Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

ĂN HÓA ẨM THỰC BÁNH TÉT NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 16 trang )

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ

ĐỀ TÀI: VĂN HĨA ẨM THỰC
BÁNH TÉT NAM BỘ

NĂM 2020


Mục lục:
TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu
3.2. Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
CHƯƠNG I: BÁNH TÉT TRONG VĂN HÓA ẨM THỰC CỦA NGƯỜI NAM BỘ
1. Nguồn gốc và tên gọi của bánh tét
2. Bánh tét trong văn hóa ẩm thực của người Nam Bộ
2.1. Khái quát về văn hóa ẩm thực Nam Bộ
2.2. Ý nghĩa của bánh tét trong văn hóa ẩm thực và đời sống của người dân
Nam Bộ
CHƯƠNG II: NGUYÊN LIỆU VÀ CÁCH GÓI BÁNH TÉT CỦA NGƯỜI DÂN
NAM BỘ:
1. Về nguyên liệu
2. Về cách gói bánh
CHƯƠNG III: ĐẶC TRƯNG VÀ CÁC LÀNG NGHỀ BÁNH TÉT NỔI TIẾNG Ở
NAM BỘ:
1.
2.
3.


4.

Bánh tét của người Khmer
Bánh tét Trà Cuôn
Bánh tét lá cẩm Cần Thơ
Một số loại bánh tét nổi tiếng khác ở vùng Nam Bộ

TỔNG KẾT
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


TỔNG QUAN:
1. Lý do chọn đề tài:
Trong văn hóa dân gian của người Việt Nam nói tới ăn uống là được ưu tiên nhắc
đến đầu tiên. Ăn uống hay ẩm thực người Việt không chỉ đơn thuần là ăn cho no, ăn
để chống đói mà cịn thổi vào đó những nét đẹp văn hóa thuần túy của con người, biến
ẩm thực thuộc về bản sắc riêng của dân tộc qua nhiều thời kì lịch sử. Việt Nam với
nền văn minh lúa nước từ lâu đời, là quê hương của vô số món ngon, từ các món dân
dã ngày thường cho đến những món ăn cầu kì để phục vụ lễ hội, ngày tết. Mỗi vùng
miền lại có những món ăn khác nhau mang theo bản sắc riêng, nó phản ánh truyền
thống và đặc trưng của từng dân tộc ở từng khu vực khác nhau. Là vùng đất trẻ so với
bề dày lịch sử của đất nước, Nam Bộ là vùng đất có màu sắc văn hóa độc đáo riêng
biệt trong diện mạo chung của đất nước. Nếu ở miền Bắc có món bánh chưng đặc biệt
vào dịp lễ, tết nhằm thể hiện lịng biết ơn đối với trời, đất, ơng bà tổ tiên thì ở miền
Nam cũng có loại bánh tương tự như vậy đó là bánh tét. Ngày nay, có nhiều loại bánh
hay các món ăn được du nhập từ vùng miền hay đất nước khác đến, có đầy đủ hương
vị thơm ngon, độc lạ khác nhau nhưng bánh tét vẫn được được người dân Nam Bộ gìn
giữ trọn vẹn.

2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là cung cấp những thông tin cơ bản có liên quan
đến bánh tét ở Nam Bộ từ đó có thể thấy được những giá trị và ý nghĩa của của nó
trong văn hóa ẩm thực ở vùng này. Qua đó có thể giới thiệu bánh tét đến nhiều nơi
hơn, đồng thời mọi người có thể biết được nét văn hóa truyền thống trong ẩm thực
của người Nam Bộ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đặc trưng của bánh tét ở Nam Bộ và ý nghĩa của
nó trong văn hóa ẩm thực cũng như trong đời sống của người dân vùng đất phía Nam
này.
3.2.

Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đặc trưng các loại bánh tét ở vùng Nam Bộ. Bên
cạnh đó giới thiệu về những nét khác nhau ở một số địa phương và một số nơi có
nghề làm bánh tét nổi tiếng và lâu đời như làng nghề bánh tét ở Trà Cuôn, Trà Vinh.
2


4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu đề tài là thu thập – xử lý thông tin – phân tích tài liệu.
Đầu tiên là thu thập các thơng tin từ các nguồn sách, báo, các website, mạng xã
hội, internet,… có liên quan đến nội dung đề tài.
Sau đó là xử lý và phân tích thơng tin sao cho phù hợp với phạm vi nghiên cứu
của đề tài. Cuối cùng là tổng hợp và sắp xếp lại các nguồn thông tin và tiến hành viết
cho ra sản phẩm cuối cùng.

