Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

NÉT VĂN HÓA CHỢ SÀI GÒN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 23 trang )

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
TÊN ĐỀ TÀI:
NÉT VĂN HĨA CHỢ SÀI GÒN

NĂM 2020


MỤC LỤC

I. TỔNG QUAN..........................................................................................................1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.......................................................................................1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU............................................................................... 1
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU....................................................1
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................................................................1
5. DỰ KIẾN KẾT QUẢ SAU NGHIÊN CỨU.......................................................2
I. NỘI DUNG..............................................................................................................2
1. CHỢ TRONG TIỀM THỨC NGƯỜI VIỆT NAM............................................... 2
2. CHỢ TRONG TIỀM THỨC NGƯỜI SG..............................................................2
3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH.......................................................................................3
4. CÁCH ĐẶT TÊN CHỢ Ở SG................................................................................5
5. ĐẶC TRƯNG CỦA MỘT SỐ CHỢ NỔI TIẾNG................................................ 8
5.1 CHỢ BẾN THÀNH...........................................................................................9
5.2 CHỢ BÌNH TÂY.............................................................................................14

II. KẾT LUẬN..........................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................ 21


I. TỔNG QUAN
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ lâu khi nhắc đến Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh là người ta sẽ nghĩ đến một thành


phố sầm uất với vô vàn chợ và trung tâm mua sắm lớn nhỏ, từ cao cấp tới bình dân. Tuy
nhiên, nếu muốn có được một cảm giác đích thực về lối sống của người dân thành phố thì
cách nhanh nhất là đến những khu chợ địa phương, hòa vào dòng người tấp nập ở đây.
Với một chút lộn xộn với vô vàn gian hàng được trưng bày và những mùi hương khác
nhau của những món ăn ở chợ, ta sẽ có cái nhìn chân thực nhất về văn hóa chợ Sài Gịn
nói riêng và văn hóa của Sài Gịn nói chung. Lý do tơi chọn đề tài này là vì tơi là một
người thích đi đây đó chụp ảnh. Tơi đã đi rất nhiều khu chợ ở Sài Gịn và tơi cảm thấy ở
đây, chợ là một cái gì đó rất thú vị. Với mục đích để tìm hiểu thêm về văn hóa chợ ở Sài
Gịn và góp phần giới thiệu cho mọi người về những nét văn hóa của nơi tơi sống và học
tập.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Giới thiệu lịch sử hình thành, cách đặt tên, những nét chung của các chợ ở Sài Gịn,
Những nét văn hóa của một số ngơi chợ tiêu biểu như chợ Bến Thành, chợ Bình Tây, và
ý nghĩa của chợ trong tâm thức người Sài Gịn.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Các ngơi chợ ở Sài Gịn.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Tìm hiểu về đề tài nghiên cứu, cụ thể là chợ Sài Gòn cùng với lịch sử hình thành
của nó, những giá trị văn hóa, ý nghĩa của chợ đối với người dân Sài Gịn
Tìm tài liệu, tham khảo các các nguồn, các bài viết từ sách, internet, báo điện tử.
Hướng tiếp cận liên ngành:
- Lịch sử: quá trình hình thành của các chợ Sài Gòn

1


- Văn hóa: giá trị của chợ trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân Sài
Gòn.
- Du lịch: phát triển các hoạt động du lịch, tham quan các ngơi chợ ở Sài Gịn, vừa

giới thiệu văn hóa Việt Nam tới thế giới, vừa tạo ra nguồn thu du lịch cho thành
phố.
5. DỰ KIẾN KẾT QUẢ SAU NGHIÊN CỨU

Biết được những giá trị và nét đẹp độc đáo của chợ Sài Gịn, từ đó tìm ra biện pháp
bảo tồn và phát triển những nét đẹp đó, ứng dụng linh hoạt để phát triển ngành du
lịch.
I. NỘI DUNG
1. CHỢ TRONG TIỀM THỨC NGƯỜI VIỆT NAM
Trong tâm thức của người Việt Nam, chợ xưa nay là nơi tụ họp bán mua, trao đổi hàng
hóa phục vụ đời sống cộng đồng ở mỗi vùng đất. Đi chợ và họp chợ là nét văn hóa
thương mại dân dã, quen thuộc. Người ra chợ, nhiều khi không phải là để mua đồ. Họ đi
chợ có khi chỉ mua trái bí hoặc vài lạng tép nhưng mục đích chính lại là học hỏi phương
cách làm ăn, hỏi thăm tình hình người thân, chuyện xóm làng qua người đi chợ.
Chợ còn là nơi gặp gỡ giao lưu của người tứ xứ. Văn hóa chợ đã đi vào tiềm thức người
Việt, dẫu đó là thị thành hay thơn q.
Trai khơn tìm vợ chợ đơng
Gái khơn tìm chồng giữa chốn ba quân

