Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

LỄ HỘI KỲ YÊN VÙNG NAM BỘ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 18 trang )

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

ĐỀ TÀI:
LỄ HỘI KỲ YÊN VÙNG NAM BỘ VIỆT NAM

TP. Hồ Chí Minh,


MỤC LỤC
TỔNG QUAN............................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 2
2. Mục đích, đối tượng, ý nghĩa sau nghiên cứu ........................................ 2
2.1. Mục đích nghiên cứu..................................................................... 3
2.2. Đối tượng nghiên cứu ................................................................ ...3
2.3. Ý nghĩa sau nghiên cứu.............................................................. ...3
3. Phương pháp nghiên cứu và tài liệu nghiên cứu ................................. ...3
3.1. Phương pháp nghiên cứu .............................................................. 3
3.2. Tài liệu nghiên cứu ....................................................................... 3
NỘI DUNG ................................................................................................ 4
1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn .............................................................. 4
1.1 Cơ sở lí luận.................................................................................... 4
1.1.1 Khái niệm lễ hội dân gian ....................................................... 4
1.1.2 Khái quát lễ hội Kỳ Yên ......................................................... 4
1.2 Cơ sở thực tiễn ................................................................................ 5
1.2.1 Khái quát chung vùng Nam Bộ Việt Nam .............................. 5
1.2.2 Khái quát chung về văn hóa lễ hội dân gian vùng Nam Bộ ... 5
2. Lễ hội Kỳ Yên ở một số đình làng Nam Bộ Việt Nam .......................... 5
2.1 Lễ hội Kỳ Yên đình Gia Lộc (Tây Ninh) ....................................... 6
2.1.1 Khái quát chung ...................................................................... 6
2.1.2 Nét đặc trưng ........................................................................... 6
2.2 Lễ hội Kỳ Yên đình Vĩnh Bình (Tiền Giang) ................................ 8


2.2.1 Khái quát chung ...................................................................... 8
2.2.2 Nét đặc trưng ........................................................................... 9
2.3 Lễ hội Kỳ Yên đình Bình Thủy (Cần Thơ) ................................. 10
2.3.1 Khái quát chung .................................................................... 10
2.3.2 Nét đặc trưng ......................................................................... 11
2.4 Giá trị của lễ hội Kỳ Yên .............................................................. 12
3. Hiện trạng của lễ hội Kỳ Yên và một số giải pháp .............................. 13
3.1. Thực trạng của lễ hội Kỳ Yên hiện nay ...................................... 13
3.2. Một số giải pháp ...................................................................... …14
KẾT LUẬN ............................................................................................. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 17

1


TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài
Nam Bộ là vùng đất trù phú mà thiên nhiên mang lại, địa hình đồng bằng phù sa
bồi đắp chiếm đa số, hệ thống sơng ngịi dày đặc với nguồn lợi thủy sản vơ cùng to
lớn, có thể nói đó là sự ưu ái của mẹ thiên nhiên dành cho vùng. Thế nhưng để có
được vùng đất trù phú như bây giờ khơng thể không kể đến công lao của bao thế hệ tổ
tiên, ông cha đi trước đã đến nơi này và khai hoang lập ấp, tạo dựng nền móng cho
con cháu sau này.
Đối mặt với thiên nhiên hoang dã thuở ban đầu, họ đã phải dành ra rất nhiều công
sức, thời gian, đối mặt với muôn vàn nguy hiểm, cọp trên bờ và cá sấu dưới sơng là
một ví dụ. Vì thế, bao lớp người đến đây luôn cầu ước các vị thần thánh, thổ địa,… sẽ
phù hộ cho họ được suôn sẻ, vượt qua được khó khăn. Qua hơn trăm năm như thế, các
tín ngưỡng tâm linh cầu nguyện thờ cúng đã ăn sâu vào tâm thức của người dân nơi
đây, một trong số đó chính là lễ hội Kỳ n. Đây là lễ hội dân gian cúng thần Thành
Hoàng lớn nhất năm ở các địa phương vùng Nam Bộ và là dịp để dân làng tụ họp

chuẩn bị, thể hiện lịng thành kính với các đấng tối cao, cầu mong yên bình cho cuộc
sống và tương lai, vụ mùa ấm no. Kỳ Yên từ lâu đã được người dân Nam Bộ coi là lễ
hội khơng thể thiếu được, vì đó là niềm tin vào vị thần che chở cho họ, cầu mưa thuận
gió hịa để con người được an n. Lễ hội Kỳ Yên Nam Bộ ở mỗi địa phương lại
mang mỗi màu sắc, đặc trưng riêng khác nhau, được biết đến hơn cả có thể kể như Kỳ
n đình Gia Lộc (Tây Ninh), đình Bình Thủy, đình Thới Bình (Cần Thơ), đình Vĩnh
Bình (Gị Cơng, Tiền Giang),…
Kỳ n chính là một lễ hội dân gian đặc sắc của người dân vùng Nam Bộ, nó đóng
vai trị quan trọng trong đời sống tinh thần người dân nơi đây thế nên việc gìn giữ
những giá trị truyền thống tốt đẹp đó và phát huy lâu dài cho tương lai mai sau chính
là nhiệm vụ cấp bách. Đặc biệt là trong bối cảnh xã hội ngày nay, khi mà Kỳ Yên
ngày càng được biết đến nhiều hơn thì việc kết hợp vừa gìn giữ bản sắc và cả khai
thác tiềm năng du lịch cho vùng lại đặc biệt cần được chú tâm hơn. Tìm hiểu về
những giá trị mà Kỳ Yên mang lại cùng với vấn đề lớn rằng: Làm sao để Kỳ Yên vẫn
tốt đẹp trong lòng những người dân địa phương và trong mắt du khách, là câu hỏi nên
được giải đáp, nhận thấy tính cấp bách này, tơi lựa chọn đề tài “Lễ hội Kỳ Yên vùng
Nam Bộ Việt Nam” để thực hiện tiểu luận.