CHƯƠNG I: BÁNH TÉT TRONG VĂN HÓA ẨM THỰC CỦA NGƯỜI NAM

BỘ
1. Nguồn gốc và tên gọi của bánh tét:
Theo wikipedia thì “Bánh tét, có nơi gọi là bánh địn, là một loại bánh trong ẩm thực
của cả người Kinh và một số dân tộc thiểu số ở miền Nam và miền Trung Việt Nam,
là nét tương đồng của bánh chưng ở Miền Bắc về nguyên liệu, cách nấu, chỉ khác về
hình dáng và sử dụng lá chuối để gói thay vì lá dong, vì vậy nó cũng được sử dụng
nhiều nhất trong dịp Tết Nguyên đán cổ truyền của dân tộc Việt Nam với vị trí khơng
khác bánh chưng. Nhưng cũng có nhiều bánh tét nhân chuối hay đậu đen được làm
hay là bán quanh năm.” Về nguồn gốc, bánh tét được biết đến với nhiều truyện kể
truyền miệng khác nhau. Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng bánh chưng cổ, ngun
thủy là hình trịn như bánh tét hay bánh tày cịn bánh tét ra đời trong q trình giao
lưu văn hóa Việt-Chăm, người Việt tạo ra chiếc bánh Tét từ sự hình tượng hóa yếu tố
Linga từ thần Siva người Chăm. Điều này theo giáo sư Trần Ngọc Thêm là khơng
đúng vì ở nơng thơn Bắc Bộ, bên cạnh loại bánh chưng vng thì cũng có loại bánh
chưng tày với hình dáng giống như bánh tét từ lâu rồi; và cả tín ngưỡng phồn thực
cũng khơng chỉ có người Chăm mới có. (Trần Ngọc Thêm, 2013: 275).
Có truyền thuyết khác cho rằng mùa xuân năm 1789, Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc
đánh quân Thanh. Lúc bấy giờ quân lính được nghỉ ngơi, ăn Tết. Trong số qn lính
có một người lính được vợ gửi cho món bánh làm từ gạo nếp, nhân đậu xanh, hình
dạng như bánh tét ngày nay. Anh lính mang bánh mời vua Quang Trung. Vua ăn thấy
ngon bèn hỏi thăm về loại bánh này. Anh lính kể, bánh do người vợ ở quê nhà làm gửi
cho. Mỗi lần ăn bánh, anh càng thương, càng nhớ vợ nhiều hơn. Anh mắc chứng đau
bụng nhưng khi ăn bánh này thì lại khơng thấy đau nữa. Nghe câu chuyện cảm động
3


của anh lính, vua bèn ra lệnh cho mọi người gói loại bánh này để ăn Tết và đặt tên là
bánh Tết, lâu ngày đọc chạy thành bánh Tét. Cũng có lý giải cho rằng, tét là hành
động khi cắt bánh, người ta sẽ dùng dây khoanh tròn đầu bánh đã lột rồi “tét” từng
khoanh nhỏ ra vì thế nên người ta gọi là bánh tét.


H1: Bánh tét vùng Nam Bộ
(Nguồn: />2. Bánh tét trong văn hóa ẩm thực của người Nam Bộ:
2.1.

Khái quát về văn hóa ẩm thực Nam Bộ:

Văn hóa ẩm thực Nam Bộ bắt nguồn từ dấu ấn của nền nơng nghiệp lúa nước cùng
với địa hình sơng nước phù sa. Chính vì vậy mâm cơm của người Nam Bộ khơng thể
thiếu các món từ lúa gạo, rau, cá,… “Đói ăn rau, đau uống thuốc. Mâm cơm của
người Nam Bộ phải đầy đủ các món ăn từ mặn đến canh mới là mâm cơm, đầy đủ các
thành viên trong gia đình mới có thể cảm nhận được hết vị ngon của bữa ăn. Tính
tổng hợp này đã trở thành vẻ đẹp độc đáo trong văn hóa ẩm thực của người Việt Nam.
Văn hóa ăn uống của người Nam Bộ mang tính cộng đồng, tổng hợp. Trong mâm
cơm có đầy đủ các món được đem lên cùng một lúc nào là cơm, rau, cá cùng với các
món như canh, kho, xào,… và cùng chấm chung một chén nước chấm khác hẳn với
người phương Tây. Cơ cấu bữa ăn cũng hội tụ đủ các yếu tố nóng – lạnh, âm – dương,
không gian phải thật thoải mái, thưởng thức bằng nhiều giác quan để cảm nhận hết vị
ngon của món ăn. Dù có đi xa, đi gần, về sớm, về muộn, dù bất cứ buổi họp mặt, đám
4


tiệc nào cũng phải đợi cho đủ mặt rồi mới ăn, đó chính là tính cộng đồng trong văn
hóa ẩm thực của người Việt.
2.2.

Ý nghĩa của bánh tét trong văn hóa ẩm thực và đời sống của người dân Nam
Bộ:

Từ thời khai hoang lập địa, người Nam Bộ đã gói bánh tét để làm lễ vật dâng cúng tạ

ơn trời đất, ông bà, tổ tiên. Theo quan niệm ông bà xưa, những loại bánh, thức ăn
được sử dụng trong ngày tết tất cả đều có ý nghĩa tưởng nhớ người xưa, cầu chúc cho
sự ấm no, hạnh phúc, sum vầy của gia đình. Tạ ơn tổ tiên, trời đất đã cho người dân
mùa màng thuận lợi và bội thu. Có ý kiến cho rằng bánh tét được bọc nhiều lớp lá bên
ngồi tượng trưng cho hình ảnh người mẹ bọc lấy con thể hiện sự sum vầy, đoàn viên,
ấm áp trong gia đình vào ngày tết. Có người lý giải rằng nếu bánh chưng hình vng
tượng trưng cho âm tính là tinh hoa của đất. Bánh tét hình trụ, trịn, đầy đặn, tượng
trưng cho dương tính, nói lên sự mạnh mẽ, kiên cường, sự thẳng thắng của người dân
Nam Bộ. Bánh tét luôn chứa những ý nghĩa mang triết lý âm dương trong đó. Thịt,
mỡ trong nhân là dương, đậu, nếp, lá chuối gói bánh là âm. Bánh tét cịn chứa cả
thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành với năm màu sắc: màu xanh của lá gói bánh
(mộc), màu vàng của đậu xanh làm nhân bánh (thổ), màu đỏ (hỏa) ở phần nạc và màu
trắng (kim) ở phần mỡ của thịt ba chỉ, màu đen (thủy) của hạt tiêu trộn vào nhân
bánh. Âm dương ngũ hành hòa quyện với nhau trong một món ăn đầy ý nghĩa vào dịp
lễ tết đặc biệt. Khi dâng cúng thì cúng theo cặp tượng trưng cho sự song toàn, tốt đẹp.
Bánh tét hầu như có mặt quanh năm suốt tháng chứ khơng chỉ riêng ngày tết nữa và
hầu như đại đa số nhà nhà đều biết gói bánh tét vào các dịp lễ tết: “Có thể nói, ở đồng
bằng sơng Cửu Long, trước đây thơn nữ nào cũng biết gói bánh tét. Ngày giỗ, ngày
tết, hội hè, đình đám bao giờ cũng có bánh tét và bánh ít.” (Huỳnh Văn Nguyệt,
2016: 256). Trong ngày lễ, tết bánh tét được coi như bánh tổ, bánh lễ, được xếp chung
với mâm ngũ quả và dĩa trầu cau trên bàn cúng, ở những nơi trang trọng. Bánh tét
khơng chỉ xuất hiện vào dịp tư tết mà cịn theo người dân ra đồng và nằm trong ba lô
người lính chiến, dần dần trở thành món ăn quen thuộc, gần gũi và hòa nhập với đời
sống của người dân Nam Bộ.

5


H2: Màu sắc trong bánh tét tượng trưng cho âm dương ngũ hành.
(Nguồn: />22a9f4ec5b1b2e4de&oe=556AF846 ).