2. CHỢ TRONG TIỀM THỨC NGƯỜI SÀI GÒN

2


Hình 1: Cảnh chợ hoa Đầm Sen tấp nập vào nửa đêm
Nguồn: Minh Hào
Là trung tâm kinh tế, thành phố hiện đại bậc nhất cả nước nhưng việc họp chợ ở mỗi khu
phố, mỗi trục đường, chân cầu hay góc hẻm đã trở thành một hình ảnh quen thuộc, trở
thành bản sắc khó từ bỏ đối với người dân. Đối với người dân lâu đời hoặc những người
tứ xứ đến đây làm ăn, chợ chính là nơi học có thể tìm lại chút hồi niệm ngày xưa, hoặc

một chút hương vị quê hương mà họ đã bỏ lại sau lưng để đi gây dựng sự nghiệp nơi xứ
xa.
3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Theo tư liệu được ghi lại trong cuốn Lang thang phố thị của KTS Nguyễn Ngọc Dũng,
năm 1698, chúa Nguyễn Phước Chu (Minh Vương) lệnh cho thống soái Nguyễn Hữu
Cảnh vào Nam lập phủ Gia Định cai trị lưu dân thuộc dinh Phiên Trấn. Năm 1772,
Nguyễn Hữu Đàm thu quân về dinh Phiên Trấn - Sài Gòn đắp lũy Tân Hoa (lũy Bán Bích)
3


từ chùa Cây Mai (Q.5 - Chợ Lớn) đến kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè, bao gồm dinh Phiên
Trấn và dinh Điều Khiển ở giữa, phố chợ Bến Nghé (nay là Sài Gịn) ở phía đơng và phố
chợ Sài Gịn (nay là Chợ Lớn) ở phía tây. Từ đây có tên gọi chính thức là thành phố Bến
Nghé - Sài Gòn (Saigon city hay Ville de Saigon).
18 năm sau, thành Bát Quái được xây dựng và được mệnh danh là Gia Định Kinh. Đến
năm 1863, thành mới được đắp lại hình vng gọi là Phượng Thành hay Thành Phụng.
Thời kỳ này, Bến Nghé - Sài Gòn vẫn là phố chợ với nếp sinh hoạt kẻ chợ, thôn xã truyền
thống.
Năm 1862, đại tá công binh Coffyn đuổi hết dân kẻ chợ ra ngoại ô để lập quy hoạch mới
theo phong cách châu Âu, bao gồm: Sài Gòn (chợ Bến Nghé) và Chợ Lớn (Sài Gòn cũ)
rộng khoảng 25 km2. Quy hoạch này ảo tưởng không thể thực hiện được. Thành phố Sài
Gịn sau đó chỉ rộng 3 km2 và Chợ Lớn rộng 2km2, được ngăn cách bởi đồng ruộng. Khi
ấy, dân kẻ chợ (tiền thân người thành phố) tập trung tại Chợ Lớn và các chợ nhỏ ngồi rìa.
Cuối thế kỷ 19, ranh giới 2 thành phố mới kéo sát lại nhau. Rồi đến năm 1914, Sài Gòn
trở thành Hòn ngọc Viễn Đông với quy hoạch rõ ràng, không gian mở, rộng thống. Dân
kẻ chợ được giao thương bn bán quốc tế với hàng loạt bến cảng. Lúa gạo từ ĐBSCL
được đổi thành hàng hóa đem lên Sài Gịn xuất khẩu. Từ đó, các nhà bn gạo lập ra các
phố chợ gạo với hàng trăm dãy nhà, trên bến dưới thuyền dọc sơng Sài Gịn, kênh rạch.
Dần dà, dân số đơng lên, kinh tế phát triển, hàng loạt phố chợ khác mọc lên như phố chợ
giày da, vải, gà vịt, heo quay, thuốc bắc, hàng mã... và một số khu chợ kết hợp sản xuất

tiểu thủ công nghiệp như bánh, mứt, nón, đèn, đồ mỹ nghệ...Thời kỳ này, thành phố đúng
là một trung tâm thương mại lớn nhất cả nước, nói đúng hơn là cái chợ lớn nhất với đủ
loại hình dáng. Chợ Bến Thành với phố xá tấp nập hai bên Kinh Sa Ngư (đường Nguyễn
Huệ), chợ Bến Nghé (Đồng Khởi, Nguyễn Huệ), chợ Bến Sỏi, chợ Thị Nghè, chợ Điều
Khiển (đường Nam Quốc Cang), chợ Sài Gòn (Chợ Lớn ngày nay), chợ Bình An...
Những chợ này được sử sách miêu tả: “phố xá liên tiếp liền mái nhau dài độ vài ba dặm,
hàng hóa trong chợ bày bán có: gấm đoạn, đồ sứ, giấy mực, châu báu, sách vở, thuốc
thang, trà bột là những hàng hóa nam bắc theo đường sơng, đường biển chở đến đây
khơng thiếu món nào”.

4


Lịch sử cận đại, thành phố có nhiều biến động. Năm 1943, kỹ sư Pugnaire, kiến trúc sư
Cerutti (Giám đốc Đông Dương sự vụ về đô thị và kiến trúc) cơng bố kế hoạch chỉnh
trang Sài Gịn - Chợ Lớn với đề tài “Khu thương nghiệp Sài Gịn”. Theo đó, khi nới rộng
về phía bắc, nhà ga mới ở góc đường Chasseloup - Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai) và
đường Somme (Hàm Nghi) được nối dài gặp nhau tại Vườn Chuối. Phía tây nới rộng đến
trạm Desmares, qua cơng viên 23.9. Khu chợ mới mở rộng gấp đôi, phố buôn bán được
xây dựng dọc các trục đường. Cùng với đó, trong suốt khoảng thời gian này, Sài Gòn
tăng dân số nhanh chóng. Người ở các vùng quê đổ về thành phố với hàng loạt khu ở tạm
bợ trên kênh rạch. Chợ cóc, chợ chồm hổm đua nhau mọc lên.