2. Mục đích, đối tƣợng, ý nghĩa sau nghiên cứu
2


2.1 Mục đích nghiên cứu
Gồm hai mục đích chính:
Mục đích đầu tiên chính là tìm hiểu được nguồn gốc và đặc điểm của lễ hội Kỳ
Yên, cụ thể là tại một số địa phương vùng Nam Bộ Việt Nam, từ đó hiểu rõ hơn về
đặc trưng của Kỳ Yên, các giá trị mà nó mang lại.
Mục đích thứ hai đó là biết được hiện trạng đang của lễ hội Kỳ Yên, người dân
tổ chức như thế nào, các hình thức, hoạt động của nó có cịn giữ được nét truyền
thống khơng hay đã thay đổi ra sao. Đồng thời cịn tìm hiểu thêm Kỳ n được đưa

vào du lịch có hiệu quả khơng và có để lại những hệ quả nào khác. Từ đó rút ra một
số giải pháp và đưa ra kết luận chung.
2.2 Đối tƣợng nghiên cứu
Những địa phương tổ chức lễ hội Kỳ Yên có tiếng vùng Nam Bộ Việt Nam, mà
cụ thể là một số nơi như Tiền Giang, Cần Thơ, Tây Ninh.
2.3 Ý nghĩa sau nghiên cứu
Lễ hội Kỳ Yên với những nét đẹp nó mang lại đã và đang mang lại những lợi
thế phát triển du lịch cho các địa phương vùng Nam Bộ, thế nhưng bên cạnh những
thuận lợi cũng có những hạn chế, thách thức cần được giải quyết. Thách thức lớn nhất
phải kể đến đó chính là việc bảo tồn các giá trị truyền thống tốt đẹp mà Kỳ Yên mang
lại. Chính vì thế sau nghiên cứu mong rằng sẽ mở ra thêm được cái nhìn tổng quát,
khách quan hơn các giá trị của lễ hội mang lại và nhận thức đúng đắn hơn về thái độ
cần có để bảo tồn.

3. Phƣơng pháp nghiên cứu và tài liệu nghiên cứu
3.1 Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập và xử lí tài liệu:
Thu thập, tìm kiếm các tài liệu, thơng tin có trên mạng Internet, trên sách và
chọn lọc, xử lí, bổ sung đưa vào bài làm dẫn chứng.
Phương pháp liệt kê, phân tích, tổng hợp
Liệt kê các đối tượng cần dùng làm dẫn chứng, đồng thời từ các nhân tố có liên
quan đó, lấy các tài liệu đã thu thập được đưa ra phân tích, nhận xét kết luận và cuối
cùng là tổng hợp lại thành bài hoàn chỉnh.
3.2 Tài liệu cho nghiên cứu
Thu thập từ các dữ liệu có trong sách, báo và trên Internet.
3


NỘI DUNG
1. Cơ Sở Lí Luận Và Cơ Sở Thực Tiễn

1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1 Khái niệm lễ hội dân gian:
Lễ hội dân gian (LHDG) hoặc Hội lễ dân gian, thuật ngữ dùng để chỉ
một loại hình sinh hoạt Văn hóa dân gian (VHDG) phổ biến có thể tổng hợp
nhiều loại hình VHDG khác nhau (tơn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán,
văn học nghệ thuật dân gian,…) qua hình thức cảnh diễn hóa tại một địa điểm,
một thời gian nhất định bằng những nghi thức, nghi vật, nghi trượng đặc trưng
xoay quanh hai nội dung cơ bản: Lễ và hội.
Tùy thuộc vào mục đích của mình, các nhà nghiên cứu thường phân loại
LHDG dựa vào những tiêu chí khác nhau, ví dụ có thể quy chiếu theo cấp độ tổ
chức và quy mô xã hội, như: Lễ hội gia đình, lễ hội làng và vùng, lễ hội quốc
gia. LHDG, đặc biệt là lễ hội làng, tức loại hình lễ hội điển hình và có vị trí
chủ đạo trong hệ thống lễ hội cổ truyền ở nước ta. (T.S Huỳnh Quốc Thắng,
2003: 40)
1.1.2 Khái quát lễ hội Kỳ Yên:
“Sáng ngày mai học trị lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ
chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về. Ngày giờ
cúng tế tùy theo tục từng làng không đều nhau, hoặc lấy tháng giêng cầu phúc
gọi là Tế xuân, hoặc lấy tháng 8, 9 báo ơn thần là Tế thu, hoặc lấy trong 3
tháng mùa đơng là tế trịn năm thành công. Tế chưng, tế lạp chạp là đáp tạ ơn
thần. Việc tế đều có chủ ý chung gọi là Kỳ n.” (Trịnh Hồi Đức, Gia Định
Thành thơng chí, 2004: mục Phong tục chí)
Lễ Kỳ n có nghĩa là lễ cầu an, là lễ tế thần Thành Hoàng lớn nhất
trong năm của một ngơi đình thờ thần ở Nam Bộ, Việt Nam với mục đích tạo
việc cho dân địa phương đến lễ bái cầu làng xóm bình n, quốc gia thịnh
vượng. Ở lễ Kỳ yên, phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần “hội”. Các
đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đơng đảo khơng chỉ riêng có thần
Thành hoàng Bổn cảnh. Lễ này là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện, vui
chơi. Những tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng. (Sơn Nam, Lễ hội Kỳ
Yên Nghi Thức, />4



