TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
NGHỀ LÀM NHANG QUE CỦA NGƯỜI HOA
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2020
MỤC LỤC
A. PHẦN TỔNG QUAN ...................................................................................... 4
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 4
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4
3. Đối tượng ....................................................................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 5
B. PHẦN NỘI DUNG........................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN.............................. 5
1.Cơ sở lí luận ................................................................................................. 5
1.1 Định nghĩa Văn hóa ................................................................................. 5
1.2 Vùng văn hóa Nam Bộ ............................................................................. 5
1.3 Nghề thủ công truyền thống ..................................................................... 6
2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 6
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI HOA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH ................................................................................................................. 7
1. Quá trình di dân của người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh ................. 7
2. Sự phân bố dân cư của người Hoa ............................................................. 8
CHƯƠNG 3. NGHỀ LÀM NHANG QUE CỦA NGƯỜI HOA TẠI THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................................................................ 9
1. Sự hình thành nghề làm nhang truyền thống của người Hoa ở Thành
phố Hồ Chí Minh ............................................................................................ 9
1.1 Lịch sử hình thành ................................................................................... 9
1.2 Địa bàn phân bố nghề làm nhang ........................................................... 10
2. Kĩ thuật làm nhang que của người Hoa................................................... 11
2.1 Sơ nét về nhang que ............................................................................... 11
2.2 Nguyên liệu làm nhang .......................................................................... 12
2.2.1 Chân nhang ...................................................................................... 12
2.2.2 Mạt cưa ............................................................................................ 12
2.2.3 Keo ................................................................................................... 13
2.2.4 Phẩm màu ........................................................................................ 13
2.2.5 Giấy bao nhang ................................................................................ 14
2.3. Quy trình làm nhang ............................................................................. 14
2.3.1. Kĩ thuật làm chân nhang ................................................................. 14
2
2.3.2 Kỹ thuật trộn hỗn hợp mình nhang ................................................... 15
2.3.3 Kỹ thuật se nhang ............................................................................. 15
2.4 Phơi sản phẩm, đóng gói ........................................................................ 15
CHƯƠNG 4. GÍA TRỊ VĂN HĨA CỦA SẢN PHẨM NHANG QUE ......... 16
1. Gía trị văn hóa .......................................................................................... 16
2. Cây nhang trong đời sống tín ngưỡng ..................................................... 16
C. KẾT LUẬN .................................................................................................... 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................. 18
3
A. PHẦN TỔNG QUAN
1. Lí do chọn đề tài
Nam Bộ khơng chỉ được xem là nơi có nhiều nền văn hóa cổ, mà đây cịn là
nơi hội tụ nhiều dịng chảy văn hóa khác nhau từ những dân tộc khác nhau. Nói cách
khác, Nam Bộ là một mơi trường văn hóa đa dạng, năng động và có nhiều sự giao
lưu tiếp biến văn hóa. Đây là vùng tập trung hỗn hợp dân cư- dân tộc như: Việt, Hoa,
Khmer, Chăm, Xa Điêng, … Trong đó, người Hoa với những đặc trưng văn hóa
riêng biệt đã góp phần làm cho văn hóa Nam Bộ trở nên phong phú hơn. Trong quá
trình sinh sống và định cư, người Hoa đã tiếp tục phát triển những văn hóa riêng của
họ và đồng thời, sản sinh ra những yếu tố văn hóa mới trong quá trình thích ứng và
giao lưu với văn hóa vùng miền nơi đây. Tính cố kết cộng đồng đã làm tăng sức
mạnh kinh tế và phát triển văn hóa của người Hoa nói riêng và vùng Nam Bộ nói
chung.