4. CÁCH ĐẶT TÊN CHỢ Ở SG
Với dân số gần 9 triệu dân, hoạt động bn bán ở Sài Gịn ln diễn ra tấp nập, nhộn nhịp.
Nói đến Sài Gịn - Thành Phố Hồ Chí Minh khơng thể khơng nói đến những ngơi chợ, dù
ồn ào hay lặng lẽ thì chính những ngơi chợ này đã tạo nên một phần hồn của Sài Gịn.
Thành phố Hồ Chí Minh được mệnh danh là ‘’Thành phố chợ’’. Nói về các loại chợ ở
Thành phố Hồ Chí Minh thì chỉ riêng về mặt phân loại chợ thì ta đã có thể bổ sung khá
nhiều từ vựng: chợ đầu mối, chợ bán lẻ, chợ mẹ, chợ con, chợ sáng, chợ chiều, chợ đêm,

chợ xổm, chợ xóm, chợ phường, chợ quận, chợ chìm, chợ nổi, chợ lủi, chợ chạy, chợ vỉa
hè, chợ phiên, chợ mò, chợ chuyên doanh, chợ đặc chủng, chợ đồ cũ, chợ lạc xoong, chợ
nhà giàu, chợ quê, chợ tập kết, chợ công nhân, chợ tự phát,... Như ta thấy, ở một thành
phố mà hoạt động thương mại, trao đổi mua bán hàng hóa đã diễn ra hàng trăm năm thì
sự đa dạng, phong phú về việc phân loại chợ như trên là điều dễ hiểu. Có nhiều khu chợ
nổi tiếng mà khi nhắc đến thì ai cũng biết ít nhiều: Chợ Bến Thành ( Biểu tượng văn hóa
của thành phố), chợ Bình Tây (chợ đầu mối ASEAN), chợ An Đông (chợ đầu tiên đạt
tiêu chuẩn ISO), chợ Sối Kình Lâm ( đầu nguồn tơ lụa), chợ Kim Biên (chợ “cửa khẩu”
giữa lòng thành phố), chợ Tân Bình (thế giới đồ may sẵn), chợ Nhật Tảo (“Thánh địa”
linh kiện điện tử), chợ Thủ Đức (dáng quê ở nội thành),...
Là thành phố có nhiều khu chợ nhất Việt Nam, nên Thành phố Hồ Chí Minh có những
phương thức định danh khá phong phú. Theo thống kê chưa đầy đủ thì từ trước đến nay,
thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 362 tên chợ, cả mới và cũ, cả những chợ còn đang

5


hiện diện hoặc đã mất. Có thể quy tên chợ ở thành phố Hồ Chí Minh theo các cách đặt
tên như sau:
4.1 Đặt theo địa phương nơi tọa lạc
Đây là cách đặt tên chợ phổ biến với tỷ lệ cao nhất. Có đến 170/362 đặt tên theo địa danh
mà khu chợ đó tọa lạc. Đó có thể là địa danh vùng (chợ Bà Quẹo, chợ Giồng Ông Tố, chợ
Bàn Cờ,...), hoặc là được đặt tên theo địa danh hành chính các cấp: tên ấp, tên xã phường,
tên quận huyện, tên thành phố (chợ Tân Bình, chợ Thủ Đức, chợ Sài Gịn, chợ Cần
Giờ,...).
4.2 Đặt theo tên đường chạy qua
Có 59/362 chợ được đặt tên theo tên đường chạy qua chợ, cá biệt có chợ Nguyễn Tri
Phương và chợ Võ Thành Trang dù khơng nằm ngay con đường đó nhưng vẫn được
mang tên. Một số chợ được đặt tên theo cách này: chợ Hoàng Hoa Thám, chợ Hàm Nghi,
chợ Phạm Văn Hai, chợ Lê Hồng Phong,...

4.3 Đặt tên theo số thứ tự hoặc kết hợp giữa tên địa danh và số thứ tự
Có khá ít những khu chợ đặt tên theo loại này, đa phần đây là những chợ nhỏ, “ăn theo”
các khu dân cư, thường nằm trong các hẻm nhỏ, đường nhỏ.
Ví dụ : chợ 200, chợ 175 (gần bệnh viện Quân y 175), chợ Hẻm 113, chợ Tân Phú 1, chợ
Tân Phú 2,...
4.4 Đặt tên theo điểm đặc biệt gần chợ
- Cách đặt tên này đã phản ánh một cách khá đa dạng đặc điểm, địa hình sơng rạnh ở Sài
Gòn (chợ Kinh, chợ Cầu, chợ Bàu Sen, chợ Bến Cỏ,...)
- Thực vật địa phương mà điển hình là các loại cây của thời kì đầu khai phá (chợ Cây
Bàng, chợ Cây Da, chợ Cây Gõ, chợ Cây Điệp, chợ Cây Thị,...)
- Địa bàn dân cư của một đô thị lớn (chợ Hẻm, chợ Nhà Máy Dầu Thực Vật, chợ Ga, chợ
Bến Xe,...)
- Ngành nghề của địa phương: chợ Lị Heo, chợ Lị Than, chợ Xóm Chiếu, chợ Lị Muối
6


- Tín ngưỡng: chợ Miễu, chợ Đình, chợ Văn Thánh, chợ Nhà Thờ
- Đặc điểm riêng của chợ: chợ Bồn Nước, chợ Xóm Cháy, chợ Chuồng Bị