Trong ngày Kỳ Yên có lễ cúng miễu, có thể mời bà bống diễn xướng
múa hát. Một số nơi ngày Kỳ Yên có thể mời thầy Pháp đến làm lễ tống ôn, tá
thổ. Một số nơi, nhiều nhà sư đến tụng kinh cầu an cho bà con trong làng trong
xóm. Lễ hội là dịp trưng bày tài nghệ, sự khéo léo của dân chúng. Đây là dịp
chị em phụ nữ thi tài làm bánh, thổi sôi (thông qua lễ vật dâng cúng), dịp để các
nghệ nhân giới thiệu tài chưng kết bằng hoa quả, cây lá, giới thiệu bộ đỉnh
đồng, cái lọ cắm hoa…
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Khái quát chung vùng Nam Bộ Việt Nam:
Nam Bộ là một trong 3 vùng lãnh thổ của Việt Nam (gồm Nam Bộ, Trung
Bộ, và Bắc Bộ). Phần lớn địa hình Nam Bộ là đồng bằng phù sa màu mỡ được
bồi đắp bởi hai hệ thống sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Từ thế kỷ XVII,
Nam Bộ là phần lãnh thổ mới nhất của Việt Nam trong quá trình Nam tiến, và
từng được gọi là Gia Định rồi Nam Kỳ (1832–1945). Hiện nay, Nam Bộ gồm
có 19 tỉnh thành phố chia làm hai tiểu vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ (
cịn được gọi là Đồng bằng sơng Cửu Long). (Wikipedia, Nam Bộ,
)
1.2.2 Khái quát chung về văn hóa - lễ hội dân gian vùng Nam Bộ:
Tính mở của một vùng đất mới làm nên tính năng động, nhạy bén, dám
nghĩ, dám làm của người dân Nam Bộ. Tính mở cũng tạo cơ sở cho việc tiếp
nhận và tiếp biến thành cơng nhiều giá trị văn hóa cao và hiện nay có thêm nền
văn minh hiện đại.
Với tư cách là một trong những loại hình hoạt động văn hóa của Nam
Bộ, lễ hội dân gian của người Việt nơi đây trở thành đối tượng góp phần
nghiên cứu về những nét riêng trong sinh hoạt văn hóa dân gian. Yếu tố địa –
văn hóa và hồn cảnh lịch sử xã hội của Nam Bộ góp phần tạo ra vẻ riêng cho
vùng đất nơi đây,( quá trình khai phá mở làng lập cõi và những va chạm với tự
nhiên đã ảnh hưởng đến hệ thống văn hóa tín ngưỡng, những lễ hội đối với

người dân nơi đây. Đặc biệt phải kể đến tín ngưỡng lễ hội thờ thần Đất, thờ
Trời, thờ thần Thành Hồng. Đây là loại lễ hội dân gian có quy mô xã hội cấp
làng (hoặc vùng), thường gắn với các thiết chế tín ngưỡng dân gian như đình,
lăng, đền,.. ở Nam Bộ. (T.S Huỳnh Quốc Thắng, 2003: 51,52)
2. Lễ hội Kỳ Yên ở một số đình làng Nam Bộ Việt Nam
5


2.1 Lễ hội Kỳ Yên đình Gia Lộc (Tây Ninh)
2.1.1 Khái quát chung:
Đình Gia Lộc toạ lạc tại khu phố Lộc Thành, Thị trấn Trảng Bàng, được
xây dựng cách đây hơn hai thế kỷ, là cơng trình mang dấu ấn lịch sử, thờ Ơng
Cả Đặng Văn Trước, người có cơng khai hoang, lập ấp, dựng làng, lập chợ,
khai hoá vùng đất Trảng Bàng. Năm 1994, đình Gia Lộc được Bộ Văn hố, Thể
thao và Du lịch cơng nhận là di tích lịch sử văn hố cấp quốc gia.

Ảnh: Di tích lịch sử-văn hóa đền thờ ơng cả Đặng Văn Trước
Nguồn: />Lễ hội Kỳ Yên đình Gia Lộc được tổ chức hàng năm vào các ngày 14
đến 16 tháng 3 âm lịch hàng năm, đây là ngày hội để nhân dân quanh vùng có
dịp giao lưu, sinh hoạt văn hóa, gắn kết cộng đồng, thể hiện truyền thống uống
nước nhớ nguồn của dân tộc. Theo các bậc cao niên, từ năm 1926, sau khi đình
được trùng tu, lễ kỳ yên ở đình Gia Lộc đã được tổ chức liên tục cho đến ngày
nay, trở thành nề nếp sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của người dân đất Trảng.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc, năm 2012, lễ hội Kỳ
Yên ở đình Gia Lộc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cơng nhận là di
sản văn hoá phi vật thể cấp quốc gia trong Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể
quốc gia, loại hình Lễ hội truyền thống. (Tấn Trung, Lễ Kỳ Yên Đình Gia Lộc,
/>2.1.2 Nét đặc trƣng:
Lễ hội Kỳ n đình Gia Lộc trở thành một sinh hoạt tín ngưỡng dân gian
của người dân đất Trảng, cầu cho mưa thuận gió hịa, mùa màng tốt tươi, dân

làng có cuộc sống bình an, ấm no và thịnh vượng. Thường bao gồm các nghi
thức: Thỉnh sắc thần, chánh lễ, cúng tiền vãng, túc yết, xây chầu - đại bội và
ẩm phước. Lễ cúng đình thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn, sự gắn kết
6


