giả, 2009. Lễ hội truyền thống các dân tộc Việt Nam. Nhà xuất bản Văn
hóa Dân tộc.
6. Nguyễn Phương Thảo, 1997 . Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo. Nhà
xuất bản giáo dục.
7. Huỳnh Quốc Thắng, 2003. Lễ hội dân gian ở Nam Bộ. Nhà xuất bản Văn hóa
Thơng tin.
8. Dương Hồng Lộc, 2013. Diện mạo văn học dân gian của cộng đồng ngư dân
vùng ven biển Bến Tre. Tạp chí Khoa học Văn hóa và Du lịch, số 10.
9. Thanh Ngọc, Một số lễ hội cổ truyền của các dân tộc ở Nam Bộ.
/>10.Lãng mạn miền Tây, Tục thờ cá Ông ở Tây Nam Bộ.
/>11. Đặng Thị Tầm, Tìm hiểu về tục thờ cá ơng ở nước ta – lễ hội nghinh ông của ngư
dân bà rịa – vũng tàu.
/>12. Dananggalaxy, Tục thờ cúng cá Ông của người Việt.
/>13. Thanh Trạng, Ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ cá ông đối với người dân ven biển
tỉnh Cà Mau
/>guong_tho_ca_ong_doi_voi_nguoi_dan_ven_bien_tinh_Ca_Mau
19