Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TRÒ CHƠI DÂN GIAN TRONG MÔI TRƯỜNG SÔNG NƯỚC TÂY NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.78 KB, 18 trang )

ĐỀ TÀI: TRỊ CHƠI DÂN GIAN
TRONG MƠI TRƯỜNG SƠNG NƯỚC TÂY NAM BỘ

NĂM 2020

0


MỤC LỤC
Tổng quan
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................2
Nội dung
Chương 1: Khái quát về trò chơi dân gian trog môi trường sông nước miền
Tây Nam bộ
1.1 Sơ lược về đặc điểm văn hóa mơi trường sơng nước miền Tây Nam
bộ...........................................................................................................3
1.2 Nguồn gốc hình thành các trị chơi dân gian trong môi trường sông nước
miền Tây Nam bộ..................................................................................3
Chương 2: Một số trị trơi dân gian trong mơi trường sông nước miền Tây
Nam bộ
2.1 Chọi đất dưới sông...................................................................................4
2.2 Tát nước...................................................................................................5
2.3 Thả tàu.....................................................................................................5
2.4 Trái nổi....................................................................................................5
2.5 Bắt vịt......................................................................................................6
2.6 Bơi đua....................................................................................................6
2.7 Lặn đua....................................................................................................7
2.8 Chèo đua..................................................................................................7
2.9 Trâu lội đua ............................................................................................ 7
2.10 Đua ghe nho......................................................................................... .8


2.11 Đèn nước............................................................................................. 14
Chương 3: Vai trò và thực trạng của các trị chơi dân gian trong mơi trường
sơng nước miền Tây Nam bộ
3.1 Vai trò.....................................................................................................15
3.2 Thực trạng.............................................................................................. 16
Kết luận........................................................................................................ 16
Tài liệu tham khảo........................................................................................17

1


TỒNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài
Trò chơi dân gian là một trong những kho tàng của di sản văn hố và được
xem là một bộ phận của văn hóa dân tộc. Đó là sản phẩm mang tính chất vận
động và tinh thần xuất phát từ lao động, sản xuất, có giá trị lịch sử, văn hố,
khoa học và được lưu truyền bằng miệng, truyền tay, được trình diễn, thi đấu.
Từ xa xưa, cha ông ta đã sáng tạo ra trò chơi dân gian, làm nên sự đa dạng và
đặc sắc của văn hóa cổ truyền dân tộc, đồng thời qua đó làm phong phú đời
sống văn hóa tinh thần, phong tục tập quán của cư dân các vùng miền đất
nước.
Trị chơi dân gian trong mơi trường sơng nước miền Tây Nam bộ có những
nét đặc trưng của vùng miền sơng nước, tạo nên những trị chơi dân gian đặc
sắc gắn với những nét vốn có, đặc biệt là trong môi trường sông nước miền
Tây Nam bộ được mệnh danh là nơi có mạng lưới sơng ngồi chằng chịt, kênh
rạch lại là nét đặc trưng quen thuộc gắn liền với vẻ đẹp làng quê của vùng đất
này.
Trong ký ức tuổi thơ của nhiều thế hệ người Việt, trò chơi dân gian nói
chung và trị chơi dân gian trong mơi trường sơng nước miền Tây Nam bộ nói
riêng như một phần khơng thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần, tạo thêm

sợi dây gắn kết mọi người với quê hương, xứ sở thanh bình. Trị chơi dân gian
mang tính giải trí lành mạnh, rèn luyện thể lực, kích thích trí thơng minh, tài
khéo léo của con người, mang tính cộng đồng rất cao, lôi cuốn mọi người
cùng vui chơi và ai cũng có thể tham gia.
2. Mục đích nghiên cứu
Càng ngày, cuộc sống càng hiện đại, trẻ em càng ít biết đến những trò chơi
dân gian. Qua đề tài này không chỉ giúp các em mà ngay tất cả mọi người
trong xã hội hiểu rõ hơn về trò chơi dân gian nói chung và trị chơi dân gian
trong mơi trường sơng nước nói riêng về tầm quan trọng của đề tài trong đời
sống hiện nay.
Khẳng định trò chơi dân gian có vai trị vơ cùng quan trọng
trong việc
giáo dục con người về tính tập thể, tinh thần kỷ luật, ý chí vươn lên giành
chiến thắng, rèn luyện thể chất, sức mạnh, dẻo dai, khôn khéo và sức chịu
đựng của con người.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRÒ CHƠI DÂN GIAN TRONG
MÔI TRƯỜNG SÔNG NƯỚC MIỀN TÂY NAM BỘ
1.1 Sơ lược về đặc điểm văn hóa mơi trường sơng nước miền Tây
Nam bộ
Miền Tây Nam bộ hay còn gọi là đồng bằng sông Cửu Long, nằm ở cực
Nam của Tổ quốc, là vùng đất có màu sắc văn hóa riêng biệt trong diện mạo
chung của nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa dân gian của người Việt ở đây có
một vị trí quan trọng. Màu sắc riêng ấy, do nhiều nhân tố tạo ra, nhưng phải có
thái độ thẫm mỹ, ứng xử của con người với thiên nhiên với văn hóa dân gian
do con người tại chỗ sáng tạo ra. Vì thế, tìm hiểu sự tác động của thiên nhiên