Tiểu thủ cơng nghiệp là một trong những hoạt động kinh tế có nhiều ưu thế
của người Hoa. Đặc biệt, tại thành phố Hồ Chí Minh, nghề làm nhang truyền thống
của người Hoa đã tồn tại lâu đời và mang những giá trị, ý nghĩa về mặt kinh tế và
văn hóa. Từ lâu, những nén nhang thơm nồng đã trở thành một bộ phận khơng thể
thiếu trong đời sống văn hóa của người Hoa và cả người Việt. Vào những ngày quan
trọng hay mỗi lần Tết đến Xuân về, bên cạnh hoành phi, câu đối đỏ hay nồi bánh
chưng xanh thì những nén nhang thơm đều góp mặt. Hình ảnh cây nhang từ lâu đã
đi vào đời sống văn hóa tín ngưỡng của người dân Việt Nam nói chung và người
Hoa nói riêng như một nét đẹp thiêng liêng mà gần gũi. Ẩn sâu trong những cây
nhang đó là những câu chuyện về truyền thống văn hóa dân tộc và đời sống con
người. Trải qua những biến động lịch sử, nhiều ngành nghề thủ cơng truyền thống
bị mai một đi ít nhiều do sự cạnh tranh khốc liệt của kinh tế thị trường. Trước đây,
nghề làm nhang không quá nở rộ và phát triển, nhưng giờ đây, khi cuộc sống của
người dân ngày một phát triển, nhu cầu đời sống cao hơn, nhiều làng nghề làm nhang
đã mở rộng quy mô buôn bán hơn, đáp ứng được nhu cầu sống của người dân. Từ
đó, các nghiên cứu về giá trị, văn hóa các làng nghề truyền thống đã được chú ý và
phổ biến hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thêm về cộng đồng người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh và nghề
làm nhang- nghề thủ công truyền thống của họ ở nơi đây. Nghiên cứu về nguồn gốc,
cách thức, qui trình làm ra nhang que. Qua đó, phát hiện ra giá trị văn hóa của sản
phẩm nhang que trong đời sống văn hóa của người Hoa nói riêng và người Việt nói
chung.
4
3. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu là nghề làm nhang que của người Hoa chủ yếu ở huyện
Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Có thể xem đây là một trong những nơi làm
nhang nhiều nhất của họ.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp mơ tả,phân tích tổng hợp.
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết..
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp điền dã
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.Cơ sở lí luận
1.1 Định nghĩa Văn hóa
Theo E.B Tylor định nghĩa trong Cơng trình văn hóa ngun thủy năm 1871,
văn hóa là một chỉnh thể phức hợp những gì con người đạt được với tư cách là thành
viên của xã hội, như kiến thức, tín ngưỡng, luật pháp, phong tục, …
Hay: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần, do
con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.” (Trần Ngọc Thêm,
1996 :27).
1.2 Vùng văn hóa Nam Bộ
Vùng văn hố này bao gồm địa bàn 19 tỉnh thành: Đồng Nai, Bình Dương,
Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Vĩnh
Long, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, TP. Cần Thơ, Bạc Liêu, Tiền
Giang, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau. Có thể chia thành ba tiểu vùng
văn hố: tiểu vùng Đơng Nam Bộ, tiểu vùng Tây Nam Bộ, và tiểu vùng Sài Gịn.
Hầu như đất đai Nam Bộ đều là hoang hố. Các cộng đồng người Việt, người
Khmer, người Hoa, người Chăm dần tiến vào Nam Bộ. Họ khai khẩn đất hoang,
canh tác, buôn bán và định cư. Nhờ vậy, Nam Bộ từ một vùng đất hoang vu đã biến
thành vùng nông nghiệp trù phú và những đô thị sầm uất. “Nền văn hoá Nam
Bộ cũng từ đó đã hình thành như một kết quả dung hợp giữa cái nền là văn hoá
Việt với những yếu tố tiếp biến từ văn hoá Chăm, Khmer, Hoa... và cả phương Tây
sau này.” ( Lý Tùng Hiếu, Vùng Văn Hóa Nam Bộ: Định vị và đặc trưng văn hóa,
5
)
1.3 Nghề thủ công truyền thống
“Nghề thủ công truyền thống là nghề sản xuất hoàn toàn hay một phần bằng
chân tay những vật dụng trang trí, tiêu dùng, địi hỏi các kỹ năng tay chân và kỹ năng