CHƯƠNG II: NGUYÊN LIỆU VÀ CÁCH GÓI BÁNH TÉT CỦA NGƯỜI DÂN
NAM BỘ:
1. Về nguyên liệu:
Muốn gói bánh tét thì cần phải có đầy đủ ngun liệu và nguyên liệu phải được chọn
lọc kĩ càng thì mới ra được những đòn bánh tét vừa ngon, đẹp và chất lượng. Vùng
đất màu mỡ, trù phú, nông nghiệp phát triển, cây trái tươi tốt của vùng Nam Bộ cũng
làm cho thành phần nguyên liệu của bánh tét rất phong phú và đa dạng. Theo truyền
thống thì người miền Nam gói bánh tét với hai loại nhân đó là: nhân thịt để dùng
trong bữa ăn gọi là bánh tét mặn; nhân đậu, nhân chuối,… dùng để cúng tổ tiên, trời
đất và để ăn gọi là bánh tét chay. Về nguyên liệu, muốn gói bánh tét ngon, đẹp phải
chọn lọc nguyên liệu thật kĩ, tùy vào loại bánh mà cần chuẩn bị nguyên liệu cho phù
hợp. Để gói bánh tét thì khơng thể thiếu lá, ở miền Bắc gói bánh chưng bằng lá dong
cịn miền Nam thì hầu như gói bằng lá chuối. Người ta phải đi cắt lá chuối chuẩn bị từ
một đến hai ngày trước khi gói bánh. Lá chuối được chọn để gói bánh tét thường là
chuối Xiêm vì lá to gói bánh sẽ dễ dàng và đẹp mắt hơn. Dây lạt buộc bánh thường sẽ
6


dùng dây lát phơi khô cho dẻo dai rồi buộc, có những nơi người ta dùng dây lát để
buộc định hình bánh trước sau đó dùng dây nilon để cột hồn thành địn bánh. Buộc
bánh bằng dây nilon cũng có nhiều tiện lợi hơn vì dây có độ bền cao, khi gói bánh với
các loại nhân khác nhau thì người ta sẽ dùng dây màu khác nhau để dễ phân biệt.
Thành phần tiếp theo vơ cùng quan trọng đó là nếp. Bánh tét là bánh để cúng hay đãi
khách nên người Nam Bộ sẽ chọn những loại nếp ngon nhất để được địn bánh thơm,
dẻo chất lượng nhất có thể. Kế đến phần nhân, ngày xưa thì có nhân đậu xanh với
nhân chuối, cịn ngày nay thì đa dạng hơn như: đậu xanh với thịt mỡ, bánh nước tro,
hạt điều, trứng muối, tơm khơ, lạp xưởng,… ngồi ra cịn có thêm đậu đen, đậu phộng
được trộn chung với nếp tạo thêm hương vị hấp dẫn hơn. Người dân ở Nam Bộ vốn
ưa béo, ngọt nên họ còn cho thêm nước cốt dừa vào nếp cho món bánh, đây cũng là
một điểm khác so với bánh chưng ở miền Bắc. Người ta thường dùng lá dứa, lá cẩm,