với văn hóa dân gian của người Việt nơi đây sẽ có tác đụng phác họa những
nét đặc thù của vùng văn hóa dân gian qua gốc nhìn từ trị chơi dân gian miền
sông nước Tây Nam bộ.
Nét khu biệt của cảnh quan thiên nhiên nơi này có tác động mạnh mẽ tới
văn hóa dân gian là sự phong phú của thệ thống sông ngồi, kênh rạch. Miêu tả
vùng này, vào thế kỷ 19, Trịnh Hồi Đức, trơng cuốn sách của ơng, ông đã
nhắc đến đặc điểm là: “Đất Gia Định nhiều sông, kênh, cù lao và bãi cát, trong
10 người đã có 9 người quen việc chèo thuyền, biết nghề bơi lội”. Thêm phần
vùng đồng bằng sơng Cửu Long có truyền thống nông nghiệp lúa nước lâu đời
cùng với đặc điểm riêng biệt đó đã hình thành nên những nét văn hóa tiêu biểu
cho vùng mà trong đó có trị chơi dân gian miền sơng nước.
1.2 Nguồn gốc hình thành các trị chơi dân gian trong mơi trong sơng
nước miền Tây Nam bộ.
Cuộc sống gắn bó với nhiều kênh rạch, sơng ngịi như miền Tây Nam Bộ,
người bình dân tập cho trẻ con khi còn rất nhỏ đã biết bơi, lặn. Trưa hè, chiều
muộn là lúc trẻ con, người lớn nhảy xuống sơng xúc tép mị tơm, bắt cá chạch,
lịch. Xong việc thì chơi.
Trẻ con mới tập lội có thể ơm bụp bè ( phần gốc của là vừa nước), hoặc
khúc chuối cây đã cho quày ( buồng) để lội đua với nhau. Người lội giỏi thì
bơi bằng tay khơng, mốc giới hạn được quy ước từ nhánh lá dừa nước khô
gẫy, bụi ô rô này đến nhánh bần gie, bụi mái dầm khác. Cũng có khi cùng
nhau từ bờ bên này sang bờ bên kia sông coi ai lặn nhanh hơn, người ta chơi
trò thi lặn. Cứ hai người đứng cạnh nhau cùng đếm một, hai, ba... rồi ngụp
xuống, ai hơi ít phải nổi lên sớm hơn coi như thua cuộc. Thi lặn đi dưới nước
tương tự như bơi đua, có điều người chơi phải lặn sâu khơng được nổi người
lên mặt nước. Vui hơn, mạnh mẽ hơn là chia phe chọi lộn bằng đất sình. Trị
chơi này địi hỏi người chơi vừa lặn, vừa lội vừa chọi chính xác để sình dính
vào đầu, mặt đối phương. Chơi xong, lại thi tát nước. Ai chịu được chẳng
những thắng cuộc mà còn được nước làm cho sạch hết bùn đất,...
3



Vùng thôn quê, nhiều nhà nuôi trâu để kéo cày, trục đất, cộ lúa. Để tránh
muỗi mòng cho trâu, người ta cho nó nằm hầm, tức là trâu ngâm mình trong
vũng bùn suốt đêm. Sáng sớm dắt trâu ra sông tắm. Tắm trâu xong, nếu chưa
phải về vội để ra đồng có thể cưỡi trâu vượt sơng sang đồng khác để kiếm cỏ.
Q trình di chuyển ấy, nếu có từ hai ba chủ trâu khác nhau thì... đua chơi cho
mau tới. Người thua cuộc thì phải coi cả trâu mình lẫn trâu của người thắng.
Người cưỡi trâu lội hay hơn lúc bấy giờ chỉ việc kiếm gốc cây to nằm... chơi
hay ngủ tùy ý.
Phương tiện di chuyển chủ yếu ở vùng sông nước là chiếc xuồng ba lá
hoặc chiếc ghe tam bản. Người dân miệt đồng bằng sông Cửu Long khi di
chuyển xuồng thì sử dụng hai cột chèo và hai tay chèo ngang nhau, đặt gần
phía sau lái. Khi đi chợ, đi cấy ở đồng xa, canh tư gà gáy là từng đoàn người
rủ nhau cùng đi. Vừa chèo ghe vừa trị chuyện, tâm tình. Để đỡ buồn ngủ và
nhanh đến nơi thì tổ chức chèo đua hoặc bơi đua. Ghe trước chèo sao cho ghe
sau không vượt được sẽ là người thắng cuộc. Ở Sóc Trăng ghe chèo có hai cột
trụ và hai mái chèo song song, cịn bơi thì bằng dầm, một người bơi một mái
dầm. Trong trò chơi này, kỹ thuật chèo và sức mạnh sẽ quyết định thắng hay
thua.
Một trò chơi dân gian khác gắn liền với lễ Ooc –om - bok của người
Khmer là đua ghe ngo. Ngày trước đồng bào Khmer thường đua ở khúc sông
Nhu Gia của huyện Mỹ Xuyên. Ngày nay, người ta tổ chức ở khúc sông
Maspero, đoạn chảy trong lịng thành phố trung tâm tỉnh. Ngày hội thi có hàng
chục chiếc tuk ngo từ các chùa Khmer về dự thi. Mỗi chiếc có hàng chục tay
bơi khơng chun được phum, sóc tổ chức cho tạp luyện mười bữa nữa
tháng... rồi đi thi. Ghe nào về nhất là sẽ vinh hạnh và tự hào cho chùa và bà
con trong phum, sóc nơi đó.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ TRỊ CHƠI DÂN GIAN TRONG MÔI
TRƯỜNG SÔNG NƯỚC MIỀN TÂY NAM BỘ

2.1 Chọi đất dưới sông
- Đối tượng: năm ba em cùng trang lứa.
- Không gian: khúc sông, đoạn kênh, rạch trước nhà,...
- Đồ chơi: đất dưới đáy sông, rạch.
- Phương thức chơi: Các em có thể chơi ăn ra, có thể chơi bắt bồ. Bắt đầu
chơi, các em lặn xuống móc đất tay ôm, tauy chọi về đối phương, người bị
chọi có thể lặn xuống để tránh. Các em tụa theo các hàng dừa nước, các bụi ơ
rơ cóc kèn mà “phản kích” lại đối phương. Cũng có khi vừa ơm đất vừa lặn
đến gần nơi đối phương đứng trồi lên rồi chọi liên tục vào người đó,... giữa
những tiếng cười, tiếng mách nước, tiếng hị reo vang dậy khúc sơng vắng.
- Hình thức thưởng phạt: Sau khi cuộc chơi kết thúc, các em tập trung lại
dùng tay tát nước cho nhau để mình mẩy sạch sẽ.
4