nghệ thuật, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thường áp dụng trong sản
xuất hàng hóa quy mơ nhỏ. Nghề thủ công thường được chia thành các lĩnh vực: văn
hóa tinh thần; sản xuất, chế biến hàng tiêu dùng; chế biến lương thực thực phẩm…”
(Phạm Lan Hương, Nghề Thủ Cơng Truyền Thống: Tiếp cận từ góc độ bảo tàng,
/>ruy%E1%BB%81n%20th%E1%BB%91ng%20l%C3%A0%20ngh%E1%BB%81
%20s%E1%BA%A3n%20xu%E1%BA%A5t%20ho%C3%A0n,h%C3%A0ng%20
h%C3%B3a%20quy%20m%C3%B4%20nh%E1%BB%8F. )
2. Cơ sở thực tiễn
Nhang hương từ lâu đã trở thành một trong những yếu tố văn hóa, đóng vai
trị rất quan trọng trong đời sống cũng như các phong tục, tín ngưỡng ở mỗi vùng
miền. Thắp nhang là tập tục văn hóa lâu đời của người Hoa và người Việt, thể hiện
lịng tơn kính ơng bà tổ tiên hay để cầu may mắn, bình an trong cuộc sống. Những
nén hương tỏa khói mờ ảo trong khơng gian n tĩnh như một cây cầu kết nối giữa
con người với thế giới tâm linh. Bởi vậy, các làng nghề làm nhang từ đó mà xuất
hiện, phát triển để đáp ứng nhu cầu của con người. Giữa lòng TP.HCM hiện đại và
tấp nập, vẫn cịn đó một số làng nghề làm nhang gần trăm năm tuổi, nơi đưa những
nén nhang “tỏa hương” khắp ngõ ngách của thành phố. Đặc biệt, làng nghề làm
nhang tại huyện Bình Chánh được xem là làng nghề lâu đời nhất TP.HCM với thâm
niên hơn 80 năm và là một trong những cơ sở sản xuất nhang lớn nhất khu vực Nam
Bộ. Để làm ra một nén nhang thành phẩm cần phải có sự tỉ mỉ, cơng phu, và “luôn
chân luôn tay” của những người thợ. Nghề làm nhang đã được lưu giữ, phát triển và
thể hiện nét đẹp trong văn hóa làng nghề của người Hoa. Khơng chỉ mang lại việc
làm và thu nhập, nghề này còn mang lại những giá trị khác nhau.
6
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI HOA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
1. Q trình di dân của người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh
Khái niệm người Hoa dùng để chỉ những người gốc Hán và những người
thuộc dân tộc ít người ở Trung Quốc đã di cư sang Việt Nam, con cháu được sinh ra
tại Việt Nam và được nhập quốc tịch Việt Nam.
Về quá trình di dân của người Hoa, trong cuốn “ Chân Lạp Phong Thổ Ký”
của một sứ thần nhà Nguyên đã viết “ họ đã lựa chọn ở hẳn trong xứ bởi vì đời sống
của họ ở nay khá hơn là ở quê hương họ hay trên tàu của họ…” Điều này chứng tỏ,
người Hoa đã từng di cư đến Nam Bộ để sinh sống và việc di cư khi đó chỉ mang
tính chất lẻ tẻ, chưa có hệ thống. Người Hoa đến Việt Nam vào các thời điểm khác
nhau. Có thể kể đến một số đợt di dân lớn vào Việt Nam và Đàng Trong từ thế kỷ
XVII như cuộc di dân của Mạc Cửu đến vùng Hà Tiên vào năm 1671. Tại Trung
Quốc, sự sụp đổ của nhà Minh đã khiến người Hoa trung thành với nhà Minh bỏ quê
hương di dân sang vùng Đơng Nam Á, trong đó có Việt Nam. Trong làn sóng di cư
đó, nhóm người Hoa do Mạc Cửu dẫn đầu vào mảnh đất Hà Tiên. Ông đã cùng cộng
đồng người Hoa di cư giúp cho mảnh đất này trở nên phồn thịnh. Đến năm 1679,
nhóm các tướng Trung Hoa là Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Định đổ bộ vào
Đà Nẵng. Chúa Nguyễn đã cho họ vào vùng đất phương Nam để khai khẩn. Sau đó,
vào thế kỷ XIX, người Hoa được người Pháp tạo điều kiện cho vào định cư ở Sài
Gòn, Chợ Lớn,… Như vậy, người Trung Hoa đã sang Việt Nam và định cư nhiều
nhất ở Biên Hòa, Chợ Lớn,..
Tượng đài Mạc Cửu ở Hà Tiên
Nguồn: />7
2. Sự phân bố dân cư của người Hoa
Là một dân tộc trong 54 cộng đồng dân tộc ở Việt Nam, Người Hoa cư trú
tại nhiều địa bàn khác nhau trong cả nước. Đặc biệt là ở Thành phố Hồ Chí Minh,
người Hoa đến định cư khá đơng. “Theo số liệu của cục Thống kê năm 1999, cả
nước có 862.371 người Hoa, trong đó tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có đến 428.768
người Hoa, chiếm tỷ lệ 54,5% người Hoa cả nước.” (TS Trần Hồng Liên, 2007: 10).