cộng đồng, không chỉ trên địa bàn xã Gia Lộc hay của huyện Trảng Bàng, mà
cịn có sức lan toả đến nhiều nơi trong và ngoài tỉnh.
Vào 6 giờ sáng ngày 14 tháng 3, dân làng tiến hành làm lễ thỉnh sắc thần
từ đền Ơng cả về đình Gia Lộc. Sau khi Trưởng ban nghi lễ niệm hương xin
thỉnh hàm ấn, Chánh lễ lấy sắc thần được bọc bằng vải hay lụa đỏ đựng trong
một chiếc ống thiếc có nắp đậy, trải sắc ra, bọc cuốn lại bằng khăn điều mới,
rồi đặt lên kiệu. Kiệu trang hoàng lộng lẫy, sơn son thếp vàng, do 4 lính thú
khiêng. Đi theo kiệu có 2 Đào thài, 2 Trị lễ, dàn nhạc, qn hầu cầm 16 binh
khí, tàn, lọng. Việc thỉnh sắc thần thể hiện lịng tơn kính, niềm tự hào của dân
làng đối với Thành Hoàng làng. Đoàn người tham gia lễ thỉnh sắc thần kéo dài
hàng cây số. Dẫn đầu là lân, rồng, kế đến là ngựa có đai, yên phủ vải đỏ, có
lính thú dẫn đường. (Dương Anh (Theo Hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di sản văn
hóa), Lễ hội Kỳ Yên ở đình Gia Lộc, />Sắc thần được rước vào đình, tiến hành cúng an vị, cúng tiền vãng (cúng
những vị có cơng xây dựng đình).
Sau cúng tiền vãng là lễ túc yết (lễ xin ra mắt, yết kiến, một trong những
nghi lễ không thể thiếu trong lễ kỳ yên). Phẩm vật chính bao gồm : 2 con heo
quay, 1 con heo sống để tưởng nhớ thời ông cha ăn lông, ở lỗ, xôi, bánh trà,
hoa, rượu… Sau khi trống đổ “tiếp giá nghinh thiêng”, trên nền nhạc Nam
xuân, Nam ai, Đảo ngũ cung, có Đào thài, 14 học trò lễ lần lượt dâng cúng 3
tuần rượu, 1 tuần hương, 4 tuần trà. Học trị lễ cung kính dâng lên các vị thần lễ
vật bày tỏ lòng tri ân của nhân dân đối với Thành hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền,
những người có cơng mở mang bờ cõi, có cơng xây dựng đình như hơm nay.
Trong lễ túc yết, lễ thức quan trọng là phần khấn nguyện, ngưỡng vọng linh
thần, Thành Hồng bản cảnh xã Gia Lộc - Ơng cả Đặng Văn Trước. Tiếp đến là

nghi lễ ẩm phước, phân phát lộc của các vị thần đến các ông Chánh tế, Bồi tề,
Đông hiến, Tây hiến.
Trong lễ Kỳ Yên, lễ xây chầu - đại bội (chầu hát cầu mùa màng bội thu)
là một lễ thức quan trọng. Xây chầu không thể thiếu trống chầu. Người xây
chầu là người cao tuổi, thể hiện sự trường thọ, người có đạo đức và nắm rõ nghi
thức hành lễ. Trống chầu ở đình Gia Lộc là loại trống đại, có từ lâu đời. Trống
chầu phải được đặt đúng hướng, đúng luồng sinh khí để tránh những điều kỵ
với chủ tế. Trống trở thành thái cực linh thiêng. Vì vậy, khơng ai được bước lên
sân khấu, hoặc trải chiếu dưới trống. Người ta tin rằng, tiếng trống thái cực đêm
khuya chẳng những làm cho thơng thiên triệt địa, khiến cho hồng thiên hậu
thổ, thánh thần cảm ứng, mà còn tiêu diệt phiền não và khổ ải, đem lại sự an
7


lạc, hòa ái. Tiếng trống sẽ xua tà ma, yêu qi tránh xa, biến mất. Tiếng trống
cịn có một sinh lực thức tỉnh con người, tránh xa những điều xấu, đoàn kết làm
những điều lành cho quốc thái dân an.

Ảnh: Lễ hội Kỳ Yên đình Gia Lộc (Tây Ninh)
Nguồn: />Cũng trong dịp lễ Kỳ Yên, công tác xã hội luôn được Ban Khánh Tiết
đình quan tâm, đã vận động được nhiều mạnh thường quân, nhà hảo tâm ủng
hộ tiền và vật chất, qua đó đã có hàng trăm suất quà được trao cho người
nghèo của xã Gia Lộc và Thị trấn Trảng Bàng. (Tấn Trung, Lễ Kỳ Yên Đình
Gia Lộc, />2.2 Lễ hội Kỳ Yên đình Vĩnh Bình (Tiền Giang)
2.2.1 Khái quát chung:
Đình Vĩnh Bình được lập vào năm 1808 và là chỗ dựa tinh thần của
nhân dân làng Vĩnh Lợi (tức Vĩnh Bình ngày nay). Lễ hội Kỳ Yên Đình Vĩnh
Bình được tổ chức trong 03 ngày từ ngày 14 đến 16 tháng chạp âm lịch tại thị
trấn Vĩnh Bình, huyện Gị Cơng, tỉnh Tiền Giang và là lễ hội lớn nhất tỉnh Tiền
Giang. (Quốc Nam, Khai mạc lễ hội Kỳ n đình Vĩnh Bình, Gị Cơng Tây,

/>Lễ hội Kỳ Yên Đình Vĩnh Bình là một trong những lễ hội văn hóa lâu
đời, mang ý nghĩa cầu an, đồng thời góp phần tạo sự đồn kết trong cộng đồng,
thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, qua đó giáo dục truyền thống yêu
nước, yêu quê hương cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Trong các ngày diễn
ra Lễ hội, Ban Phụng tự và Ban Tế Lễ Đình tổ chức nhiều nghi lễ truyền thống
đặc sắc như: Lễ Cầu an, Lễ cúng tiền Hiền hậu Hiền và các nghi thức truyền
thống khác, nhằm tri ân và bày tỏ lòng biết ơn đối với các Thần linh và các bậc
8