- Chức năng: Trò chơi rèn luyện sự mạnh mẽ, can đảm, sự thơng minh,
khéo léo cho người chơi. Trị chơi cịn nâng cao ý thức đồn kết để tạo sức
mạnh. Trò chơi cũng phản ánh đời sống sinh hoạt mang đậm dấu ấn sông
nước của người dân miền Tây nói chung và người Sóc Trăng nói riêng.
2.2 Tát nước
- Đối tượng: năm ba em cùng trang lứa.
- Không gian: khúc sông, doạn kênh, rạch trước nhà,...
- Phương thức chơi: trưa hè, các em giỏi bơi lội nhảy xuống sông tắm.
Năm ba em xúm lại chơi trò tát nước. Các em có thể chơi ăn rã, có thể chơi
bắt bồ. Bắt đầu chơi, các em dùng cả hai tay tát nước tới tấp vô mặt đối
phương. Nước văng bắn trắng xóa. Các em lấy thế làm thích thú. Nếu em nào
bị ngộp bởi nước, thì lặn xuống để tránh và thoát ra, khi nổi mặt nước lên lại
tiếp tục tát nước lại đối phương. Các em tụa theo các hàng dừa nước, các bụi ơ
rơ, cóc kèn mà “phản kich”, trị chơi vì thế mà càng thêm sơi động và hấp dẫn.
- Hình thức thưởng phạt: Sau khi chơi thỏa thích em này sẽ kì cọ lưng

cho nhau để được sạch sẽ.
- Chức năng: trò chơi thể hiện sức chịu đựng, sự khéo léo, mạnh mẽ. Trò
chơi cũng tập cho các em ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân cho riêng mình. Trị
chơi cịn nâng cao ý thức đồn kết để tạo sức mạnh để giành chiến thắng.
2.3 Thả tàu
- Đối tượng: các em trai, gái trên dưới nước mười tuổi
- Khơng gian: mọt dịng nước chảy lửng lờ ở ven bờ rạch, sơng,...
- Đồ chơi chính: lá tre, giấy, bẹ chuối, bụp bè,...
- Phương thức chơi:
Có khi các em xếp giấy rồi thả tàu ( đề cập ở phần chị chơi xếp giấy).
Có khi các em hái lá tre rồi thả theo dòng nước, ngồi trên bờ các em hị
reo vỗ tay hun náo.
Có khi tàu của các em là chiếc bẹ chuối cịn tươi.
Có khi các em đốn bụp bè lá dừa nước về rồi dùng dao chặt, gọt tạo hình.
Phía sau các em cắm hai que tre ngắn, giữa hai que tre ấy căng những sợi
thun. Rồi dùng miếng tre dẹp, ngắn xoắn vào dây thun làm chưn vịt. Khi đặt
tàu xuống nước, buông tay ra, theo sự đàn hồi của dây thun, chưn vịt tre quay
nhiều vòng dưới nước tạo lực đẩy để đưa tàu về trước giữa tiếng hị reo vang
dậy.
- Hình thức thường là sự phấn khích tán thưởng của những bạn cùng
trang lứa.
- Chức năng: trò chơi thể hiện sự khéo léo và khả năng quan sát và tập
dần làm quen với cuộc sống sông nước.
2.4 Trái nổi
- Đối tượng: các em trên dưới mười tuổi
5


- Không gian: khoảng sân rộng trước hiên nhà hay ngồi vườn rợp bóng
mát và sau đó là mương vườn hay bờ rạch, kênh,...

- Phương thức chơi: các em móc đất sét do người lớn đào mương vườn
quăng lên hay móc đất ở mé bãi sơng, rạch. Đất dẻo, ráo, mới có thể chơi
được.
Có đất, năm ba em thi nhau nặn trái nổi cho mình. Thường thì các em tạo
hình như hai cái chén rồi úp lại với nhau và trét kín. Đất nặn nhưng do có
khơng khí bên trong, nên khi thả xuống sẽ nổi. Sau khi tất cả đã xong, các em
hè nhau đem “sản phẩm” của mình thả xuống nước dưới đìa, ao hay ở dịng
nước chảy. Những trái nổi bằng đất lững lỡ trên mặt nước. Một hồi sau, nước
thấm đất, tràn vào khoảng trống bên trong và... chìm nghỉm. Các em theo dõi
chăm chú, khơng ngớt lời hò reo cổ vũ. Dựa theo sự tồn tại của những trái nổi
bập bềnh trên mặt chủ nhân của nó tự hào bởi tài khéo léo của mình, ngược lại
trái với nổi chìm mau các em ngượng ngùng, tiu nghiu, bẽn lẽn.
- Hình thức thường chỉ là sự thán phục của các em dành cho người khéo
tay có trái nổi nổi lâu nhất.
- Chức năng: trò chơi rèn luyện kỹ năng khéo léo và khả năng tạo hình
của các em.
2.5 Bắn vịt
- Đối tượng: người chơi trò này thường là những nam nhân đã trưởng
thành
- Không gian: khoảng sơng rộng hay trong ao đìa phía trước các ngơi
đình.
- Đồ chơi: những con vịt tàu, trên dưới một ki-lo-gam, nhanh nhẹn lội,
lặn hay. Không chọn vịt ta, vịt xiêm vì loại này thường báo, ú, chậm chạp.
- Phương thức chơi: trò chơi này thường diễn ra trong các hội cúng đình.
Ban quý tế sau khi ;àm lễ thường thả chục ngoài con vịt ra để cho mọi người
tham gia bắt chúng.
Ban đầu, người ta chỉ thả ra khoảng 4-5 con vịt, các nhóm cử hai người
giỏi lặn, lội ùa xuống bắt. Chừng lát sau, nếu không ai bắt được thì các nhóm
cử 2 người tiếp theo. Nếu bắt hết số vịt đã thả thì chơi tiếp bằng cách thả
những con vịt mới xuống.

Người bắt vịt giữa tiếng hò reo vang dội cổ vũ của những người có mặt.
- Hình thức chừng phạt: nhóm nào bắt được vịt sẽ lấy những con vịt ấy
nấu cháo đãi mọi người tham dự.
- Chức năng: đây là trò chơi mạnh mẽ , rèn luyện khả năng nhanh nhẹn,
tài bơi lặn và khéo léo của những người tham gia.
2.6 Bơi đua
- Đối tượng: năm ba em cùng trang lứa.
- Không gian: khúc sông, rạch trước nhà,...