Và “Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hoa ở Việt Nam có dân
số 823.071 người, có mặt tại tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Hoa cư trú tập trung
tại: Thành phố Hồ Chí Minh (414.045 người, chiếm 50,3% tổng số người Hoa tại
Việt
Nam)”(Wikipedia,
Người
Hoa
(Việt
Nam),
/>t_Nam) )
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, dân cư người Hoa đa số tập trung tại các quận
5, 6, 10... Hoa kiều tại Thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu là người Quảng Đông, Triều
Châu, Phúc Kiến, Khách Gia và Hải Nam. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Quảng Đông.
Dù định cư đã qua nhiều đời, Hoa kiều vẫn gìn giữ được bản sắc văn hóa của dân
tộc mình, vẫn giữ được các phong tục tập quán truyền thống và vẫn sử dụng tiếng
Hoa làm ngơn ngữ chính thức trong các giao dịch nội bộ. Với số dân cư đông đúc
này đã đem lại nhiều bước phát triển cho nên kinh tế của Thành phố. Do đó, việc tìm
hiểu khái qt về cộng đồng người Hoa sẽ góp phần hiểu thêm về đời sống văn hóa,
xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh.
Hẻm Hào Sĩ Phường của người Hoa ở Quận 5
Nguồn: />8
CHƯƠNG 3. NGHỀ LÀM NHANG QUE CỦA NGƯỜI HOA TẠI THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
1. Sự hình thành nghề làm nhang truyền thống của người Hoa ở Thành phố
Hồ Chí Minh
1.1 Lịch sử hình thành
Từ thế kỷ XVII, các cư dân người Hoa, Khmer, … di dân đến vùng đất Nam
Bộ. Song song với quá trình khai phá vùng đất này là q trình cộng cư, giao lưu
văn hóa giữa các thành phần dân tộc với nhau. Có thể nói, đây là sắc thái độc đáo
của Nam Bộ so với các vùng miền khác. Trong quá trình di dân và định cư, tất yếu
mỗi một dân tộc sẽ mang theo mình những truyền thống lao động khác nhau của mỗi
quê hương. Sống trong một điều kiện, hồn cảnh và mơi trường xã hội mới, những
truyền thống lao động đó sẽ khơng chỉ là chuyện kế tục mà cịn có sự biến đổi và
phát triển cho phù hợp. Đối với các nghề thủ công truyền thống, chủ thể thực hiện
việc kế tục và phát triển các nghề khơng ai khác chính là những người thợ thủ công
trong các cuộc di dân. Người Hoa đến Nam Bộ và mang theo các nghề thủ công ở
nước họ tới, như: dệt, làm giấy, làm gốm, thủy tinh, nhang, …
Khi mới đặt chân đến vùng đất Gia Định, những lưu dân người Hoa phải đối
mặt với việc giải quyết nhu cầu sinh sống của mình. Một vai gánh lấy gia đình, con
cái, cịn một vai gánh lấy những truyền thống văn hóa của cha ơng, mang đến miền
Nam Việt Nam để định cư và lập nghiệp. Tuy trước mặt họ là một vùng đất mới
nhưng chính sự xa lạ đó là điều kiện kích thích làm cho những truyền thống văn hóa
của họ có cơ hội bộc lộ dưới dạng được biến hóa, thay đổi, thích nghi cho phù hợp
mơi trường. Qua đó, tay nghề và tài năng của những người thợ thủ công người Hoa
được phát huy.