trái gấc vào nếp để tạo màu sắc sặc sỡ, bắt mắt cho bánh tét. Ngồi ra cịn chuẩn bị
một số loại gia vị như đường, muối để điều chỉnh mùi vị cho miếng bánh tét hồn
chỉnh, vừa miệng.
2. Về cách gói bánh:
Bánh tét được khen là ngon, khéo là khi cắt ra bánh phải có mùi thơm, phần nếp phải
rời ra khơng dính phần lá, nếp phải dẻo, mịn và trong, phần nhân phải vừa ăn khơng
q mặn cũng như q ngọt. Vì vậy các cơng đoạn diễn ra hết sức cầu kì, cần phải có
sự tỉ mỹ, khéo léo và phải đặt cái tâm vào quá trình làm bánh. Đầu tiên chuẩn bị phần
lá gói bánh, trước khi gói bánh một, hai ngày thì người ta sẽ đi chọn những tàu lá
chuối to, xanh sau đó đem phơi nắng cho lá mềm, dẻo lại vì lá tươi gói bánh sẽ giịn
dễ rách. Những miếng lá to được lau sạch rồi xếp gọn lại, mấy miếng lá rách, nhỏ thì
để riêng dùng bịt đầu cho địn bánh. Dây lát thì chẻ nhỏ thành sợi rồi phơi cho héo để
dây dẻo dai chuẩn bị cho khâu cột bánh. Trước hết phải chọn được giống nếp ngon,
nếp dẻo thơm loại thượng hạng. Sau đó đem nếp ngâm trong nước lạnh, có khi vắt
thêm nước cốt chanh vào để nếp trong và ngon hơn. Nếp phải ngâm ít nhất vài tiếng
đồng hồ cho mềm rồi đem vo sạch, thường người ta sẽ để nếp qua đêm cho ráo rồi
sáng sớm mới làm công đoạn kế tiếp. Khi đã ráo nước thì bắt chảo lên, cho nếp vào
xào chung với nước cốt dừa và có khi thêm một ít muối cho đều vị, xào đến khi hạt
nếp gần ráo rồi thì có thể thêm nước cốt lá dứa, lá cẩm, đậu đen… vào để tạo màu cho
nếp. Cơng đoạn này chính là cần sự khéo léo, kinh nghiệm của cánh đàn bà. Nếp khi
ráo lại thì đã nặng tay rồi, cần có một sức lực nhất định mới đảo nổi cái chảo nếp to
đùng nóng hổi trên bếp than hồng, và cũng công đoạn này sẽ quyết định độ ngon của
bánh, nếu nếp khơ thì bánh sẽ khơ và cứng cịn nếp cịn ướt q thì bánh sẽ mềm nhão
7


khơng ngon. Vì vậy cái q trình này cần có bàn tay khéo léo của những người phụ
nữ mới đảm nhận được.
Phần nhân bánh cũng được làm cùng lúc, tùy vào từng loại nhân mà cách làm sẽ khác
nhau. Như nhân chuối thì người ta chọn những trái chuối xiêm chín, lột vỏ có thể để

ngun trái hay chẻ làm đơi, làm tư ngâm vào nước muối lỗng cho chuối khơng bị
thâm. Sau đó vớt chuối ra ướp với đường, ít muối có khi người ta cho thêm ít rượu
trắng để nhân chuối có màu đỏ đẹp. Cịn nhân đậu xanh, có nơi gói với đậu xanh cịn
sống nhưng thường sẽ chọn loại đậu xanh cà đã bóc vỏ sau đó đem ngâm rồi vớt ra
nấu chín mềm với đường, muối, nước cốt dừa cho béo, thơm. Khi nấu đậu xong
thường sẽ có lớp đậu cháy dưới đáy nồi, phần này khơng để gói bánh nhưng là món
ăn chơi của đám con nít thì rất ngon bởi mùi thơm, vị ngọt ngào béo ngậy làm ai cũng
mê. Bánh chay thì đậu xanh nấu xong tạo thành khối trụ dài là được rồi. Cịn về bánh
tét mặn thì sẽ thêm vào mỡ hay mỡ thịt, cắt thành miếng vuông dài cạnh chừng 1-2
cm dài gần bằng đòn bánh tét rồi đặt vào chính giữa nhân đậu. Khi nếp đã nguội bớt
rồi thì sẽ tiến hành gói bánh. Đầu tiên là lấy vài ba miếng lá chuối đã chuẩn bị từ
trước, đặt một miếng ngang, một miếng dọc để tránh bị rách lá khi gói. Xúc nếp lên lá
rồi trải đều ra thành hình vng rồi đặt nhân vào giữa, gấp hai mép lá lại thành hình
trụ trịn, lấy dây lát quấn vài vịng ở giữa địn bánh rồi ngoai lại (khơng phải cột) rồi
xếp lá thừa ở một đầu lại rồi lấy lá nhỏ bịt đầu lại cho gọn. Sau đó dựng đứng địn
bánh lên, bịt đầu cịn lại giống cơng đoạn vừa rồi và cột thành từng khoanh tròn dọc
theo hết đòn bánh. Các nuộc lạt phải buộc vừa đủ độ chặt và khéo léo cách đều nhau
để khi nấu bánh không bị bung ra và nước không thấm vào trong để giữ bánh được
lâu hơn. Với người trong nghề thì ai cũng biết bánh tét phải nấu bằng than củi thì mới
ngon. Tùy chỗ sẽ nấu hoặc hấp nhưng quan trọng là độ khéo léo của người làm sẽ
quyết định được độ ngon của bánh. Bánh được xếp tất cả vào nồi, đổ nước vào cho
ngập bánh, chụm bằng củi chắc cho to lửa ban đầu. Khi nồi bánh đã sơi đều thì bớt củi
lại, hầm trong than nóng chừng năm bảy tiếng đồng hồ thì bánh chín. Vớt ra đem xả
ước lạnh hoặc treo trên sào cho ráo nước, nguội dần. Cái q trình đợi bánh chính,
nhất là trong đêm giao thừa chính là những thời khắc ấm cúng nhất của các gia đình
vây quần bên nhau, từ những đứa con nít đến người lớn, cụ già ai ai cũng mong chờ
đến giờ phút này, đây cũng là một trong những truyền thống mang giá trị văn hóa rất
đẹp của người Việt Nam ta.