6


- Phương thức: các em nhắm bụp dừa nước hay bụi ơ rơ nào đó làm đích;
hay giao ước lội ngang dịng sơng. Rồi hơ một...hai...ba cùng nhau bơi nhanh
về hướng đó. Ai nhanh sẽ thắng.
- Hình phạt cho người thua phải kì cọ lưng cho người thắng.
- Chức năng: trị chơi rèn cho các em khả năng thích ứng với môi trường
xung quanh. Các em bơi lội giỏi sẽ có nhiều lợi thế cho cuộc sống mai sau.
2.7 Lặn đua
Tương tự với lội đua các em còn chơi lặng lặn đua. Trò chơi này chỉ
khác lội đua ở phương thức chơi. Nếu lội đua thì người phải nổi trên mặt nước
cịn lặng đua thì tồn thân phải chìm dưới nước.
2.8 Chèo đua
- Đối tượng: thường là 2 người biết chèo xuồng, ghe cùng trang lứa.
- Không gian: khoảng sông, rạch nào đó, được người chơi tự giao ước.
- Phương thức chơi: khi đã giao ước mức đến là chiếc cầu, bụi lá, cây
bần,... phia trước cách nơi bắt đầu một khoảng nhìn thấy được hoặc cả hai bên
đều biết đến điểm đích đó.
Rồi cả hai chiếc cùng dàn thành hàng ngang ( nếu khúc sơng rộng) cùng
chèo về đích. Ai đến trước thì thắng.

Nếu sơng hẹp thì người trước người sau khoảng cách nhau chừng hai, ba
chục thước. Khi cùng nhau hơ lên bắt đầu, thì người trước quyết chèo nhanh
về đích, người sau cố chèo sau cho mũi xuồng, ghe của mình chạm vào phần
lái của chiếc xuồng, ghe phía trước. Nếu người phía trước đã tới đích mà
người chèo sau khơng đuổi kịp thì người chèo sau thua.
Hình thức thưởng phạt: người thua có thể đãi cho người thắng điếu
thuốc, hay tơ bún ngồi chợ.
Tương tự với cách chèo đua, người bình dân vùng này cơi chơi... bơi
đua. Mỗi xuồng, một người cầm dầm bơi đưa xuồng thoăn thoắt về trước.
Cách tính thắng thua cũng tương tự như chèo đua.
- Chức năng: rèn luyện sức khỏe, sự khéo léo cho người chơi. Trên hết,
cơng việc sẽ hồn thành nhanh hơn, sớm hơn.
2.9 Trội trâu nước
- Đối tượng: hai, ba em nhỏ chăn trâu.
- Không gian: dọc theo những dịng sơng, kênh, gạch...
- Phương thức chơi: cùng giao ước lấy điểm nào đó làm đích đến rồi các
em ngồi trên lưng trâu cầm vàm điều khiển cho trâu lội lượt quãng đường dài
trên sông, rạch... Trâu bơi giỏi, người chỉ huy có tài hối thức, trâu của ai về
đích trước, nhanh hơn sẽ là người chiến thắng.
- Hình thức thưởng phạt: ngoài sự thán phục của người thua dành cho
người thắng cuộc, có khi người thua cịn phải coi trâu cho người thẳng, để
người thắng kiếm gốc cây nào đó nằm ... ngủ một giấc ngon lành.
7


- Chức năng: rèn luyện khả năng điều khiển vật nuôi của các em.
2.10 Đua ghe ngo (tuk ngo)
Người Khmer nam bộ nói chung, Khmer Sóc Trăng nói riêng có phong
tục đua ghe ngo. Đua ghe ngo của người khmer có 2 loại: đua trên cạn và đua
dưới nước. Đua ghe ngo trên cạn chủ yếu là sự tái hiện, mơ phỏng lại ccđua

ghe ngo dưới nước. Nó thường được tổ chức gắn liền với các lễ hội truyền
thống và đó là trị chơi thường xuất hiện trong phần hội sau các lễ thức truyền
thống. Vì thế, đua ghe ngo dưới nước ( gọi là tuk ngo) có tầm quan trọng đối
với văn hóa của người Khmer nói riêng và các trị chơi văn hóa dân gian miền
sơng nước Tây Nam Bộ nói chung.
Dựa vào các mẫu truyện trong kinh điển Phật giáo, người ta lí giải: lễ hội
cúng Trăng ra đời từ một câu chuyện nói về tiền kiếp của Đức Phật Ca Mâu
Ni. Vào đêm trăng tròn, một con Thỏ phát truyện muốn hiến thể xác của mình
cho bất kì ai cần đến, dể sớm hóa kiếp khác. Lời nguyền đó ngay lập tức được
vị thần Pray Inh đang ngự ở trên trời nghe được. Người liền hạ giới, biến
thành một cụ già đến gần con Thỏ xin được ăn thịt. Thỏ liền đồng ý, bảo thần
Pray Inh hãy đi lấy củi và nhóm lửa lên, trong khi chờ Thở tắm cho sạch sẽ.
Khi ngọn lửa cháy to, Thỏ liền nhảy vào đóng lửa tự thiêu mình, biến thành
thức ăn cho cụ già ( thần Pray Inh ). Thế nhưng, khi đó ngọn lửa khơng thiêu
chết Thỏ mà tắt đi. Xúc động với việc làm thiện tính đó, thần Pray Inh bồng
lấy thỏ, bay một mạch lên cung trăng và dùng phép vẽ hình Thỏ in vào Mặt
Trăng mãi mãi về sau này để con người thấy mà soi gương. Và, cũng từ đó lễ
hội cúng Trăng ra đời.
Gắn liền với lễ cúng Trăng, người Khmer Sóc Trăng tổ chức đua ghe
ngo. Đây được coi là hoạt động rước nước đặc thù của cư dân nông nghiệp lúa
nước. Điều này chứng tỏ rằng, người Khmer khao khát cóp mùa màng bội thu
thể hiện qua hoạt động đua ghe ngo, rước nước nè.
Theo phong tục, cũng vào ngày rằm tháng 10 âm lịch hằng năm, người
Khmer Nam bộ ( chủ yếu Sóc Trăng, một số tỉnh như Trà Vinh, Cà Mau, Kiên
Giang, Hậu Giang,...) hăm hở tham gia lễ hội đua ghe ngo, đây là lễ hội lớn
của tộc người này và cũng là lễ hội truyền thống.
Về nguồn gốc của lễ hội có truyện cổ tính Sự tích đua ghe ngo. Nội dung
của câu truyện được kể như sau: “Ngày xưa, khi các bộ tộc còn đánh nhau vì
tranh giành quyền lực. Các cuộc đánh nhau giữa các bộ tộc người Thái, Miến
Điện, Champa và Khmer thường xuyên diễn ra khơng chỉ trên bộ mà cịn cả