Không chỉ người Việt, người Hoa cũng sử dụng những ngun liệu có sẵn
trong mơi trường xung quanh họ để phục vụ cho đời sống của mình. Họ xử lý những
loại thực vật tại Việt Nam như tre, tràm, nứa, mây và nhiều loại cây khác để làm nên
những vật dụng thiết yếu trong gia đình. Bên cạnh đó, việc trồng trọt không chiếm
hết tất cả thời gian tỏng năm, nên những lúc nhàn rỗi là khoảng thời gian mà họ có
cơ hội làm nghề thủ cơng. Khơng có “tuổi” lâu đời như Bắc Bộ, Nam Bộ là vùng đất
mới nên sẽ khơng có những nghề thủ cơng truyền thống hàng bốn, năm trăm năm
lịch sử. Dù vậy, những xóm làng nghề truyền thống xuất hiện khá sớm. Những dấu
vết hoạt động thủ công nghiệp của người Hoa vẫn còn hiện diện ở một số khu vực ở
Sài Gòn, như Chợ Lớn, những địa danh Xóm Thiếc, Xóm Chì, Lò Rèn, Lò Gốm,…
Sau năm 1975, ngành dịch vụ của người Hoa chuyển sang sản xuất tiểu thủ
công nghiệp, các hoạt động của nghề thủ công đã nảy nở và lan tỏa. “Tính độc đáo
và đa dạng các sản phẩm thủ cơng của người Hoa thể hiện thơng qua “bí quyết”
nghề nghiệp “cha truyền con nối” và bằng bàn tay khéo léo ở mỗi sản phẩm thủ
công làm ra nổi tiếng, nhiều người biết đến thường được gắn với địa danh, nơi vốn
9
dã sản sinh ra chúng như Nhang Chợ Lớn (TP.HCM)” (Vũ Công Nguyện, 1999:
237-238).
Những làng nghề làm nhang trước đây có mặt ở khắp nơi với những cơ sở
nhỏ lẻ, khơng có cơ cấu tổ chức sản xuất cố định, quy mô. Nghề làm nhang của
người Hoa chứa đựng những giá trị văn hóa và tồn tại lâu đời ở Thành phố Hồ Chí
Minh
1.2 Địa bàn phân bố nghề làm nhang
Nghề làm nhang được coi là một trong những nghề truyền thống lâu đời nhất
của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong tiến trình sản xuất, quy mơ sản
xuất của các cơ sở hoạt động được mở rộng, dần dần, ranh giới của nghề làm nhang
có sự thay đổi ít nhiều. Thực tế, địa bàn của các cơ sở sản xuất thủ công của người
Hoa không những tập trung ở những khu vực thành phố nhất định mà cịn phân tán
hầu hết ở các phường có đơng người Hoa sinh sống. Mật độ tập trung chủ yếu là ở
quận 5, quận 6, huyện Bình Chánh. Là một nghề “luôn tay luôn chân”, cho ra những
sản phẩm nhang đa dạng các loại để đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhiều
dân tộc ở Việt Nam. Bởi vì nhang có vai trị rất quan trọng nên xưa nay, ngành nghề
này hầu như phát triển liên tục. Tuy liên tục nhưng trong q trình đó sẽ có sự đổi
mới sản phẩm và đổi mới kỹ thuật. Đặc điểm làm nhang mỗi nơi mỗi khác nhưng
nét truyền thống trong nghề của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh vẫn được lưu
giữ, truyền qua nhiều thế hệ.
Nghề làm nhang ở đường Mai Bá Hương, huyện Bình Chánh
Nguồn: />10
2. Kĩ thuật làm nhang que của người Hoa
2.1 Sơ nét về nhang que
Nhang hay còn gọi là hương, “được chế tạo từ các chất của thực vật có
mùi thơm, thông thường được bổ sung thêm tinh dầu chiết ra từ thực vật hay có
nguồn gốc động vật, dùng để tỏa ra khói có mùi thơm khi cháy. Nhang được sử
dụng trong các mục đích tơn giáo, chữa bệnh theo kinh nghiệm hay đơn thuần
mang tính thẩm mĩ.” (Wikipedia, Hương (Tế lễ)
/>B%85)
Nghề làm nhang không quá phức tạp, thay vào đó là cần sự siêng năng cần
cù, ln tay ln chân, chỉ cần quen tay thạo nghề. Có rất nhiều loại nhang mà người
Hoa sản xuất ra, như: nhang vòng, nhang que, nhang đại ( nhang rồng). Bài tiểu luận
này chỉ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu về nhang que.
Nhang que (nhang thường, nhang thơm, nhang nhúng): là một dạng nhang
nhỏ, mảnh, thường dài 26 cm, 33 cm, nhang thường màu vàng, nâu tùy vào chất
liệu. phần chân hương là que tre được nhuộm màu đỏ tươi vô cùng bắt mắt hoặc sẽ
để tự nhiên. Đây là loại nhang được dùng nhiều nhất trong mỗi gia đình, nơi thờ tự,
chùa chiền.