8



H3: Cả nhà quây quần bên nồi bánh tét chiều 30 tết.
(Nguồn: />
CHƯƠNG III: ĐẶC TRƯNG VÀ CÁC LÀNG NGHỀ BÁNH TÉT NỔI TIẾNG
Ở NAM BỘ:
1. Bánh tét của người Khmer:
Người Khmer gọi bánh tét là Chrut. Bánh tét của người Khmer về hình thức cũng
giống như bánh tét cổ truyền gói bằng nếp nhân đậu, chuối và nhân thịt. Khác hơn
người Việt, bánh tét không chỉ để cúng ông bà, tổ tiên, người Khmer có thể dùng bánh
tét để thay cơm trong các bữa ăn hàng ngày. Trong đời sống văn hóa, hình ảnh địn
bánh tét của người Khmer là lễ vật thiêng liêng mang ý nghĩa phồn thực. “Từ xa xưa,
đòn bánh tét là biểu tượng linga của thần Visnu tượng trưng cho sức sống, cho sự
trường tồn. Vì vậy trong lễ cưới của người Khmer bao giờ cũng có bánh tét với mong
muốn đơi trai gái hịa hợp, phát triển, gia đình hạnh phúc.”
(Huỳnh Văn Nguyệt,
2016: 73). Một loại bánh tét nổi tiếng của người Khmer là bánh tét cốm dẹp. Nguyên
liệu chính của bánh là cốm dẹp, đây cũng là một loại nếp được người ta thu hoạch
sớm hơn nửa tháng, sau đó cho vào chảo ranh tren lửa nhỏ cho chín, sau đó cho vào
9


cối giã, lấy ra nia sạch vỏ trấu còn lại là phần cốm. Cách thức làm bánh tét cốm dẹp
cũng tượng tự như bánh tét truyền thống nhưng đòn bánh nhỏ gọn, vừa tay hơn.
2. Bánh tét Trà Cn:
Nói đến bánh tét Nam Bộ không thể nào không nhắc tới bánh tét Trà Cuôn ở huyện
Cầu Ngang tỉnh Trà Vinh. Bánh được làm từ loại nếp ngon nhất, phải đem vo khoảng
5 nước trước khi gói và trộn đều với nước cốt rau ngót để tạo màu và mùi thơm tự
nhiên. Phần nhân bánh gồm đậu xanh, thịt heo, lòng đỏ trứng muối. Đậu xanh phải là
những hạt to, tròn đều và được bóc sạch vỏ, thịt mỡ heo được cắt thành miếng dài

vuông. Phần nhân được tẩm ướp gia vị vừa phải như hành lá, muối, đường, bột
ngọt,… sau đó đến cơng đoạn gói và nấu bánh cũng tương tự bánh tét truyền thống.
Quá trình nấu bánh cũng rất cơng phu, phải có người canh chừng nồi bánh, phải giữ
lửa, thêm nước thường xuyên. Sau khi vớt bánh, mở hai đầu bánh cho ráo nước rồi
gói lại như cũ, làm như vậy là để bánh tét giữ được lâu hơn. Bánh tét sẽ hấp dẫn hơn
nếu ăn kèm với dưa kiệu, tôm khô hay dưa củ cải muối. Bánh tét Trà Cn đã có
truyền thống lâu đời hơn 80 năm và trở nên nổi tiếng nhờ sự thơm ngon rất riêng biệt
không thể nhầm lẫn với các loại bánh khác. Nhờ hương vị thơm ngon đặc trưng và có
thể bảo quản được lâu, bánh tét Trà Cuôn được rất nhiều người ưa chuộng, có những
kiều bào cịn mang cả đòn bánh tét ra các nước phương Tây.