trên biển, trên các dịng sơng.
Lúc này để phục vụ nhu cầu trận chiến, người Khmer đã chế ra một loại
thuyền thân dài, thon, đầu ngốc lên tiến về phía trước rất tiện lợi cho việc di
chuyển nhanh trên sông để giết kẻ thù và cùng lúc loại ghe này có thể chở
được nhiều binh lính. Thế là họ tiến hành lập trận vào mùa nước nổi. Ban đầu
rất ít người, sau đó, họ chọn người chỉ huy và xếp thành hàng ngũ nghênh trận
rất hiên ngang.
8


Khi chiến trận diễn ra, bằng loại nghe này, người Khmer đã giữ được đất
nước của mình. Hịa bình, người Khmer rất ít dùng loại ghe này.
Mãi cho đến đời con cháu của họ, nhớ lại chiến công của ông cha xưa
kia, nhân ngày lễ Óc om bok – vào ngày 15 tháng 10, trăng sáng, nước lớn
đầy sông, họ tổ chức hội đua ghe ngo để tưởng nhớ người xưa đã khuất. Sự
tích đua ghe ngo là như thế! ( Xin xem thêm TIền Văn Triệu, Tích xưa về
người Khmer Sóc Trăng, Nhà xuất bản Phương Đơng, Hội văn học nghệ thuật
tỉnh Sóc Trăng, 2011). Ngồi truyện tích nêu trên, hội đua ghe ngo cịn có
truyện khác là “Sự tích hội bơi đua”. Như vậy, nếu tổng hợp các truyện trên đã
phần nào cho ta thấy rõ nguồn gốc, thời gian, địa điểm, ý nghĩa của hội đua
ghe ngo. Dưới đây là phần miêu tả cụ thể.
Về quy trình làm ghe ngo đến chuẩn bị các thao tác và nghi thức liên
quan đến đua ghe ngo được trình bày dưới đây.
Ghe ngo là một loại ghe có hình dáng như con thoi, đầu và đuôi cong lên,
đặc biệt ghe này khơng có mui, có độ dài từ 25 đến 27 mét, với khoảng 20 đến
24 khoang dành cho 50 -60 người chèo ngồi để đua.
Nguyên liệu làm ghe này chính là cây Sao nguyên vẹn, người ta đem
khoét lỗ bỏ phần ruột cây. Công đoạn này do các nghệ nhân Khmer có tay
nghề cao và các sư sãi ở các chùa cùng làm, vì hầu như chùa Khmer nào ở
Nam bộ cũng có ghe ngo để tham gia cuộc đua hằng năm, điều này chứng tỏ

hội đua ghe ngo có vai trị quan trọng trong đời sống nơng nghiệp của người
Khmer Nam bộ. Đặc biệt, ở phum, sóc năm nào có ghe tham dự cuộc đua thì
năm sau cũng cố gắng tham dự cho bằng được nếu không họ sẽ xem dó là một
năm khơng an tâm, bức rức vì một phần cảm thấy thua thiệt, một phần có mọt
ấn tượng khơng may mắn cho phum, sóc của mình. Từ ý nghĩa khác, ta thấy,
đua ghe là một hoạt động rước nước, nên nếu khơng tham gia, phum, sóc đó
sẽ khơng được thuận lợi trong việc trồng trọt. Ý niệm về sự thiếu nước - hạn
hán sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình canh tác cây lúa của tộc người này. Đây là
tâm thức thể hiện rõ giá trị tâm linh của việc đua ghe ngo trong đời sống của
người Khmer Nam Bộ.
Trở lại với chiếc ghe ngo, sau khi đóng ghe xong, người ta dùng giấy
nhám và các vật dụng khác của nghề làm mộc để chà cho thật bóng, trơn và
dùng màu sơn phết chiếc ghe ngo. Sau cùng là họ trang trí chiếc ghe ngo theo
phong cách người Khmer rất đẹp và giàu tính mỹ thuật. Theo đó, thân ghe thì
người Khmer sơn màu đen, phần trên be thì sơn một vệt màu trắng, màu vàng
hoặc đỏ với độ dài khoảng chừng 5cm. Phần còn lại hai bên ghe sẽ được trạm
trỗ rất tinh xảo hoặc người ta sẽ vẽ hình vẫy các con vật như rồng, hay rắn
theo mơ típ quen thuộc là Naga. Đầu ghe người ta sẽ vẽ hình các con thú như
rồng, (chim) cong, sư tử, cọp, voi, vừa là biểu hiện cho sức mạnh của chiếc
ghe đua, vừa thể hiện được cái đẹp độc đáo của văn hóa truyền thống Khmer.
Vì mỗi chùa gần như có một chiếc ghe ngo nên có chùa họ sẽ vẽ tên chùa lên
chiếc ghe ngo với ý nghĩa đại điện cho phum, sóc có chùa tham gia hội thi

9


này. Ngoài ra, để dễ theo dõi trong hội thi người ta còn đánh sốn từng ghe để
dễ phân thắng bại trong những cuộc đua nước rút.
Do ghe có hình thon, dài và kéo về hai phía đầu và sau lái đều có độ cong
nên nếu bơi động tác phối hợp không nhịp nhàng, ăn ý sẽ dẫn đến mất thăng

bằng và làm cho ghe bị lật chìm. Vì thế, trước khi đưa ghe xuống nước để
luyện tập tham gia thi đấu, người ta thường tổ chức luyện bơi trên cạn sao cho
động tác được thuần thục rồi mới đưa xuống bới thật dưới sơng gần nhất nơi
có chùa hiện diện.