Hình 1: Chợ Đầm Sen
Nguồn: Minh Hào
4.5 Đặt tên theo người nổi tiếng ở địa phương
Tên tuổi của những người này thường khó xác định đầy đủ, chính xác, trừ trường hợp của
Thị Nghè ( Nguyễn Thị Khánh, con gái quan Khâm sai Nguyễn Cửu Vân) và ông Tạ
(Trần Văn Bỉ, một thầy thuốc nam nổi tiếng trong vùng).
Ví dụ: chợ Bà Chiểu, chợ Bà Hom, chợ Bà Điểm, chợ Thị Nghè,...
4.6 Đặt tên theo người có cơng dựng chợ
Chợ Bà Hoa, chợ Qch Đàm, chợ Trùm Rìu, chợ Xã Tài, …
4.7 Đặt tên theo quy mô, thời gian xây dựng, vật liệu xây dựng
Chợ Lớn, chợ Nhỏ, chợ Cũ, chợ Mới, chợ Thiếc, chợ Xi Mông,...

7


4.8 Đặt tên theo các sản phẩm bán ở chợ
Chợ Chim, chợ Chó, chợ Gà, chợ Vải, chợ Gạo,...
4.9 Đặt theo thời gian họp chợ
Chợ Sáng ( chợ Lạc Quang), chợ Chiều (chợ Bùi Môn), chợ Sáng ( chợ Bùi Minh Trực),
chợ (đêm) Kỳ Hòa, chợ Mười Giờ ( chỉ họp từ 10 - 12 giờ)
4.10 Đặt theo tên nước ngoài
Với 3 địa danh gốc Pháp: chợ Nancy (tên một thành phố lớn ở vùng Lorraine), chợ
Charner (tên của Tổng chỉ huy lực lượng Viễn Chinh Pháp ở Việt Nam từ 15/5/1860,
được đặt tên cho ngôi chợ trên đường Nguyễn Huệ), chợ Lacai (tên một nghị viên Hội
đồng đô thành Chợ Lớn).
4.11 Đặt tên theo nguyện vọng, mong muốn của nhân dân
Chợ Hịa Bình, chợ Thái Bình, chợ Kiết Tâm, chợ Dân Sinh.
Với số lượng tên chợ nhiều như vậy, nó đã phản ảnh sức sống của một trung tâm kinh tế
lớn nhất cả nước. Các tên chợ đã phản ánh đầy đủ các điều kiện tự nhiên, cộng đồng dân
cư, đặc điểm sinh hoạt kinh tế, quan điểm thẩm mĩ, sự giao lưu văn hóa, của Sài Gịn
trong q khứ và hiện tại. Nội dung của các tên chợ đã thể hiện những giá trị văn hóa lịch sử của một vùng đất đặc trưng phía Nam. Tên chợ và các địa danh ở Sài Gịn đã góp
phần bảo lưu các giá trị văn hóa địa phương thơng qua các địa danh.
5. ĐẶC TRƯNG CỦA MỘT SỐ CHỢ NỔI TIẾNG
Khác với nhiều tỉnh thành trong cả nước, TP HCM là nơi tập trung nhiều người tứ xứ tụ
tập về làm ăn, gần thì vài chục năm, và cũng có người thì đã vào đây từ thời Sài Gịn Gia Định được thành lập. Vì vậy bên cạnh những khu chợ đặc trưng của những người Sài
Gòn - Gia Định xưa thì cịn có những khu chợ đặc trưng của những người vùng ngoài.
Chợ được xem là tài sản văn hóa quan trọng trong khơng gian đơ thị. Bất cứ những ai
nghiên cứu văn hóa nào cũng có kinh nghiệm mỗi khi đặt chân đến một xứ sở mới, nơi
thú vị nhất để tìm hiểu văn hóa chưa hẳn đã là các bảo tàng hay thư viện… Mà nơi đầy ắp
những tương tác bất ngờ nhất, lại là những cái chợ. Nó khơng chỉ là chỗ mua bán, trao
8



đổi những nhu cầu vật chất thiết yếu, mà còn là nơi gửi gắm những tình cảm, chứa đựng
tinh hoa cuộc sống và nền văn minh của dân tộc. Mỗi khu chợ đều có những đặc trưng
riêng, những câu chuyện riêng của nó, và trong chúng ta ít nhiều đã nghe tới tên của
những khu chợ nổi tiếng ở Sài Gịn, khơng chỉ vì quy mơ to lớn mà cịn vì khu chợ đó
mang đậm bản sắc văn hóa của Sài Gịn.
5.1 Chợ Bến Thành

Hình 2: Chợ Bến Thành
Nguồn: Minh Hào
Nhắc đến Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh là phải nhắc đến chợ Bến Thành, khu chợ
với cái tháp đồng hồ bất hủ đã là biểu tượng hơn một trăm năm nay của vùng đất phương
Nam này. Chợ Bến Thành nằm ở Quận 1 của Thành phố Hồ Chí Minh, chợ được khởi
cơng xây dựng từ năm 1912 đến cuối tháng 3 năm 1914 thì hồn tất. Thực tế, chợ Bến
Thành đã có từ trước khi người Pháp xâm chiếm Gia Định. Ban đầu, vị trí của chợ nằm
bên bờ sông Bến Nghé, cạnh một bến sông gần thành Gia Định (bấy giờ là thành Quy,
còn gọi là thành Bát Quái). Bến này dùng để cho hành khách vãng lai và qn nhân vào
thành, vì vậy mới có tên gọi là Bến Thành, và khu chợ cũng có tên gọi là chợ Bến Thành.
9