H4: Bánh tét Trà Cuôn nổi tiếng.Nguồn:
( />
10


3. Bánh tét lá cẩm Cần Thơ:
Bánh tét lá cẩm là một loại bánh tét có nguồn gốc từ thành phố Cần Thơ. Bánh tét lá
cẩm khác với bánh tét thơng thường là có một màu tím đặc trưng vơ cùng đẹp mắt.
Người “phát minh” ra món bánh tét này một cụ bà người ta gọi bằng cái tên thân mật
là bà Sáu Trọng. Thời còn trẻ, bà Sáu theo nghề của gia đình là nghề làm bánh truyền
thống, trong một lần tình cờ bà dùng nước cốt lá cẩm thay cho lá dứa và bánh tét lá
cẩm màu tím đã ra đời từ đó. Màu tím của lá cẩm khơng chỉ làm bắt mắt mà cịn có
giá trị về dinh dưỡng vì lá cẩm được coi là có vị thuốc trong dân gian. Để có được
món bánh tét lá cẩm ngon gồm có các thành phần cơ bản của món bánh tét như: nếp
loại ngon, đậu xanh, thịt mỡ, chuối, trứng muối và đương nhiên không thể thiếu lá
cẩm. Các cơng đoạn chuẩn bị, gói bánh, nấu bánh cũng tương tự như bánh tét truyền
thống. Bánh tét lá cẩm làm thỏa mãn nhiều giác quan của người thưởng thức, mùi vị
ngon, ngọt, béo của nếp và nhân bánh cùng với mùi thơm nhẹ và màu tím đậm đà hịa
quyện với nhau tạo thành một hương vị đặc trưng cho món bánh. Vì lá cẩm là một

loại cây dễ trồng nên hiện nay bánh tét lá cẩm được phổ biến rộng rãi ở mọi nơi trên
vùng đất Nam Bộ, được rất nhiều người ưa chuộng trong đó có cả du khách nước
ngoài.

H5, H6: Bánh tét lá cẩm Cần Thơ.
(Nguồn: /> />11


4. Một số loại bánh tét nổi tiếng khác ở vùng Nam Bộ:
Nói đến những làng nghề bánh tét lâu đời ở miền Tây phải nhắc đến bánh tét bánh tét
Hội Gia (Mỹ Phong, Mỹ Tho, Tiền Giang) bên bờ sông Tiền. Ở đây nổi tiếng với
nghề làm bánh tét đã hơn nửa thế kỉ, đến Hội Gia có thể thưởng thức món bánh tét lá
cẩm hay bánh tét ba màu nhân thập cẩm rất được ưa chuộng. Mấy ngày lễ tết sợ ăn
bánh tét mặn ngán, bà con Nam Bộ cịn gói các loại bánh tét ngọt đặc biệt ở các gia
đình ăn chay. Ở Bến Tre có bánh tét không nhân, bánh được làm từ nếp trộn chung
với đậu đen hay đạu phộng với nước cốt dừa, ăn rất béo và thơm.
Bánh tét mật cật Phú Quốc cũng là một loại bánh tét nổi tiếng, phổ biến ở đảo Ngọc,
được gói bằng lá mật cật. Mật cật là loại cây có lá xịe rộng như lá cọ, người ta dùng
lá mật cật để chằm nón lá nhưng khơng biết vì sao lại dùng lá này để gói bánh tét.
Điểm độc đáo của bánh tét mật cật là không gói thành địn trịn mà gói thành địn hình
tam giác. Các cơng đoạn gói bánh tét mật cật cũng gần giống như bánh tét truyền
thống, thay vì lá chuối được phơi cho hơi héo thì lá mật cật cũng như vậy mà lau lá
bằng dầu cho mềm thêm. Cũng là đòn bánh tét với nếp và nhân chuối hay đậu, thịt mỡ
nhưng gói bằng thứ lá đặc biệt này làm cho bánh cũng mang vẻ đặc biệt hơn. Khách
đến Phú Quốc mỗi lần về đều mua bánh tét mật cật về làm quà cho bạn bè, người
thân, ngày càng trở nên nổi tiếng hơn.
Ở xứ dừa Bến Tre có một loại bánh tét vô cùng độc đáo mà không phải ai cũng làm
được đó là bánh tét nhân chữ. Người sáng tạo ra loại bánh tét độc lạ này là bà Huỳnh
Thị Hải người ta hay gọi là bà Hai Hải ngụ tại xã Mỹ Thạnh An, tỉnh Bến Tre. Về
phần nhân chữ của bánh được làm từ nhân đậu xanh, các công đoạn để tạo ra phần

