Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Phân tích quan điểm của Lênin về vai trò kinh tế của nhà nước trong giai đoạn độc quyền nhà nước của CNTB. Cho biết ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu với Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.87 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------

BÀI TẬP LỚN
Mơn: Kinh tế chính trị Mác - Lênin

Họ và tên: Trần Thị Hồng Nhung
Mã sinh viên:
Lớp:
Giáo viên:

Ha Noi, 2020

Contents


Vấn đề 1: Phân tích quan điểm của Lênin về vai trò kinh tế của nhà nước
trong giai đoạn độc quyền nhà nước của CNTB. Cho biết ý nghĩa của vấn đề
nghiên cứu với Việt Nam hiện nay..........................................................................2
Vấn đề 2: Làm rõ những khuyết tật của kinh tế trị trường. Để hạn chế những
khuyết tật đó cần phải giải quyết các vấn đề gì. Vì sao?....................................10
TƯ LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................18

Vấn đề 1: Phân tích quan điểm của Lênin về vai trị kinh tế của nhà nước
trong giai đoạn độc quyền nhà nước của CNTB. Cho biết ý nghĩa của vấn đề
nghiên cứu với Việt Nam hiện nay.
- Để hiểu rõ hơn về vấn đề này trước hết ta cần làm rõ một số nội dung sau đây:
+ Khái niệm, sự hình thành độc quyền:
Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn việc
sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc quyền, nhằm thu


lợi nhuận độc quyền cao.
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong nền kinh tế thị trường các nước tư bản chủ
nghĩa đã xuất hiện các tổ chức độc quyền, đánh dấu chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai
đoạn phát triển mới – giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. V.I.Lênin khẳng định: “Tự
do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất, và sự tập trung sản xuất này khi phát triển đến mức
độ nhất định lại dẫn tới độc quyền”. Do đó, sự xuất hiện của độc quyền do nguyên nhân
chủ yếu là tăng khả năng tích tụ và tập trung sản xuất, dẫn đến sự hình thành các doanh
nghiệp quy mô lớn.
+ Khái niệm chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một hình thức cực đoan của chủ nghĩa tư bản
nhà nước, trong đó nhà nước được coi là một doanh nghiệp độc quyền duy nhất chi phối
hầu hết các hoạt động sản xuất và phân phối hàng hóa trong nền kinh tế. Nhà nước sẽ


kiểm soát mọi hoạt động kinh tế, thương mại và các cơ sở sản xuất được tổ chức và quản
lý như doanh nghiệp nhà nước (bao gồm cả quá trình tích lũy vốn, lao động tiền lương và
quản lý tập trung). Các hoạt động trong nền kinh tế được hoạch định và điều phối bởi các
cơ quan lập kế hoạch kinh tế và các cơ quan chính phủ được tập trung hóa (các cơ quan
được tổ chức theo thực tiễn quản lý kinh doanh).
+ Sự ra đời và phát triển của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản:
Theo V.I. Lênin, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền, đến một mức độ nhất
định, tất yếu dẫn tới sự hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đó là khuynh
hướng tất yếu. Tuy nhiên, chỉ đến những năm giữa thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước mới trở thành một thực thể rõ ràng và là một đặc trưng cơ bản của chủ
nghĩa tư bản hiện đại.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thể hiện một trình độ phát triển mới của chủ
nghĩa tư bản. Trong đó về mặt kinh tế, độc quyền phát triển lên trình độ cao hơn - độc
quyền nhà nước. Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản không phải là một thứ chủ
nghĩa tư bản mới, mà chỉ là nấc thang phát triển cao hơn và là nấc thang phát triển của
chủ nghĩa tư bản độc quyền ( chủ nghĩa đế quốc).

+ Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc
quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế về thể chế thống
nhất, trong đó nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào
các quá trình kinh tế nhằm mục đích phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền tư nhân và
tiếp tục duy trì, phát triển chủ nghĩa tư bản.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó
chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp nhà
nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước


trong một cơ chế thống nhất và làm cho bộ máy nhà nước ngày càng phụ thuộc vào các tổ
chức độc quyền.
Trong cơ cấu của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản, nhà nước đã trở thành
một tập thể tư bản khổng lồ. Nhà nước cũng là chủ sở hữu những doanh nghiệp, là nhà tư
bản tập thể. Và nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó
bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu. Độc quyền nhà
nước trong chủ nghĩa tư bản là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, hiện nay vẫn còn sự phù hợp nhất định với trình độ phát triển cao của lực lượng
sản xuất, làm cho chủ nghĩa tư bản vẫn thích nghi với điều kiện lịch sử mới và do đó vẫn
tiếp tục phát triển.
- Vai trị kinh tế của nhà nước trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
+ Cơ sở lý luận:
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trị kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống trị,
song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xã
hội đó. Ngày nay, vai trò của nhà nước tư sản đã có sự biến đổi, đặc biệt trong vai trị điều
tiết kinh tế. Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hình thành một tổng thể những thiết
chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính
sách , cơng cụ có khả năng điều tiết vận động của tồn bộ nền kinh tế quốc dân, tồn bộ
q trình tái sản xuất xã hội. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện dưới nhiều

hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các cơng cụ kinh tế và
các cơng cụ hành chính - pháp lý, bằng cả ưu đãi và trừng phạt, bằng những giải pháp
chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế, khoa học,
công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo hiểm xã hội,… và cả bằng các giải pháp ngắn hạn.
Các công cụ chủ yếu của nhà nước để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách
kinh tế như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ, tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế
hoạch hóa hay chương trình hóa kinh tế và các cơng cụ hành chính, pháp lý.


Bộ máy điều tiết kinh tế bao gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt
nhân sự có sự tham gia của những đại biểu của tập đoàn tư bản độc quyền lớn và các quan
chức nhà nước. Bên cạnh bộ máy này cịn có hàng loạt các tiểu ban được tổ chức dưới
những hình thức khác nhau, thực hiện “tư vấn” nhằm “lái” đường lối phát triển kinh tế
theo mục tiêu riêng của các tổ chức độc quyền.
Cơ chế điều tiết kinh tế độc quyền nhà nước là sự dung hợp cả ba cơ chế: thị trường,
độc quyền tư nhân và điều tiết nhà nước, nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu
cực của từng cơ chế. Hay nói cách khác, đó là cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước nhằm phục vụ lợi ích của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
+ Phân tích vai trị kinh tế của nhà nước trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước:
Để làm rõ hơn về vai trò kinh tế của nhà nước trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước, chúng ta ngược dòng lịch sử về năm 1929 – năm bắt đầu xảy ra cuộc
khủng hoảng kinh tế lớn nhất trong lịch sử chủ nghĩa tư bản, để xem nhà nước Hoa Kỳ đã
điều tiết nền kinh tế như thế nào.
Khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là cuộc khủng hoảng sản xuất thừa, bởi vì sự sản xuất
bừa bãi, ồ ạt chạy theo lợi nhuận trong những năm ổn định của chủ nghĩa tư bản 19241929 đã dẫn đến tình trạng hàng hố dư thừa, trong khi sức mua của quần chúng đã bị
giảm sút nhiều do sự bóc lột tàn tệ của giai cấp tư sản. Thảm cảnh bắt đầu từ ngày thứ ba
đen tối – ngày 29/10/1929 – được đánh dấu bởi sự kiện thị trường chứng khoán Hoa Kỳ
sụp đổ. Lúc này, khi Hoa Kỳ đang oằn mình chống đỡ hậu quả của cuộc khủng hoảng tài
chính, một câu hỏi được đặt ra là: “Liệu một dân tộc vốn chỉ quen được lợi nhiều sẽ sống

sao khi phải đối mặt với tổn thất quá lớn vừa qua?”2 , với sản lượng công nghiệp giảm
50%, trong đó gang, thép sụt xuống 75%, ơ tơ giảm 90%, 11500 xí nghiệp nhỏ và cả
những xí nghiệp lớn bị phá sản. Nông thôn cũng bị tác động mạnh mẽ. Để nâng cao giá
hàng hoá và thu nhiều lời, các nhà tư bản kếch sù đã tiêu huỷ hàng hoá: cà phê, sữa, lúa
mì, thịt,... bị đốt hay đổ xuống biển chứ khơng được bán giá hạ. Năm 1933, có 17 triệu