Nhang thơm Đức Thành
Nguồn: />11
Nhang quế
Nguồn: />
2.2 Nguyên liệu làm nhang
Nguyên liệu để làm ra nhang chủ yếu là các thành phần từ thực vật:
2.2.1 Chân nhang
Chân nhang được làm từ thân tre. Thân tre chẻ nhỏ thành những cọng mảnh,
chiều dài và kích thước tùy vào nơi làm, trung bình từ 26-43 cm. Ở một số nơi, chân
nhang được nhuộm màu đỏ nhìn rất bắt mắt, họ cho rằng đó là sự tươi sáng. Tre, nứa
là nguyên liệu từ tự nhiên, mọc ở những vùng trũng được người thợ chặt đem về làm
nguyên liệu. Nhưng ngày nay, số lượng tre nứa khơng cịn nhiều như trước nên các
cơ sở làm nhang đa số sẽ mua chân nhang có sẵn ở những nơi sản xuất tre nứa đã
được vót sẵn thành cọng và bán theo bó.
Tre được chẻ để làm chân nhang
Nguồn: />
2.2.2 Mạt cưa
Mạt cưa là bột gỗ, đã được xay nhuyễn, có thể là bột tràm, quế, bách, ...
Người Hoa cho rằng, mạt cưa lấy được từ rất nhiều loại cây, nhưng sẽ không lấy từ
12
cây thơng, vì thơng có chất dầu và khí đốt tạo ra nhiều khói. Sẽ dễ gây cháy lớn và
mùi không tốt. Mạt cưa được người thợ mua ở các nhà máy sản xuất gỗ, tre.
Bột gỗ đàn hương
Nguồn: />
2.2.3 Keo
Chất keo để làm nhang được lấy từ lá hay rễ thân, trái, vỏ cây của cây bời lời
hay Ô dước.
* Cây bời lời: Cây bời lời hay còn gọi là bời lời nhớt, bời lời đỏ, … Đây là
loại cây được phân bố trải dài từ Hà giang đến Cà Mau. Cây hay mọc ở các bìa rừng,
bụi cây, ven suối. Cây bời lời có vỏ và gỗ chứa gluten nghiền thành bột keo được sử
dụng làm chất kết dính tự nhiên trong việc sản xuất hương nhang. Đối với từng loại
nhang mà có những tỉ lệ khác nhau cho từng sản phẩm. Nếu tỉ lệ bột keo bời lời
nhiều sẽ làm cho hương nhang bị tắt giữa chừng khi sử dụng, cho nên việc định
lượng nguyên liệu này trong sản xuất nhang phải cẩn thận và chính xác. Đối với
nhang que, vì có lõi tăm nên việc sử dụng bột keo bời lời sẽ dễ dàng hơn.
Cây bời lời
Nguồn:
/>
2.2.4 Phẩm màu
Màu sắc sẽ làm nên nét riêng biệt cho từng loại nhang, bởi có lẽ, mỗi màu
sắc sẽ mang một ý nghĩa riêng. Chịu ảnh hưởng bởi sở thích của dân tộc Hoa nên
13
màu sắc để nhuộm thường có gam rực rỡ. Người Hoa thường sử dụng màu đỏ hay
vàng.
Trong quan niệm của người Hoa, màu đỏ đại diện cho hạnh phúc, may mắn,
thành công và sức sống mãnh liệt. Màu vàng hiện diện cho tiền tài và địa vị. Có
nhiều quan niệm khác còn cho rằng đây là một màu đặc trưng cho sự vĩnh cửu trường
tồn. Đây là những màu sắc thể hiện bản sắc, tâm thức của dân tộc Hoa.
2.2.5 Giấy bao nhang
Tùy vào loại nhang mà có giấy bao nhang khác nhau. Đối với nhang que,
người Hoa sẽ đóng bằng bao ni lông hay ống nhang bằng nhựa. Tất cả các sản phẩm
nhang khi đóng gói bao bì phải có nhãn hiệu.