tiền nhân đã có cơng dựng nước và giữ nước. Năm 2016, Đình Vĩnh Bình được
UBND tỉnh Tiền Giang cơng nhận là Di tích Lịch sử – văn hóa cấp tỉnh và đến
năm 2017, lễ hội Kỳ Yên của đình được UBND tỉnh đưa vào danh mục di sản
văn hóa phi vật thể cấp tỉnh.
2.2.2 Nét đặc trƣng:
Người Việt đến khai hoang vùng đất ngày một đông. Ðáng kể nhất là
khoảng nửa sau thế kỷ XVIII có ơng Trần Văn Huê cùng hơn 40 người đến lập
nghiệp. Họ tích cực khai hoang những vùng đất cao, ông Huê là người giỏi
giang, biết hốt thuốc, sống đức độ được bà con trong vùng quý mến. Năm Mậu
Thìn 1808 lập làng Vĩnh Lợi (lúc đó thuộc tổng Hịa Bình, huyện Kiến Hịa,
trấn Ðịnh Tường), ơng H đứng chân trong chính quyền làng, sửa sang ngơi
miễu có từ trước thành đình làng Vĩnh Lợi để thờ thành hồng. Năm Ất Hợi
1815, ơng H lập chợ Vĩnh Lợi, dân trong vùng quen gọi là chợ Giồng. Khi
ông Huê qua đời, giồng đất này được gọi là Giồng ông Huê và chợ Vĩnh Lợi
cũng được gọi là chợ Giồng ông Huê.
Người Việt lần lượt di cư đến ngày một nhiều, có một số người tiếp nhận
văn hóa Chàm, thờ chúa Ngọc hay gọi là thờ Thánh Mẫu vì cho rằng Thánh
Mẫu rất thiêng liêng. Năm 1885, nhân dân xây dựng một ngôi miễu thờ Thánh
Mẫu Thiên Y A Na khá lớn, hiện tọa lạc tại thị trấn Vĩnh Bình. Năm 1995,
cùng với sự qun góp của dân làng, những nhà hảo tâm, chính quyền địa

phương cho xây dựng một ngơi đình mới, tọa lạc tại ấp Đơng, thị trấn Vĩnh
Bình, lấy mẫu đền thờ Trương Ðịnh, bổ sung một số chi tiết cho thêm phần cổ
kính.
Trong những ngày lễ hội, đường phố thị trấn Vĩnh Bình nhộn nhịp hẳn
lên. Nhà nhà đều dọn dẹp tươm tất, chưng mâm ngũ quả trước cửa nhà để đón
rước "sắc thần". Từ xế chiều ngày 14 tháng chạp (âm lịch), đội lân rồng của
đình đón "Bàn các ấp" của thị trấn - một nghi thức có từ lâu của đình để cung
thỉnh những vị đang được thờ tại các miễu và thỉnh vong linh các bậc tiền bối
có cơng với địa phương. Trên bàn là các phẩm vật về nông nghiệp cùng với bàn
tay khéo léo của các nghệ nhân làm nên những hình tượng tứ linh trơng rất sinh
động để cúng tạ thành hồng. Sau đó là lễ đưa linh vị thần đến miếu Bà, cúng tế
rồi lại đưa linh vị thần trở về đình. Ngày 15 tháng chạp diễn ra các lễ cúng Tiền
hiền, Hậu hiền, vong linh liệt sĩ, cho đến nửa đêm thì cúng tế thần. Suốt ngày
16 tháng chạp, dân làng đến dâng lễ vật (thịt, xôi, bánh, trái) cùng khách thập
phương đến cúng tế và chiêm ngưỡng những ngày lễ hội tưng bừng. Màn đêm
dần bng, ánh trăng mười sáu dần ló dạng là lúc đội rồng đi quanh chợ, chúc
9


sự phát đạt, an khang thịnh vượng cho mọi người, mọi nhà. Nửa đêm, lễ tống
gió được tiến hành. Những con tàu bằng giấy kiếng, trang trí cầu kỳ, thắp
những cây đèn cầy, thả trôi sông cùng các nghi lễ tống gió độc, những điều xui
xẻo ra biển, kết thúc 3 ngày đêm náo nhiệt tưng bừng của những ngày lễ hội.

Ảnh: Lễ hội Kỳ Yên đình Vĩnh Bình (Tiền Giang)
Nguồn: />Bên cạnh phần lễ, trong dịp lễ hội Kỳ Yên còn diễn ra các trò chơi dân
gian kéo dài trong suốt 3 ngày như: Đẩy cây, nhảy bao bố, bịt mắt đập nồi, bắt
vịt trên sông, ngâm thơ, múa lân, ra câu hị, câu đối ... Tại đình, đội múa lân,
múa rồng liên tục trổ tài rất vui nhộn. Các phần hội với nhiều hoạt động phong
phú như: hát chầu 2 miếu Bà Chúa Xứ và miếu Bà Vạn Ban ngũ hành, các trò

chơi dân gian, thi trưng bày mâm trái cây, triển lãm sách… Các đêm hội còn có
những tiết mục diễn tuồng hát bội. Suốt mấy ngày đêm dân làng lũ lượt đi ra
đình làng cúng bái, chiêm ngưỡng. Khung cảnh trong đình ln nhộn nhịp, cờ
hoa rực rỡ, người người tấp nập ra vào cúng lễ; đêm đến rộn ràng âm thanh của
tiếng kèn, tiếng trống. Ngồi sân đình những vở tuồng điển tích cổ như: Thần
nữ dâng ngũ linh kỳ, tiết giao đoạn ngọc, Lưu Kim Đính, San hậu…được các
nghệ nhân trình diễn suốt 3 ngày đêm. (Cinet, Tiền Giang - Lễ hội Kỳ Yên ở Gị
Cơng Tây, />2.3 Lễ hội Kỳ n đình Bình Thủy (Cần Thơ)
2.3.1 Khái quát chung:
Đình Bình Thủy, tên chữ là Long Tuyền Cổ Miếu là một đình thần
tại Thành phố Cần Thơ. Đây là một cơng trình có giá trị về kiến trúc nghệ
thuật cổ truyền của người Việt giai đoạn khai hoang miền Tây Nam Bộ. Tọa lạc
tại địa điểm ngày nay thuộc phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, Thành phố
Cần Thơ. Đình được dựng vào năm Giáp Thìn (1844), lúc đầu thờ Thành
hồng của làng Bình Hưng, tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Ba Xuyên,
10