Ít ai biết được cái tên chợ Bến Thành lại trải qua bao thăng trầm lịch sử, qua hai lần di
dời, thay đổi địa điểm và nhiều lần xây cất, sửa chữa do bị cháy, sập, để cuối cùng chợ
nằm ở vị trí hiện nay, ngay trung tâm Sài Gịn và được xem là biểu tượng của Sài Gòn.
Chợ Bến Thành trải qua hai thời kì mà người ta hay gọi là Chợ Cũ và Chợ Mới. Chợ Bến
Thành thời kỳ đầu được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh, được mô tả như là "phố chợ
nhà cửa trù mật ở dọc theo bến sơng. Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu mùa xuân gặp ngày
tế mạ, có thao diễn thủy binh, nơi bến có đị ngang chở khách bn ngồi biển lên. Đầu
phố phía Bắc là ngịi Sa ngư, có gác cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có dãy phố ngói,
tụ tập trăm thứ hàng hóa, dọc bến sông ghe buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền". Tuy nhiên,

sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (1833-1835), thành Quy bị triệt hạ, phố chợ Bến
Thành cũng khơng cịn sầm uất như trước.
Trước khi Pháp đánh chiếm Gia Định, khu vực xung quanh thành Gia Định (bấy giờ là
thành Phụng) mới chỉ có 100 ngàn dân và chợ Bến Thành là nơi đông đúc nhất. Cạnh khu
chợ, dọc theo bờ sông Bến Nghé, các ghe thương thuyền thường đậu chen chúc nhau, tạo
thành một thành phố nổi trên mặt nước. Tuy nhiên, khi ấy khu họp chợ trên bến mới chỉ
là một dãy nhà trống lợp ngói. Vào tháng 2 năm 1859, Pháp chiếm thành Gia Định và hai
ngày sau, các binh lính người Việt đã tổ chức hỏa công thiêu rụi cả thành phố, tất nhiên
chợ Bến Thành cũng bị thiêu hủy. Sau khi đã vững chân trên mảnh đất Nam Kỳ, năm
1860, người Pháp đã cho xây cất lại chợ Bến Thành ở địa điểm cũ (thời Việt Nam Cộng
hòa là địa điểm Tổng Ngân khố, nay là Trường đào tạo cán bộ ngân hàng trên đường
Nguyễn Huệ). Ngôi chợ được xây cất bằng cột gạch, sườn gỗ, và lợp lá.
Tháng 7 năm 1870, chợ bị cháy mất một gian, phải xây cất lại bằng cột gạch, sườn sắt,
lợp bằng ngói, tất cả có năm gian: gian thực phẩm, gian hàng cá, gian hàng thịt, gian
hàng ăn uống và gian hàng tạp hóa. Trong năm gian hàng này, chỉ có gian hàng thịt được
lợp bằng tơn, nền lót đá xanh.
Thời đó, khu chợ được xây dựng bên bờ phía nam một con kênh, được gọi là Kinh Lớn.
Phía trước chợ, dọc bờ kênh là một con đường được người Pháp đặt tên là đường Charner,
hay một tên gọi khác là đường Quảng Đông (Rue de Canton), bởi đa số người Hoa làm
nghề buôn bán ở đây đều là người Quảng Đơng. Phía đối diện bờ kênh là đường Rigaul
de Genouilly. Do vị trí nằm giao điểm của khu đô thị và hợp lưu của hai tuyến đường
thủy là kênh Lớn và rạch Cầu Sấu (nay là đường Hàm Nghi), ghe thuyền có thể cập bến
10


và đổ người lên chợ bất cứ ở phía bên này hay bên kia. Còn người bên đất liền muốn qua
chợ thì có thể đi qua những chiếc cầu gỗ xinh xắn, do đó chợ Bến Thành ln ln nhộn
nhịp.
Năm 1887, người Pháp cho lấp con kênh và sáp nhập hai con đường lại làm một thành
đại lộ Charner. Dân bản xứ gọi nôm là đường Kinh Lấp (nay là đường Nguyễn Huệ). Khu

chợ càng trở nên đông đúc với các cửa hiệu phần nhiều là của người Hoa, người Ấn Độ
và người Pháp.
Tuy nhiên, khoảng giữa năm 1911, ngôi chợ trở nên cũ kỹ và lâm vào tình trạng có thể bị
sụp đổ. Để tránh tai họa, người ta phải phá chợ, chỉ cịn gian hàng thịt, vì mái tôn nhẹ,
nên chưa bị phá. Đồng thời, người Pháp cũng lựa chọn một địa điểm để xây cất một khu
chợ mới lớn hơn để phục vụ nhu cầu buôn bán sầm uất ngày càng phát triển. Địa điểm
được lựa chọn nằm gần ga xe lửa Mỹ Tho (nay là Bến xe Sài Gòn), tức là địa điểm chợ
Bến Thành ngày nay.
Khu vực xây chợ, vốn là một cái ao sình lầy cũ, gọi là ao Bồ Rệt (Marais Boresse), được
người Pháp cho lấp đi. Khuôn viên chợ quy hoạch bốn mặt bởi bốn con đường. Mặt tiền
là Place Cuniac, tên đặt theo viên Thị trưởng thành phố Sài Gòn (Xã Tây) Cuniac, người
đã đề ra công việc lấp ao. Người Việt thì quen gọi đó là Bùng binh Chợ Bến Thành cho
dù tên chính thức đã từng đổi là "Cơng trường Cộng Hịa", "Cơng trường Diên Hồng", rồi
"Quảng trường Qch Thị Trang". Mặt bắc chợ là Rue d'Espagne, phía đơng là rue
Viénot, và phía tây là rue Schroeder.
Năm 1955 thời Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam, ba con đường này đổi tên thành đường Lê
Thánh Tôn, đường Phan Bội Châu và đường Phan Châu Trinh.
Ngôi chợ mới do hãng thầu Brossard et Maupin khởi công xây dựng từ năm 1912 đến
cuối tháng 3 năm 1914 thì hồn tất. Lễ ăn mừng chợ khánh thành được báo chí thời đó
gọi là "Tân Vương Hội", do được diễn ra trong ba ngày 28, 29 và 30 tháng 3 năm 1914,
với pháo bông, xe hoa và hơn 100.000 người tham dự, kể cả từ các tỉnh đổ về. Đặc biệt,
ngày khai mạc chợ, người ta đã cho tổ chức màn biểu diễn đánh cọp của cô gái tên Võ
Thị Vuông, là con của lão võ sư Hai Ất. Trong khi khai hoang lập đồn điền trồng cao su
phía bắc tỉnh Thủ Dầu Một, con cọp bị mắc bẫy và được đem về Sài Gòn. Cuộc đấu kéo
dài từ sáng sớm và kết thúc lúc chính ngọ, khi con cọp bị người nữ võ sĩ đâm trúng yết
hầu.
11