nhân chữ nằm gọn, đẹp trong nếp rất công phu. Mỗi nhân chữ trong đòn bánh tét
thường phục vụ vào ngày tết được làm ra với ý riêng nhưng tất cả đều có chung ý
niệm là chúc năm mới an khang đầm ấm. Bởi vậy khách hàng hay gọi đây là bánh tét
“biết nói” và hiện bánh tét này được người người nhà nhà ưa chuộng bởi nét độc đáo,
hấp dẫn của nó.

12


H8: Bánh tét nhân chữ độc đáo ở Bến Tre.
(Nguồn:
/>TỔNG KẾT:
Ẩm thực là lĩnh vực dễ thể hiện cái đặc trưng của một vùng miền và bánh tét cũng là
một món ăn tạo nên cái đặc sắc của văn hóa Nam Bộ rõ rệt nhất. Muốn cảm nhận trọn
vẹn sự kỳ diệu, những ý nghĩa sâu sắc của bánh tét, phải trải nghiệm từ khâu nguyên
liệu đến gói bánh, nấu và chờ nồi bánh chín. Đặc biệt trong đêm giao thừa, những
đêm nấu bánh tét tết, nó cho người ta cảm giác ấm áp, hạnh phúc sum vầy của mái ấm
gia đình. Những lúc gói bánh tét cũng chính là thời điểm để gắn kết tình bà con hàng
xóm lại với nhau, cùng nhau gói bánh rồi tán dóc, chia sẻ kinh nghiệm cho thế hệ con
cái sau này, tạo nên cái tình nghĩa làng xóm đậm đà biết bao nhiêu. Gần đây cơn bão
lịch sử đi qua miền Trung, bà con trong phía Nam đã kêu gọi cùng nhau gói hàng
ngàn địn bánh tét để gửi đi hỗ trợ miền Trung thân thương. Cũng rất tinh ý, các cô,
các bà có thay đổi một chút về phần nguyên liệu là không thêm nước cốt dừa giúp
bánh giữ được lâu hơn. Họ làm bằng cái tâm, bằng cả tấm lòng mong rằng sẽ cứu
13


được những cơn đói, góp phần làm giảm đau thương mất mác do thiên tai gây ra. Qua
đó có thể thấy được tấm lòng cao đẹp của dân tộc Việt Nam nói chung và người dân
miền Nam nói riêng.


H9: Bà con miền Nam cùng nhau gói bánh tét hỗ trợ đồng bào miền Trung.
(Nguồn: />08360509039/)
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trần Ngọc Thêm, 1996. Cơ sở văn hóa Việt Nam. NXB Giáo dục.
2. Trần Ngọc Thêm, 2013. Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ. NXB Văn hóa
– Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
3. Huỳnh Văn Nguyệt, 2016. Văn hóa ẩm thực vùng đồng bằng sông Cửu Long.
NXB Mỹ Thuật.
4. Mai Khôi, Vũ Bằng, Thượng Hồng, 2006. Văn hóa ẩm thực Việt Nam: Các
món ăn miền Nam. NXB Thanh Niên.
5. Trần Phỏng Diều, 2014. Văn hóa ẩm thực người Việt vùng đồng bằng sơng Cửu
Long. NXB Văn hóa Thơng tin.
6. Phạm Thị Phương Hạnh (chủ biên), Lương Minh Hinh – Vũ Thống Nhất –
Huỳnh Cơng Tín; 2011. Văn hóa Khmer Nam Bộ: Nét đẹp trong bản sắc văn
hóa Việt Nam. NXB Chính Trị Quốc gia – Sự thật.Type equation here.

14


7. />8. />
15



×