tỉnh An Giang. Năm 1852, Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt đi tuần thú trên một hải
thuyền, gặp phải một trận cuồng phong, nhưng nhờ ẩn nấp kịp nơi vàm rạch
Bình Hưng nên vơ sự. Thốt nạn, Huỳnh Mẫn Đạt cho tổ chức tiệc mừng để vui
cùng nhân dân địa phương và cho đổi lại tên rạch và tên đất này là "Bình
Thủy". Đồng thời ơng tấu trình lên vua Tự Đức, xin ban sắc phong cho thần
Thành hoàng làng. Từ đó, làng có tên mới là Bình Thủy, và ngơi đình cũng
được người dân gọi là đình Bình Thủy. Đến đầu thế kỷ 20 (khoảng năm 1908),
làng Bình Thủy được đổi tên thành làng Long Tuyền (do rạch Bình Thủy có
hình tựa con rồng nằm), nên người dân nơi đây cịn gọi là đình thần Long
Tuyền hay Long Tuyền Cổ Miếu.
Hàng năm nhân dân địa phương tổ chức các ngày lễ Thượng điền, Hạ
điền rất đơng vui. Lễ hội có khơng khí náo nhiệt vui tươi của hội làng, với

các trò chơi dân gian như thả vịt, kéo co, hát bội, hát tiều, nữ cơng gia chánh…
được duy trì phong phú từ xưa cho đến nay. Đây là một lễ hội văn hóa thu hút
hàng nghìn dân chúng khắp nơi tham gia, mang đậm tính chất nền văn minh lúa
nước (cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hịa, gia đạo an khang). Lễ hội
Kỳ Yên Bình Thủy là một trong 3 hội đình lớn nhất miền Tây Nam Bộ được tổ
chức trong năm. (Wikipedia, Đình Bình Thủy, />2.3.2 Nét đặc trƣng:
Lễ hội Kỳ Yên đình Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, là lễ hội lớn nhất
trong năm, Kỳ n Bình Thủy có hai kỳ lễ chính: lễ Kỳ Yên thượng điền và lễ
Kỳ Yên hạ điền. Lễ Hạ điền: Cúng đất đai bắt đầu vụ mùa mới vào ngày 15
tháng 4 âm lịch. Lễ Thượng điền: Tạ ơn và cúng ruộng đồng nghỉ ngơi vào
ngày 15 tháng chạp âm lịch Nghi thức trong cả hai ngày lễ gần giống như nhau.
Vào các ngày này, dân làng mở lễ hội đình để tưởng niệm cơng tích của
các vị thần. Và dịp cúng đình cũng là ngày lễ hội của dân làng, người ta tổ chức
các trò chơi ở làng, diễn hội làng, hát bội, hát cải lương với những tuồng tích
xưa… Quy mơ tổ chức lễ hội của đình tùy thuộc vào làng giàu hay nghèo, năm
trúng mùa hay thất mùa.
Ngày đầu tiên gọi là lễ Túc Yết - ngày cúng các vị tiền hiền khai khẩn,
hậu hiền khai cơ, các vị có cơng với nước, có cơng xây dựng và bảo quản ngơi
đình. Kế đến là lễ Chánh Tế, được tiến hành vào giữa đêm thứ hai, có đọc văn
tế với nội dung ca ngợi trời đất và các thần linh, ca ngợi công lao của những
11


bậc tiền hiền, hậu hiền, những người có cơng quy dân, lập ấp, phát triển sản
xuất…
Thường thì, sau phần nghi thức lễ được tổ chức trang trọng là phần hội.
Đây là phần sôi động và vui tươi nhất trong dịp cúng đình nên dân làng tham
gia rất đơng. Mọi người ăn mặc nghiêm trang, chỉnh tề đến tham gia, thưởng
thức, diễn trò, từ diễn tuồng đến các trò chơi dân gian như chọi gà, thi bắt vịt,
kéo co, thi đấu vật… thể hiện được một nét sinh hoạt văn hóa thiêng liêng và

cao đẹp. (Mekongtourist, Lễ hội truyền thống - Lễ hội cúng đình Bình Thủy,
/>
Ảnh: Lễ hội Kỳ Yên đình Bình Thủy (Cần Thơ)
Nguồn: />Những người đến dự lễ hội đình làng được tự do xem hát, tham gia các
trị chơi, trao đổi tâm tình và cùng nhau ăn uống vui vẻ, nhưng ăn uống có văn
hóa, vui chơi có mức độ. Ai cũng cố gắng giữ tư cách, khơng say sưa, càn quấy
hay nói tục, bởi trong những ngày này, mọi khía cạnh đời thường đã được nâng
lên đời thiêng. Khơng gian thiêng liêng của đình cả năm im lìm nay được tái
hiện trở lại bởi con người. Đèn, nến sáng trưng, cờ ngũ sắc tung bay, chiêng
trống nổi lên, lòng người khắp nơi náo nức, rộn rã hướng về khơng gian thiêng
liêng đó. Người đến lễ hội trước hết là để biểu thị lịng tơn kính và biết ơn các
vị phúc thần và các bậc tiền nhân đã khuất, có nhiều cơng lao tạo dựng q
hương, xây nên cơ nghiệp để lại cho những thế hệ cháu con, sau, là dịp để biểu
thị ý thức tôn trọng văn hóa truyền thống của dân tộc, hưởng thụ hình thái sinh
hoạt tinh thần cộng đồng vốn có nhiều gắn bó với phong tục tập qn, tín
ngưỡng dân gian mà mỗi năm chỉ diễn ra có một lần.
2.4 Giá trị của lễ hội Kỳ Yên
12