Hình 3: Chợ Bến Thành xưa

Nguồn: />Năm 1952, nhà thầu tu sửa chợ Bến Thành từ Sài Gòn lên Biên Hòa đặt xưởng mỹ nghệ
Biên Hòa làm 12 bức phù điêu, bức lớn có kích thước 2,2 x 1,5 m; bức nhỏ 2,0 x 1,4 m
về đặt nơi bốn cửa chợ. Họa sĩ Lê Văn Mậu[4] được giao sáng tác theo đơn đặt hàng, đã
được sự giúp đỡ của những người thầy và những nghệ nhân lành nghề tại xưởng mỹ nghệ
Biên Hịa như: Sáu Sảnh, Tư Ngơ, Hai Sáng, chủ Thạch, anh Tóc... Các bức phù điêu
được nung tới độ vật liệu kết dính thành khối. Vào thời kỳ đó hiếm có hóa chất nhập
khẩu dùng cho ngành gốm, màu men dùng cho sản phẩm gốm được nghệ nhân pha chế từ
nguyên liệu gốc là đồng với nguyên liệu lấy từ thiên nhiên để cho ra một hợp chất theo ý
muốn, gọi là “men ta”. Còn men nhập cảng gọi là “men tàu”, vì chúng được vận chuyển
bằng tàu. Dòng sản phẩm gốm Biên Hòa một thời nổi tiếng Đơng Dương cũng chính từ
cách pha chế truyền thống này. Tuy nhiên do nung bằng củi, lửa trong lị khơng đều nên
màu men trên cùng một sản phẩm có màusắc đậm nhạt khác nhau tạo nên nét rất hiếm
thấy trên các dòng sản phẩm gốm hiện thời.
Sau trận lũ lụt Nhâm Thìn (1952), ba ơng Phạm Văn Ngà (Ba Ngà), Nguyễn Trí Dạng
(Tư Dạng) và Võ Ngọc Hảo được xưởng mỹ nghệ Biên Hòa cử lên Sài Gòn để gắn những
bức phù điêu chợ Bến Thành. Mỗi cửa gắn ba bức, một bức lớn ở trên và hai bức nhỏ ở
12


dưới. Tại bốn cửa chợ gắn phù điêu mang biểu tượng: cá đuối với nải chuối (cửa tây), con
vịt xiêm với nải chuối (cửa bắc), bị với heo (cửa đơng), đầu bò với cá chép (cửa nam)
Khu chợ mới này vẫn mang tên gọi Bến Thành; tuy nhiên cho đến trước năm 1975 tên
gọi chợ Bến Thành này thường chỉ hiện diện trong sách vở, cịn người dân thì thường gọi
là chợ Sài Gòn hay chợ Mới, để phân biệt chợ Cũ tại điểm cũ, vốn chỉ còn lại gian hàng
thịt. Phần còn lại bị phá đi và được người Pháp xây dựng thành cơ quan Ngân khố. Hai
con đường bên hơng chợ mãi đến năm 1940 cịn là bến xe đị miền Đơng và miền Tây.
Về sau, bến xe này mới được dời đi chỗ khác.
Ngày 1 tháng 7 đến 15 tháng 8 năm 1985, chợ Bến Thành được cải tạo và sửa chữa lớn.
Tồn tại đến nay đã hơn 100 năm, không đơn thuần chỉ là một khu chợ bình thường, chợ
Bến Thành đã trở thành biểu tượng của Sài Gòn, là niềm tự hào của người dân Sài Gòn

với bạn bè quốc tế. Dù hiện tại các trung tâm thương mai ngày càng nhiều nhưng chợ vẫn
là một trong những điểm thu hút khách du lịch nhất thành phố. Mỗi ngày, nơi đây đón
hàng ngàn lượt du khách tới tham quan và mua sắm. Sẽ không là nói quá khi cho rằng
chợ Bến Thành là một Sài Gịn thu nhỏ. Ở chợ Bến Thành, ngồi những ngun liệu nấu
ăn luôn tươi sống cho những cô, những bà nội trợ, ta cịn dễ dàng tìm thấy những món
q lưu niệm, những sản phẩm đa dạng và độc đáo ghi dấu ấn cho đất nước Việt Nam.
Khơng khó để thưởng thức những món ăn ngon từ Bắc đến Nam, những gian trà và mứt
thơm nức mũi, những gian mắm, khô đậm mùi quê hương hay những sạp vải với đủ loại
màu sắc… Và có một điều đặc biệt, những tiểu thương ở chợ Bến Thành nói tiếng Anh
rất giỏi. Nhìn họ mời chào, trả giá với khách nước ngồi mới thấy người Việt Nam mình
cũng giỏi giang và nhanh nhẹn nhường nào.