2.3. Quy trình làm nhang
2.3.1. Kĩ thuật làm chân nhang
* Chẻ chân nhang và sơ chế chân nhang:
Người thủ công cần phải chẻ chân nhang từ tre nứa, cây tre không được non
quá và cũng không được già quá. Cưa tre ra từng đoạn ngắn, dùng dao sắc chẻ ra
thanh nhỏ, đem ngâm nước rồi phơi khô, việc làm này giúp nhang cháy đượm. Từ
những thanh nhỏ lại đem đi chẻ thành chân nhang. Ngồi ra, có thể mua ở những nơi
sản xuất chân nhang
Chân nhang sau khi được chẻ xong được mang đi nhuộm đỏ phá dưới, cắm
vào bát hương trước khi làm mình que nhang, hoặc có thể để về sau mới nhuoojm.
* Nhúng nước màu nhuộm:
Chân nhang chẻ xong bó lại thành bó , lấy thau đựng nước màu đỏ, cầm lấy
bó chân nhang nhứng vào khoảng gần nửa cây. Phần còn lại của chân nhang sẽ được
dùng để se mình nhang.
* Phơi khơ chân nhang đã nhuộm màu:
Sau khi nhuộm màu xong, người thợ sẽ bó từng bó xịe theo hình dạng quạt
đem đi phơi nắng. Sau khi phơi khô mới đem đi xe mình nhang.
Chân nhang đem đi phơi
Nguồn: />
14
2.3.2 Kỹ thuật trộn hỗn hợp mình nhang
Để làm hỗn hợp bột để se, cần xay nhuyễn và trộn chung với mạt cưa tạo
thành hỗn hợp hợp nhất. Phải là người có kinh nghiệm mới trộn được hỗn hợp xen
hang vừa vặn. Nếu keo nhiều sẽ dẫn đến hỗn hợp bị dai, khó se, nếu mạt cưa nhiều
sẽ làm hỗn hợp bở. Theo người Hoa, 10 chén mạt cưa thì pha 1 chén keo loại tốt,
cộng với nước và nhồi bột lên.
2.3.3 Kỹ thuật se nhang
Sau khi trộn, nhồi bột thành khối, lấy tay se bột thành một cục nhỏ, trịn. Sau
đó, người thợ sẽ lấy từng cây nahng đã được nhuộm màu trước đó hoặc chưa, đặt
bột lên và lăn cho bột bọc kín chân nhang. Se bột nhang vào than cây nhang ở trên
bàn se nhang. Muốn xe nhang cho đều, trịn đẹp thì sử dụng một cây dẹp lăn đi lăn
lại vài lần lên mình cây nhang. Khi se xong, người thợ phải lăn them lớp bột màu
vàng cho có sắc vàng trên que nhang và cũng để nhang khơng dính vào nhau. Sau
đó mang đi phơi nắng.
Se nhang
Nguồn: />
2.4 Phơi sản phẩm, đóng gói
Phơi nhang: Sau khi nhang que được se xong vẫn sẽ có độ mềm, phải trải
thật đều trên sào hoặc khay lớn, giàn sao cho các que nhang khơng bị dính nhau. Vì
nhang cần được khô ráo nên việc phơi nhang không dễ chút nào. Trời nắng to, công
đoạn phơi nhang chỉ cần 3 tiếng, nếu trời mưa, sẽ gây khó khan cho cơng đoạn này,
có thể phải làm lại từ đầu nếu như nhang dính mưa và bị hư.
15
Phơi nhang sau khi se
Nguồn: />Nhang que được đóng gói theo bó, tùy mỗi nơi mà khác nhau về số lượn. Đa
số nếu là bó lớn thì trên 100 cây, bó nhỏ sẽ dưới 50 cây. Các bó nhang được bọc
bằng nilon hoặc hộp bằng nilon có nắp đậy. Có dán nhãn đầy đủ thơng tin.
CHƯƠNG 4. GÍA TRỊ VĂN HĨA CỦA SẢN PHẨM NHANG QUE
1. Gía trị văn hóa
Khơng chỉ đem lại hiệu quả thu nhập về kinh tế, nghề làm nhang còn thể hiện
được những giá trị nhân văn trong đời sống. Đặc biệt, qua nghề làm nhang của người
Hoa, ta thấy tính cộng đồng được nổi bật lên. Khi nghề thủ cơng xuất hiện thì tính
cộng đồng đã được hình thành cùng nghề, biểu hiện qua các xóm làng nghề, những
địa danh nổi tiếng của nghề đó. Ví dụ như Nhang Chợ Lớn
Nghề làm nhang của người Hoa là một trong hệ thống các nghề thủ công
truyền thống trên cả nước. Phản ánh lên được nét văn hóa đặc trưng của người Hoa,
cần cù, chịu khó, thân thiết. Tất cả những đức tính ấy đều được thể hiện qua công
việc làm nhang của họ.