Lễ hội Kỳ Yên vùng Nam Bộ thể hiện nét sinh hoạt văn hóa thiêng liêng,
tín ngưỡng thờ thần, biết ơn thần, tạ ơn đất trời đã cho con người cuộc sống ấm
no, mưa thuận gió hịa, mùa màng tốt tươi, tạo được sự cộng tác của cộng đồng
làng xã. Tất cả cũng nhằm nhớ về cội nguồn, chuyển giao văn hóa, liên kết
cộng đồng. Bởi thế, lễ hội ở đình trở thành rất thiêng liêng, có sức cộng cảm và
trở thành nét văn hóa đặc sắc trong cộng đồng dân tộc. Trong q trình tổ chức,
nó cố kết cộng đồng, người dân làng xã lại với nhau, họ cùng chuẩn bị mọi thứ,
cùng cúng bái. Từ đó, lịng u mến con người, yêu mến xóm giềng, những
người địa phương được thắt chặt hơn. Đây cũng là dịp có thể sẻ chia, giao lưu
kết bạn của người dân và là nơi thăm quan cho những du khách muốn tìm về

các giá trị truyền thống, tín ngưỡng văn hóa của dân tộc từ trong những đơn vị
nhỏ nhất là làng xã. Qua lễ hội cũng đáp ứng được nhu cầu vui chơi giải trí của
người dân, sau những ngày lao động vất vả, sau vụ mùa dài, họ được sum tụ
láng giềng với nhau, cùng nhau ôn lại chuyện đã qua, tổ chức và tham gia vui
chơi trong suốt lễ hội.
Lòng u q cha đất mẹ, tình u thơn làng, u nước được vun đắp
thêm từng ngày, và biết rằng để có được mảnh đất trù phú như bây giờ, có được
cuộc sống êm vui như ngày nay là công lao to lớn của bao thế hệ cha anh đi
trước đã không tiếc công sức, mồ hôi, nước mắt và cả máu.
Lễ hội đóng góp tích cực vào việc giáo dục lối sống phong tục tốt đẹp
theo truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc, và hướng con người
đến với cái Chân – Thiện – Mĩ, góp phần làm cân bằng mơi trường sinh thái và
mơi trường văn hóa xã hội cho các cộng đồng người từ gia đình dòng họ, ra
làng xã, đến vùng miền và dân tộc. Tạo điều kiện cho con người Việt Nam phát
triển toàn diện cả về thể chất, lẫn tinh thần và trí tuệ. Hội đủ các điều kiện cần
thiết để thế hệ trẻ kế tục xứng đáng truyền thống lịch sử - văn hóa mà cha ơng
đã để lại. (Nguyễn Quang Lê, 2014: 666)
3. Hiện trạng của lễ hội Kỳ Yên và một số giải pháp
3.1. Thực trạng của lễ hội Kỳ Yên hiện nay
Lễ hội Kỳ Yên ngày nay vẫn được các địa phương tổ chức nhưng đã và đang
tồn tại một số bất cập: Thứ nhất có thể kể đến đó là các thủ tục, q trình chuẩn bị cho
cúng lễ. Lễ tạ quá tốn kém, xa hoa. Trên bàn thờ, trên các mâm lễ để tiền hương
nhiều, những nét truyền thống dung dị ngày trước dần bị mất đi, cái tâm theo thời
13


gian dần bị biến tướng. Các thủ tục lễ tế cùng theo đó rườm rà, phức tạp hóa, có làng
để cúng Thành Hoàng mà cả làng dốc sức chạy chuẩn bị trong cả tháng trời gây lãng
phí khơng cần thiết.
Thứ hai, qua q trình hiện đại hóa đã có những tác động nhất định, làm thay

đổi tư duy, lối sống của người dân, đặc biệt là giới trẻ theo hướng hiện đại và tích cực,
chủ động hơn. Thế nhưng cũng có những hạn chế cần được nhìn nhận khi xét về mặt
bảo tồn lễ hội nói chung và Kỳ Yên nói riêng: Một bộ phận khơng nhỏ người dân dần
xa rời truyền thống, lịch sử, văn hóa của dân tộc. Nếu ngày trước đa số dân làng sẽ tụ
tập lại vui chơi và làm mâm lễ cho lễ hội thì ngày nay vì hiện đại hóa dần, các dịch vụ
đặt hàng phát triển, sự sum họp với nhau cũng dần khơng cịn phổ biến, cuộc sống
theo nhịp q nhanh làm con người ta khơng cịn q thiết tha về với những lễ hội
truyền thống như thế nữa mà họ chạy theo công việc, theo bộn bề mà quên đi rằng lễ
hội truyền thống, bản sắc tốt đẹp đó từng là nét đẹp mà được vun vén qua bao đời cha
anh. Trong thực tế cuộc sống, một số hoạt động văn hóa, nghệ thuật khơng cịn phù
hợp với sở thích của thế hệ ngày nay, thế nên họ tìm đến với những loại hình nghệ
thuật du nhập từ nước ngồi.
Cuối cùng đó là cơng tác quản lý của các ban, ngành chức năng chưa thật sự có
hiệu quả trong việc khắc phục thực trạng này. Việc quy hoạch, bảo tồn, đưa ra các
chính sách cũng cịn những bất cập nhất định càng làm lễ hội truyền thống ngày một
thói hóa dần. Đồng thời một bộ phận khách tham quan du lịch tìm về lễ hội cũng có
nhận thức sai lệch về việc để lễ, cúng bái, cầu khấn khiến lễ hội mất đi nét đẹp vốn có
của mình. Cơng tác tun truyền, giáo dục nhận thức chưa được đầu tư, quan tâm, dẫn
đến việc lớp trẻ ngày càng thờ ơ với bản sắc dân tộc.
3.2 Một số giải pháp
Trong cuộc sống ngày nay, bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội cổ truyền là
cơng việc có ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Nền văn hóa đương đại bao giờ cũng
gồm hai dòng chảy, một dòng từ xưa truyền lại (truyền thống); một dịng do thế hệ
hơm nay xây dựng nên. Là một sáng tạo văn hóa do nhiều thế hệ trước để laiaj cho
thế hệ hôm nay, công việc bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội cổ truyền có ý nghĩa
rất quan trọn. Trong bối cảnh ấy, rõ ràng nghiên cứu cấu trúc lễ hội cổ truyền có tác
dụng với cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội cổ truyền của người Việt.
(Nguyễn Chí Bền, 2013: 338,339)