13


Hình 4: Các gian hàng bên trong chợ Bến Thành
Nguồn: />
Hình 5: Người bán hàng rong ở chợ Bến Thành
Nguồn: Minh Hào
5.2 CHỢ BÌNH TÂY

14


Hình 6: Chợ Bình Tây
Nguồn: />Và một ngơi chợ cũng có bề dày lịch sử khơng kém gì chợ Bến Thành, và có quy mơ chợ
lớn nhất Sài Gịn, đó là chợ Bình Tây. Chợ Bình Tây nằm ở số 57A, đường Tháp Mười,
thuộc phường 2, Quận 6 là ngôi chợ lớn nhất Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh với diện
tích khoảng 25000 mét vng, và có hình bát qi. Cơng trình mặt tiền của chợ dài 89,2
mét, chiều rộng là 11,6 mét, cao 13,1 mét. Chợ Bình Tân được thiết kế độc đáo nhằm tạo

ra không gian thoáng đãng, khang trang thuận lợi cho việc mua bán của người dân.
Chợ Tân Bình bao gồm 12 cổng phụ và một cổng lớn đối diện ngay với bến xe Chợ Lớn.
Đây cũng là điều kiện thuận lợi phục vụ cho công việc buôn bán từ khâu nhập hàng đến
vận chuyển đồ và phục vụ người dân đi lại. Bước vào chợ Bình Tây, du khách có thể bị
chống ngợp bởi độ lớn của chợ. Chợ Bình Tây có gần đến 2400 quầy sạp bao gồm cả
lầu trên và lầu dưới với nhiều loại hàng hóa khác nhau được bày bán.
Khơng chỉ dừng lại ở đó, đến với chợ Bình Tân người ta sẽ ấn tượng với tịa tháp chính
cao nổi bật hẳn lên giữa chợ, bao quanh tòa tháp bốn mặt đều có biểu tượng đồng hồ
được thiết kế đồng bộ về kiểu dáng lẫn màu sắc trang trí.
Chợ Bình Tây được xây dựng theo lối kiến trúc độc đáo mang đậm phong cách Trung
Hoa bởi cũng chính người thương lái Trung Hoa xưa đã dồn hết tâm huyết để khởi công

15


xây dựng lên chợ Bình Tân ngày nay. Dù vẻ ngồi mang đậm dấu ấn phương Đơng
nhưng chợ Bình Tân lại được xây dựng theo kĩ thuật của người Pháp.

Lịch sử hình thành và phát triển

Hình 7: Chợ Bình Tây xưa
Nguồn: />Trong những năm 1776, vùng đất Sài Gòn (tức vùng Chợ Lớn ngày nay, còn Sài Gòn
ngày nay trước kia được gọi là Bến Nghé) là nơi định cư của người Hoa ở Cù Lao Phố
(tức Biên Hoà ngày nay) sau khi chạy lánh nạn do chiến tranh giữa Nguyễn Anh và quân
Tây Sơn. So với Cù Lao Phố, Sài Gịn có nhiều lợi thế hơn hẳn do có giao thông thuỷ, bộ
rất thuận lợi.
Theo phong tục tập quán, người Hoa thường lập chợ khi đến nơi định cư mới nhằm có
chỗ để trao đổi hàng hố. So với chợ Tân Kiểng của người Việt thì chợ Sài Gịn (khu vực
Bưu điện Chợ Lớn ngày nay) có lớn hơn nên được người dân nơi đây gọi là Chợ Lớn.
Chợ Lớn ngày càng phát triển sung túc, nhiều người dân từ nơi khác tập trung đến làm ăn

mua bán. Chợ trở nên chật hẹp khơng thể phát triển thêm. Chính quyền tỉnh Chợ Lớn thời
16