2. Cây nhang trong đời sống tín ngưỡng
Sản phẩm nhang mang cho mình những giá trị văn hóa tinh thần của tộc
người. Hầu hết trong các lễ nghi tín ngưỡng tơn giáo, cây nhang đều xuất hiện, mang
một nhiệm vụ cao cả. Hương nhang đóng vai trị quan trọng, nó như là một cây cầu
kết nối con người với thế giới bên kia hay những lực lượng huyền bí. Việc đốt nhang
ln kèm theo những lời khẩn cầu, lời cầu nguyện thành tâm tha thiết. Đối với người
Hoa, việc đốt nhang sẽ tạo ra các đám mây hương khói như một tín hiệu để gửi đến
16
các vị thần, mời chư vị xuống chứng giám và ban lộc. Phật Gíao đóng một vai trị
quan trọng đối với cuộc sống của người Hoa nên mỗi lần đi cầu nguyện hay làm lễ,
nhang đều hiện diện, là một trong những lễ vật để dâng cúng. Ngoài ra, khi đi đâu
hay làm gì quan trọng, người Hoa giống như người Việt đều thắp nén nhang để cầu
xin phước lành, bình an.
Từ lâu, người Việt nói chung cũng như người Hoa nói riêng ln xem chuyện
thắp hương trên bàn thờ là một nét đẹp văn hóa truyền thống khơng thể thiếu trong
các dịp lễ quan trọng. Như ngày lễ Tết, đi sắm Tết khơng thể thiếu những bó nhang.
Nén nhang trở thành một vật không thể thiếu trong đời sống của người dân. Từ đó,
hương nhang góp phần bảo tồn và tạo nên những giá trị, bản sắc văn hóa của tộc
người.
Cây nhang trong đời sống tín ngưỡng, tơn giáo
Nguồn: />
17
C. KẾT LUẬN
Nam Bộ được xem là vùng đất mới, được khai hoang bởi rất nhiều dân tộc khác
nhau. Chính vì thế, Nam Bộ được xem là nơi đa dạng sắc màu văn hóa. Bên cạnh
đó, các nghề thủ cơng truyền thống cũng đã xuất hiện. Đặc biệt là nghề làm nhang
của người Hoa.
Tìm hiểu về nghề làm nhang của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh, chủ yếu là
ở huyện Bình Chánh. Đây được xem là một trong những nơi có tuổi nghề làm nhang
nhiều nhất ở Thành phố, là nơi sản xuất ra số lượng khá lớn các loại nhang nói chung
và nhang que nói riêng. Qua nghề làm nhang của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí
Minh, thấy được những giá trị, đặc điểm văn hóa trong sinh hoạt của họ. Mặt khác,
việc tìm hiểu về ngành nghề này cũng góp phần hiểu rõ và nhận thức được quá trình
hình thành của người Hoa ở Nam Bộ, họ đã kế thừa nét đẹp truyền thống và ứng xử,
thích nghi, giao lưu với văn hóa ở Việt Nam trong điều kiện mới. Ngồi ra, việc tìm
hiểu về nghề làm nhang của người Hoa cho thấy được vai trị và vị trí của làng nghề
thủ cơng truyền thống trong đời sống. Không chỉ mang lại những giá trị văn hóa,
làm nhang cịn giúp giải quyết vấn đề kinh tế cho các người dân nơi đây.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Trần Hồng Liên, 2007, Văn Hóa Người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh.
Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội.
2. Châu Thị Hải, 2007, Người Hoa Việt Nam và Đơng Nam Á Hình ảnh hơm qua
và Vị thế hơm nay. Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội.
3. Lê Thị Ngọc Thúy, 2010, Nghề làm nhang trong đời sống kinh tế văn hóa của
người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn ( Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh)
4. Viet Viet Tourism, Quan niệm về con số và màu sắc ở đất nước Trung Quốc,
/>5. Wikipedia, Hương (Tế lễ),
/>1%BB%85)
6. Hữu Nguyên, Làng nghề làm nhang ở Sài Gòn vào ‘mùa làm ăn’,
/>7. Tùng Thư, Anh Huy, Nghề làm nhang ở Bình Chánh- Giữ gìn nét đẹp văn hóa
truyền thống. />18