Mũi ghe ngo ( Nguồn: internet)
Theo phong tục, người được chọn để bơi phải là những thanh niên khỏe
mạnh có sức vóc, đặc biệt phải quen với mơi trường sơng nước, biết bơi thành
thạo và phải bơi sao cho có sự nhịp nhàng cùng đồng đội. Quan trọng hơn cả
người đua là người ngồi ở đầu ghe để giữ nhịp bằng cách đánh đều nhịp xòe
bàn tay ra để chỉ huy từng nhịp chèo. Đây là người chỉ huy được chọn từ
những người thành thạo về môn đua ghe ngo và có uy tín trong phum, sóc.
Bên cạnh đó, cịn có người ngồi giữa đánh cồng ( nay chủ yếu dùng tu huýt để
thổi cho lớn nhằm cho các tay đua nghe rõ) thúc giục các tay đua vượt sóng
tiến lên.
Như theo phong tục, hội đua nghe ngo thường diễn ra theo thời gian làm
ba bước như sau:
- Trước cuộc đua, người ta tổ chức tập đua ghe ngo từ thời gian 1 đến 2
tuần lễ, có phum, sóc vì muốn có thành tích nên tập cả tháng trời. Hằng ngày,
các tay đua tập theo giờ rãnh rỗi và theo con nước, vì sơng nước rịng (kém)
khơng tập được. Thời gian tập được chọn chủ yếu là sáng sớm và chiều mát để
các tay đua không bị mất sức. Tuy nhiên, để tăng cường sức chịu đựng trong

10


khi đua, người ta còn chọn buổi trưa nắng để tập nhằm nâng cao sức chịu
đựng khi vào cuộc đua chính thức bởi khi đua có lúc đua từ sáng đến chiều,
đòi hỏi sự bền bỉ về thể lực của các tay đua. Vì thế, mỗi khi vào hội đua, ta
thấy ở từng đoạn sơng có chùa Khmer ở đó là khơng khí hị reo, người ta ra bờ

sơng xem các tay đua của phum, sóc mình điêu luyện tập rất đông đúc.
Để tham gia cuộc đua, sau khi ban tổ chức thông báo thể lệ và ngày, giờ,
địa điểm đến từng phum, sóc, đơn vị nào tham gia thì đăng ký và thành lâp
một ban tổ chức điều hành các tay đua của mình, lựa chọn các tay đua và bắt
đầu công việc tập đua tại địa bàn cư trú. Thường công việc này do người lớn
tuổi phối hợp với các sư sãi trong chùa thực hiện. Cũng có khi, người ta đi vận
động tiền và các vật dùng khác cho cuộc đua trong phum, sóc để có kinh phói
tham gia và có giải nhằm thể hiện bộ mặt và sức mạnh của phum, sóc mình.
Hầu hết bà con trong phum, sóc đều hết lịng vì cuộc đua nên kinh phí thường
là rất đầy đủ, đảm bảo các cho các tay đua tham gia cuộc đua một cách tốt
nhất.
- Trong cuộc đua, vào buổi sáng sớm trước ngày đua, các ghe ở gần và kể
cả ở xa địa điểm dua bắt đầu làm lễ xuất quân. Địa điểm xuất quân thường
diễn ra ở chùa, ở đoạn sông hay kênh nằm trung tâm phum, sóc. Trong ngày
này có đầy đủ chính quyền, sư sãi ở chùa, chức sắc, các trưởng lão và hầu hết
bà con trong phum, sóc. Theo đó, người ta tiến hành bầu chọn người chỉ huy
ghe ngo cho cuộc đua sắp tới.
Sau khi đã chuẩn bị xong mọi thứ thì bắt đầu lên đường về tới tập kết để
dự cuộc đua ghe. Thường, ghe được bơi biểu diễn mọt đoạn ngắn để tạo khí
thế lấy đà. Sau đó, ghe này được một chiếc ghe máy có mã lực mạnh và đi
cùng là một chiếc ghe cà hau ( làm nhiệm vụ hậu cần), chở theo dàn trống,
dàn nhạc ngũ âm quen thuộc, và ghe hậu cần còn có cả nơi nghỉ ngơi cho cả
đồn đua. Như vậy, tính cả các tay đua và đồn ghe hậu cần này trên dưới 100
người tham gia. Bên cạnh đó, cổ động viên có ghe đua của phum, sóc mình
tham dự thì tự đi riêng. Khơng khí đặc biệt náo nhiệt khi đoàn ghe đua đi đến
đâu là trống nhạc cổ vũ và tiếng hị reo vang dậy đến đó. Nói cả phum, sóc
cùng tham gia vào cuộc đua là vậy.
Mỗi đội đua thường chọn cho mình một địa điểm thích hợp vừa thuận lợi
cho việc cổ động, vừa thuận lợi cho việc hầu cần và điều hành dễ dàng hơn.
Ban tỏ chức của đồn đua tiến hành phân cơng từng nhóm làm nhiệm vụ lo

thức ăn, nước uống... Đối với đội đua thì kiếm địa điểm thuận lợi để tập dượt,
bơi riêng và mời một vài đội khác cùng tập dượt để rút kinh nghiệm và dò sức
đối thủ. Cuộc tập dượt này dài hay ngắn còn phụ thuộc vào thời gian cho phép
và đặc biệt là ban tổ chức của mỗi đội vì họ có chiến thuật riêng. Thường họ
hay nhắc đội đua của phải nghỉ dưỡng sức tranh tài thắng lợi.
Việc bốc thăm đã xong từ trước, đến giờ đua tất cả các đội ghe tham gia
đều tập trung tại khán đài để bốc thăm, nhận lịch đua. Để tiện, việc bốc thăm
thường diễn ra trước ngày đua vừa tiện cho việc sắp xếp, các đội đua còn biết
thêm thơng tin về đối thủ của mình sắp tới. Sau đó, cuộc đua bắt đầu.
11