14



Đối với những thực trạng nói trên, đầu tiên chúng ta nên nhìn nhận những mặt
hạn chế và nêu vấn đề: Chúng ta nên làm gì để khắc phục và bảo tồn di sản văn hóa
đó trong thời đại hiện đại hóa ngày nay, khi nhịp sống q nhanh. Gìn giữ như thế nào
để nền văn hóa tốt đẹp của dân tộc vẫn còn được lưu lại cho thế hệ kế tục mai này?
Để trả lời được câu hỏi nêu trên, mỗi người dân, mỗi người trẻ phải có sự hiểu biết
nhất định và đặc biệt là lòng yêu mến, tự hào những giá trị tốt đẹp mà lễ hội mang lại.
Có như thế cơng việc bảo tồn mới có hiệu quả cao.
Với trách nhiệm của mình là đi đầu trong quản lí bản sắc văn hóa, gìn giữ nét
đẹp dân tộc, các cơ quan chức năng đảm nhiệm, chịu trách nhiệm cần tiếp tục đẩy
mạnh việc giáo dục tư tưởng, thực hiện các khảo sát tìm ra nguyên nhân và đề ra giải
pháp. Đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, cần đẩy mạnh thường xuyên. Đề ra
những quy định chung về việc khẳng định những giá trị vô giá của lễ hội truyền
thống, kiên quyết đấu tranh với lối sống thờ ơ vơ cảm với văn hóa dân tộc, từ những
đơn vị nhỏ nhất trong làng xã, trong trường học. Có thể tổ chức các buổi sinh hoạt
ngoại khóa, các cuộc thi tìm hiểu cho học sinh sinh viên hay các buổi họp văn hóa ở
thơn xã cho nhân dân, tăng cường nhận thức. Những người đứng đầu cũng nên làm
gương tốt cho người khác noi theo, tham gia lễ hội, các hoạt động trong đó cũng giúp
nâng cao sự tự hào, góp phần thành cơng trong cơng cuộc gìn giữ bản sắc dân tộc nói
chung và lễ hội Kỳ Yên nói riêng.

15


KẾT LUẬN
Lễ hội dân gian ở Nam Bộ mang những nét riêng biệt đặc sắc, nó được vun đắp
qua hàng trăm năm lịch sử văn hóa mà ơng cha ngày trước đi qua để lại , mà lễ hội Kỳ
Yên là một trong số đó. Dọc theo vùng đồng bằng châu thổ Nam Bộ, Kỳ Yên mang
đậm dấu ấn của cộng đồng người nơi đây và để lại những giá trị đẹp đẽ, nhân văn cho

cả người dân và những ai đã ghé thăm. Từ trước đây khi Nam tiến vào khai khẩn lập
nghiệp, đối diện với mn vàn khó khăn trùng trùng nguy hiểm, tín ngưỡng thờ cúng
thần linh, đặc biệt là thờ Thần Thành Hồng được ơng cha ta tạo nên, ý nghĩa của nó
mang sự nhân văn, tốt đẹp, đáp ứng được nhu cầu về tâm linh của con người, đó là cầu
mong được bình an vơ sự giữa chốn nước đỏ, rừng xanh này. Chính vì vậy nhiệm vụ,
trách nhiệm của chúng ta chính là khơng làm bản sắc ấy mờ nhạt qua năm tháng mà
phải ngày càng được phát huy hơn.
Việc gìn giữ và phát huy các lễ hội truyền thống nói chung và Kỳ n nói riêng
là cơng việc chung cần được chung tay thực hiện lâu dài, để có được kết quả tốt đẹp
nhất thì địi hỏi cần có ý thức từ cộng đồng và những chính sách hợp lí hóa của cán
bộ, chính quyền, đưa Kỳ Yên ngày càng quay về với bản chất tốt đẹp của nó, vừa khai
thác được tiềm năng du lịch.Trong thời đại hiện đại hóa như ngày nay, nhiệm vụ gìn
giữ truyền thống ấy lại càng mn phần khó khăn hơn, thế nhưng với ý thức tự giác, ý
thức đã được tuyên truyền về niềm tự hào bản sắc văn hóa tộc người, tin rằng nhiệm
vụ nặng nề nhưng cũng quá đỗi tự hào ấy sẽ đạt được kết quả tốt đẹp, mỹ mãn. Lễ hội
Kỳ Yên thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, là sự tượng trưng cho lịng thành
kính nhất của nhân dân từ xưa cho đến nay đối với các bậc thần linh tối cao. Bảo tồn
và khôi phục những vốn quý của di sản văn hóa tinh thần của dân tộc tại các lễ hội ở
đình làng cũng là góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng
được đời sống văn hóa cơ sở, tạo được sân chơi cho đông đảo dân làng mỗi kỳ lễ hội,
đồng thời tạo được một điểm tham quan, vui chơi giải trí cho khách du lịch, trong đó
có du khách nước ngoài, đưa lễ hội truyền thống, đưa bản sắc văn hóa dân tộc quảng
bá, ngày một phát triển hơn.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. T.S Huỳnh Quốc Thắng, 2003. Lễ hội dân gian ở Nam Bộ. Viện Văn hóa &
NXB Văn hóa – Thơng tin

2. Trịnh Hồi Đức, 2004. Gia Định Thành thơng chí. NXB Tổng hợp Đồng Nai
3. Nguyễn Quang Lê, 2014. Tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc qua lễ hội truyền
thống người Việt. NXB Mỹ Thuật
4. Nguyễn Chí Bền, 2013. Lễ hội cổ truyền của người Việt: Cấu trúc và thành tố.
NXB Khoa học Xã hội Hà Nội
5. Sơn Nam, Lễ hội Kỳ Yên Nghi Thức
/>6. Wikipedia, Nam Bộ
/>7. Tấn Trung, Lễ Kỳ Yên Đình Gia Lộc
/>8. Dương Anh (Theo Hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di sản văn hóa), Lễ hội Kỳ n ở
đình Gia Lộc
/>9. Quốc Nam, Khai mạc lễ hội Kỳ Yên đình Vĩnh Bình, Gị Cơng Tây
/>10.Cinet, Tiền Giang - Lễ hội Kỳ n ở Gị Cơng Tây
/>11.Wikipedia, Đình Bình Thủy
/>BB%A7y
12. Mekongtourist, Lễ hội truyền thống - Lễ hội cúng đình Bình Thủy
/>Hết

17



×