đó cũng dự định xây dựng chợ mới nhưng chưa tìm được đất. Hay tin, Quách Đàm bỏ
tiền ra mua mảnh đất sình lầy rộng trên 25.000m2 ở thơn Bình Tây và cho san lấp bằng
phẳng, xây dựng chợ mới bằng bê tơng cốt thép tặng nhà nước. Riêng Ơng chỉ xin xây
dựng mấy dãy phố lầu xung quanh chợ và dựng tượng Ơng chính giữa chợ sau khi Ơng
qua đời.
Quách Đàm, thương hiệu Thông Hiệp (1863 – 1927, theo ghi khắc tại bệ đá thờ Ông
trong hoa viên của chợ), người được xem như thần tài của chợ Bình Tây, người làng
Triều An, Long Khanh, Triều Châu, Trung Quốc rời quê hương với hai bàn tay trắng.
Thuở ban đầu Ông đi thu mua ve chai, lông vịt và các loại nguyên liệu phế thải để kiếm
sống qua ngày. Nhờ đức tính cần cù chịu khó, lại giỏi tính tốn, bán bn Ơng dần trở
thành người giàu có. Khi được chính quyền tỉnh Chợ Lớn đồng ý, Ong tổ chức xây chợ
mới theo lối kiến trúc Trung Quốc và áp dụng kỹ thuật xây dựng hiện đại của Pháp thời
bấy giờ. Riêng tượng Ông Quách Đàm bằng đồng được thuê đúc tận bên Pháp. Sau khi
mất tượng Ông Quách Đàm được gia đình ơng dựng lên vào năm 1930 trên bệ cao, dưới
chân tượng có kỳ lân chầu và rồng phun nước. Hiện nay, tượng của Ông được lưu giữ và
bảo quản tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố.Chợ mới sau khi xây xong rất khang
trang, sạch sẽ trên khuôn viên đất khá rộng nên được người dân gọi là Chợ Lớn Mới.
Ngay sau khi được đưa vào hoạt động, với lợi thế về giao thông thuỷ bộ cũng như tay
nghề kinh doanh của bà con tiểu thương người Việt và người Hoa, Chợ Lớn Mới nhanh
chóng trở thành khu kinh doanh sầm uất, giữ tính chất đầu mối bán buôn khắp Nam kỳ
lục tỉnh, trong nước và các nước láng giềng cho đến ngày giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước.
Ngay sau ngày giải phóng, chính quyền tiếp nhận quản lý, sắp xếp cho dân tiếp tục mua
bán phục vụ hàng hoá cho cả nước và các nước bạn Lào, Campuchia, Trung Quốc và đổi
tên chợ là chợ Bình Tây cho đến ngày nay. Năm 1992, tiếp tục phát huy thế mạnh của
chợ, Quận 6 tổ chức sửa chữa nâng cấp nhà lồng chợ thêm một tầng lầu. Năm 2006,

thành phố tiếp tục đầu tư cải tạo sửa chữa khu vực Trần Bình – Lê Tấn Kế trở nên khang
trang sạch đẹp.

17


Hình 8: Bên trong chợ Bình Tây
Nguồn: />Chợ Bình Tây - chợ Lớn khơng chỉ là một ngơi chợ có diện tích lớn theo nghĩa đen, mà
cịn là nơi sinh sống của một cộng đồng lớn người Việt gốc Hoa, là nơi lưu giữ và bảo tồn
nhiều giá trị văn hóa, kiến trúc, tơn giáo của hàng trăm năm trước. Người dân ở đây luôn
quan niệm rằng, họ luôn phải bảo tồn văn hóa dân tộc, phát triển sự nghiệp giáo dục và
làm cho xã hội văn minh. Xung quanh chợ Bình Tây có rất nhiều đình, chùa và hội quán
của người Hoa : chùa Bà Thiên Hậu, chùa Ông, đình Minh Hương Gia Thạnh,... Trong
các đình chùa này thường được trang trí với các bức phù điêu Trung Hoa ngun bản
được làm hồn tồn thủ cơng với độ tỉ mỉ và sắc sảo rất cao, với ý nghĩa cho thế hệ sau
biết rằng tổ tiên người Hoa ở chợ Lớn đã đến đây như thế nào. Bên cạnh đó nhắc đến chợ
Bình Tây thì người ta cịn nghĩ đến một trong những khu bán thuốc Đông Y lớn nhất Sài
Gịn, là nơi với những món ăn đặc trưng của người Hoa như : há cảo, xíu mại, mì vịt
tiềm,... luôn khiến thực khách nhớ mãi khi nhắc tới ẩm thực chợ Bình Tây.

18


Hình 9: Chùa Bà Thiên Hậu
Nguồn: />II. KẾT LUẬN
Ở Sài Gịn, chợ khơng chỉ đơn thuần là nơi giao lưu bn bán, trao đổi hàng hóa để phục
vụ đời sống cộng đồng, mà chợ cịn là khơng gian giao tiếp của cộng đồng, là nơi giao
lưu giữa nông thôn và thành thị, giữa con người với con người, là nơi giao thoa của nhiều
nền văn hóa vùng miền. Có thể nói chợ chính là biểu hiện đầy đủ nhất bộ mặt đời sống
kinh tế - xã hội, văn hóa của một vùng. Chợ ở Sài Gòn mang những nét rất riêng biệt mà

hiếm nơi nào có được. Dù có là một thành phố phát triển như thế nào, to lớn ra làm sao
thì có lẽ chợ vẫn là nơi khơng thể thiếu trong cuộc sống của con người. Thông qua chợ ta
thấy được những nét đặc trưng văn hóa, hiểu thêm về đời sống của con người và vùng đất
Sài Gịn. Chợ đã góp phần làm nên nét đặc sắc trong văn hóa ở Sài Gịn. Vì thế, ta cần

19


phải có những biện pháp giữ gìn và phát triển thêm nét văn hóa này, điều đó sẽ góp phần
phát triển nền kinh tế và du lịch ở Sài Gòn.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Thanh Lợi, 2015. Sài Gòn đất và người. NXB Tổng hợp T.P. Hồ Chí Minh.
Theo Quốc Ngọc, Chợ - Biểu tượng đa nguyên sống động của Sài Gịn.
/>Theo Báo Thanh Niên, Văn hóa chợ ở TP.HCM.
/>Theo Thu Thảo - Hồ Văn, Nét văn hóa chợ truyền thống.
/>Theo Như Hiền, Đi chợ ở Sài Gòn.
/>Theo Wikipedia, Chợ Bình Tây.
/>Theo Wikipedia, Chợ Bến Thành.
/>
21



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×