Người ta tổ chức đua ghe theo từng đợt một. Mỗi đợt đua là một cặp ghe
theo bảng đã được bốc thăm từ trước. Vì thế, nhiều đội tham dự sẽ có nhiều
bẳng đấu xếp theo A, B, C,... và cuộc đua diễn ra liên tục từ vòng loại đến
chung kết. Về mặt thời gian, bắt buộc và chịu sự chi phối của thời gian con
nước mới lên là từ 1 giờ 30 đến 2 giờ 30 phút ngày 15 tháng 10 âm lịch. Nếu
có đua buổi sáng thì bắt đầu phải từ 7 giờ 30 sáng.
Hiện nay, địa điểm diễn ra cuộc đua ghe ngo là tại thành phố Sóc Trăng.
Người ta chọn một đoạn sơng Maspero ( trên đường Lý Thường Kiệt) đến dài
đén đoạn sông Xung Đinh để tổ chức cuộc đua. Tất cả các ghe của các tỉnh
đều về đây tham dự như Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Cà Mau, An
Giang, Cần Thơ,... Vào buổi chiều trước ngày đua, sẽ là thời điểm các đội đua
của tỉnh nhà Sóc Trăng và các tỉnh bạn kéo về đây để chuẩn bị cho cuộc đua
sắp tới.
Vào cuộc đua, từng đợt ghe một có thể là một đơi ghe hoặc ba ghe cùng
tiến về phía trước ào ào lướt sóng. Tiếng hị reo, cổ vũ, tiếng trống, tiếng kèn ,
dàn nhạc ngũ âm vang lên làm cho các tay đua khơng biết mệt mỏi. Khơng khí
cuộc đua vì vậy mà có gió, mưa cũng vẫn cứ tiến hành. Hai bên bờ sông người
đông nghẹt với những dải lụa đủ màu sắc cổ vũ cho cả đồn đua, khơng phân

biệt bên nào của đội nào, có người có sức vóc thì lội cả xuống sơng để nhìn
đồn đua cho gần.

Tranh tài giữa hai đôi (Nguồn: internet)
Sau khi loại từng đối thủ, để vào chung kết, đòi hỏi các tay đua khơng
chỉ mạnh mà cịn bền, kèm theo người chỉ huy giỏi và công việc hậu cần tốt.

12


Kết thúc cuộc đua, ghe được trao giải trước tiếng hị vỗ tay của từng người.
Đặc biệt họ khơng quan trọng quá phần thưởng và đội nào thắng cuộc mà tất
cả đều vui vẻ, hẹn gặp lại cuộc đua năm sau.
Sau cuộc đua, tất cả các đội chia nhau về cùng ghe máy hộ tống cổ vũ.
Những ghe đi chung đoạn đường sơng thì cùng kết thành một đội, cùng vui
liên hoan, ca múa trên chiếc ghe cà hau ( ghe hậu cần). Đoàn người cỗ vũ tan
dần và phải có hơn hàng giờ đồng hồ họ mới rời khỏi địa điểm đua. Sau khi cổ
vũ cuộc đua, họ bắt tayvaof cúng trăng và tiến hành đút cớm dẹp truyền thống.
Đua ghe ngo là cao điểm tập trung người Khmer đông đảo nhất, không
chỉ là một tỉnh thành mà nhiều tỉnh thành trong khu vực cùng tụ về đây. Vì
thế, có thể nói, tính cố kết cộng đồng đã vượt ra ngoài ranh giới của một địa
phương, qua lễ hội đã được nâng lên cấp vùng. Từ đó, ta thấy rõ tình đồn kết,
tính cộng đồng và tinh thần tham gia lễ lội đua ghe ngo của người Khmer
Nam bộ là một thứ văn hóa vơ giá. Với số lượng người tham gia lên đến ba
bốn trăm nghìn người tham gia hằng năm, lễ hội đua ghe ngo của người
Khmer Nam bộ là một sản phẩm văn hóa truyền thống hết sức đặc sắc có sức
lan tỏa, thể hiện rõ timh thần Khmer cao độ.
2.11 Đèn nước (Loy Pro Típ)
Bên cạnh hình thức đua ghe Ngo là hình thức thả Đèn Nước (Loy Pro
Típ). Lễ thả đèn Nước tiếng Khmer gọi là “Loy Pro Típ” từ xa xưa hồn hồn

mang ý nghĩa tơn giáo vì theo truyền thuyết đèn Nước tượng trưng cho hàm
dưới của đức Phật để lại hạ giới độ trì chúng sinh; có truyền thuyết cho rằng
đèn Nước là chiếc răng Phật được vua loài rắn Naga giữ do đó người Khmer
tổ chức lễ này để tưởng nhớ đến đức Phật và cũng để tạ lỗi với thần Đất và
thần Nước vì đã bị con người làm ô uế trong năm.
Đèn Nước thường được mô phỏng theo dạng các ngôi chùa, tháp Khmer
được làm thân và bẹ chuối, hoặc bằng giấy tráng kim hay giấy kiếng, trang trí
hoa lá hoặc vẽ bột màu bên ngồi giấy kiếng đủ màu sắc. Phía trước đèn
người ta treo cờ phướn, chung quanh cắm đèn cầy và nhang, bên trong đèn
còn bày các vật cúng như trái cây, bánh kẹo, gạo muối,... một vài nơi có treo
tiền vào cây Slatho.

13


Lễ rước đèn (nguồn: internet)

Lễ thả đèn Nước được diễn ra sau lễ cúng Trăng. Đèn Nước sau khi làm
xong được rước đi một vịng phum, sóc hoặc một vịng sân chùa với sự hộ
tống của đoàn múa Ya dăm và mọi người cùng trong vùng. Sau khi rước đèn
xong các vị Acha cầu kênh thể hiện lòng tạ ơn mặt Trăng, mặt Đất, nguồn
nước và mang tha thứ lỗi lầm cho con người. Sau đó, người ta rước đèn ra nơi
thả, thường là con kênh, rạch trước sân chùa.
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ VÀ THỰC TRẠNG CỦA CÁC TRÒ CHƠI DÂN
GIAN TRONG MÔI TRƯỜNG SÔNG NƯỚC MIỀN TÂY NAM BỘ
3.1 Vai trò
Đối với trẻ em, những trò chơi dân gian nói chung và trị chơi dân gian
trong mơi trường sơng nước miền Tây Nam bộ nói riêng là một trong những
yếu tố hình thành nên bản sắc văn hóa dân tộc, là nguồn sữa nuôi dưỡng thế
giới tinh thần, là nhịp cầu nối tâm thức các em với mọi bài học về cuộc sống

xã hội. Bởi vì nó có sức hấp dẫn, lôi cuốn mạnh mẽ nhất đối với các em. Trò
chơi dân gian là phương tiện giúp các em phát triển ngơn ngữ, phát triển tình
cảm, đạo đức, tình đồn kết, mở rộng nhận thức, tình u thiên nhiên, yêu quê
hương đất nước.

14


Khơng những vậy trị chơi dân gian trong mơi trường sơng nước miền
Tây Nam bộ cịn điểm tơ thêm nét văn hóa đặc sắc của vùng. Hình thành từ
lao động, từ thiên nhiên vốn có và nét khu biệt của vùng đã làm nổi bật được
nét văn hóa riêng biệt mà miền Tây Nam này mới có được. Đồng thời năng
giá trị văn hóa tinh thần truyền thống đẹp, đa dang hơn trong sự mộc mạc,
bình dị vốn có của vùng.
3.2 Thực trạng
Trong cuộc sống hiện đại, hình thức giải trí của trẻ em và cả người lớn
đều theo xu hướng "cơng nghệ hóa" như laptop, máy tính bảng, điện thoại
thơng minh... Rất khó bắt gặp những đứa trẻ chơi trị kéo co, ơ ăn quan hay
đánh khăng... Trong khi lo ngại những trị chơi điện tử có thể làm trẻ có xu
hướng trở nên bạo lực, ích kỷ, dễ cáu gắt thì tại sao bố mẹ khơng hướng trẻ
đến những trò chơi dân gian. Dễ dàng nhận thấy lợi ích trị chơi dân gian
mang lại vơ cùng to lớn: phát triển tư duy, sức khỏe, sự dẻo dai tinh thần đoàn
kết, hợp tác, chịu trách nhiệm, biết chia sẻ và yêu thương người khác – điều
mà bất kỳ bậc phụ huynh nào cũng mong muốn con mình có được, phải chăng
chúng ta cần nhìn nhận lại và học hỏi cách giáo dục con cái từ cha ơng của
mình.
Trong đời sống hiện nay, khi quá trình hội nhập và phát triển, sự giao lưu và
tiếp biến văn hóa và sự ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp của nhiều trào lưu
văn hóa mới, cùng với sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường đã dẫn tới
những sự đổi thay mang tính tiêu cực của các trị chơi dân gian của các dân tộc.

Trò chơi dân gian trong môi trường sông nước dần dần mất đi và bị lãng quên
trong thời đại hiện nay. Rất hiếm khi chúng ta bắt gặp những đám trẻ nhỏ tắm sông
chơi lặn đua, bơi đua hay những đứa trẻ ngồi trên lưng trâu thúc giục tranh tài... có
lẻ nó đã khơng cịn phù hợp với thời đại, một phần hơn các trò chơi đều liên quan
đến sông nước gây ra nhiều hệ lụy khơng đáng có, cũng chính vì vậy mà một số
trị chơi dân gian trong mơi trường sơng nước dần bị mai một và biến mất trong xã
hội ngày nay. Tuy nhiên cũng có những trị trơi dân gian gắn liền với mơi trường
sơng nước đã được giữ gìn và phát triển trở thành nét văn hóa truyền thống riêng
biệt, đặc trưng như đua ghe ngo hay rước đèn...

KẾT LUẬN
Qua đề tài này không chỉ giúp các em mà ngay tất cả mọi người trong xã
hội hiểu rõ hơn về trị chơi dân gian nói chung và trị chơi dân gian trong mơi
trường sơng nước miền Tây Nam bộ nói riêng về tầm quan trọng của đề tài
15


trong đời sống hiện nay. Những nét văn hóa tinh thần vốn có từ lâu đời tạo
nên những nét riêng biệt vùng miền.
Khẳng định trị chơi dân gian có vai trị vơ cùng quan trọng
trong việc
giáo dục con người về tính tập thể, tinh thần kỷ luật, ý chí vươn lên giành
chiến thắng, rèn luyện thể chất, sức mạnh, dẻo dai, khôn khéo và sức chịu
đựng của con người.
Để văn hóa truyền thống thấm dần vào tâm hồn trẻ thơ, khơng có cách nào
hay hơn là áp dụng trị chơi dân gian vào trường học, các hoạt động vui chơi
giải trí lành mạnh.
Cần giáo dục trẻ em và cho các em tìm hiểu về các trị chơi dân gian miền
sơng nước, thơng qua trị chơi dân gian đó, các em và chúng ta vừa xây dựng
được một nếp sống lành mạnh không bạo lực vừa bảo vệ và bảo tồn được

những trò chơi mang bản sắc truyền thống của dân tộc đang có nguy cơ mai
một.
Bảo tồn và phát huy những nét văn hóa dân trong các trị chơi dân gian,
bảo vệ những giá trị đẹp, làm cho những nét văn hóa đó ngày một phát triển
và khơng bị lãng quên trong xã hội hiện nay.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Gia Định thành thơng chí, bản dịch của Nguyễn Tạo, Nha văn hóa phủ
QVKĐTVH xuất bản, tập hạ, Sài Gòn 1972.
- Mộ số vấn đề khoa khọc xã hội về đồng sông Cửu Long, Nxb
KHXH.H.1997
- Trần Minh Thương (2015), Đặc điểm văn hóa sơng nước miền Tây Nam
bộ, Cơng trình do Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, nhà xuất bản Mỹ Thuật,
Hà Nội.
- Nguyễn Hữu Hiếu (2010), Diễn trình văn hóa Sơng Cửu Long, nhà xuất
bản Thời đại, Hà Nội
- Trần Minh Thương (2013), Trò chơi dân gian Sóc Trăng, Trần Minh
Thương, Cơng trình do Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, nhà xuất bản Mỹ
Thuật, Hà Nội.
- />- />- />
17



×