người thất nghiệp, đó là chưa kể vơ số nơng dân bị phá sản, phải bỏ ruộng vườn đến thành
phố sống lang thang, lương cơng nhân cơng nghiệp chỉ cịn 56%.
Khi F.D. Roosevelt tuyên thệ nhậm chức tổng thống, hệ thống ngân hàng và tài chính
của Hoa Kỳ đang trong tình trạng tê liệt. Đầu tiên, các ngân hàng quốc gia nhanh chóng bị
đóng cửa, và sau đó, chỉ được hoạt động trở lại khi chúng có khả năng chi trả. Chính
quyền đã thực thi chính sách lạm phát tiền tệ vừa phải để tăng giá cả của hàng hóa và giúp
cho các gánh nặng nợ nần nhẹ nhõm phần nào. Các cơ quan mới của chính phủ đã cấp
những khoản tín dụng hào phóng cho nơng nghiệp và cơng nghiệp. Công ty Bảo hiểm
Tiền gửi Liên bang (FDIC) đã bảo hiểm tới 5000 USD cho các khoản tiền tiết kiệm gửi
ngân hàng. Các điều luật Liên bang cũng được áp dụng cho hoạt động bán chứng khoán
trên sở giao dịch chứng khoán.
Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới tính theo GDP từ những năm 1920. Nhiều năm
tiếp theo sau cuộc Đại khủng hoảng 1930, khi mà những hậu quả của suy thoái trở nên
nghiêm trọng nhất thì chính phủ đã có những hành động nhằm điều chỉnh nền kinh tế,
bằng việc tăng chi tiêu chính phủ hoặc cắt giảm thuế nhằm kích thích người dân tăng chi
tiêu tiêu dùng, và bằng việc tăng lượng cung tiền, chính phủ cũng thành cơng trong việc
khuyến khích chi tiêu. Những ý tưởng về công cụ tốt nhất nhằm ổn định nền kinh tế đã
thay đổi đáng kể từ giữa những năm 1930 và 1980. Từ kế hoạch chính sách mới 6 (New
Deal của tổng thống Franklin D. Roosevelt) năm 1933, tới sáng kiến xã hội vĩ đại (Great
Society của tổng thống Lyndon B. Johnson) năm 1960, các nhà làm chính sách đã dựa chủ
yếu trên chính sách tài khố để tác động tới nền kinh tế.
Từ khi giành được độc lập cho đến nay, người dân Hoa Kỳ đã ln tìm cách hạn chế
quyền lực của Nhà nước, kể cả vai trị của nó trong giải quyết các vấn đề kinh tế. Ở Hoa

Kỳ, đa số người dân vẫn cho rằng sở hữu tư nhân là hình thức ưu việt hơn so với sở hữu
nhà nước trong việc tạo ra sản lượng kinh tế cao nhất. Mặc dù vậy, phần lớn người dân
vẫn muốn Nhà nước phải đảm nhận một số nhiệm vụ điều phối nền kinh tế và trong thực
tế, hệ thống luật pháp của Hoa Kỳ đã tạo ra một cơ sở lành mạnh để vận hành các hoạt


động kinh doanh. Rõ ràng, vai trò kinh tế của Nhà nước là điều không thể phủ nhận, và
phù hợp với hồn cảnh xã hội khơng chỉ trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước mà còn cả trong nền kinh tế hỗn hợp hiện nay của Hoa Kỳ.
- Việt Nam - vận dụng ý nghĩa vai trò kinh tế của nhà nước trong giai đoạn chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
+ Cơ sở lý luận:
Chiến tranh thế giới thứ nhất đã chuyển hóa chủ nghĩa tư bản độc quyền thành chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Sau cách mạng tháng Mười, Lênin chủ trương áp dụng
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vào nước Nga như là "sự chuẩn bị vật chất đầy đủ
nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà
giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì khơng có một nấc
thang nào ở giữa cả".
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi Mới, vận
hành theo các quy luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập
một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, có sự điều tiết
của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Những thay đổi này giúp Việt Nam
hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là
Việt Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho
một hệ thống xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
+ Vận dụng ý nghĩa vai trò kinh tế của nhà nước trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước đến Việt Nam – nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Đại hội XII của Đảng khẳng định, thị trường đóng vai trị chủ yếu trong việc huy động
và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức
sản xuất các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù

hợp với cơ chế thị trường; Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể
chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và minh bạch; sử dụng các


cơng cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh
tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Như vậy, rõ ràng, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước
Việt Nam cũng đóng vai trị kinh tế, cụ thể ở đây là “định hướng, xây dựng và hoàn thiện
thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và minh bạch; sử dụng
các cơng cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền
kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển”.
Chúng ta cùng phân tích về đại dịch Covid-19, để xem Nhà nước Việt Nam đã thể
hiện vai trò kinh tế của mình như thế nào.
Stephen Isaacs, chủ tịch uỷ ban đầu tư hãng tư vấn đầu tư Alvine Capital Management,
nhận định rằng đại dịch Covid-19 đã đẩy thế giới vào cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ
cuộc Đại khủng hoảng năm 1929.
Tại Philippines, nhà kinh tế học Holmes cho biết kinh tế Philippines sẽ “hầu như
không thể tăng trưởng” vào năm 2020, thậm chí mức tăng trưởng mà quốc gia ở phía bên
kia Biển Đơng chỉ phục hồi trong quý IV và đạt tăng trưởng khoảng 0,7% và vì thế nền
kinh tế có mức độ tăng trưởng đứng thứ 2 ASEAN sẽ “đứng im bất động” trong cả năm
nay.
Tại Singapore, tờ Bloomberg chỉ ra số liệu đau buồn về nền kinh tế của quốc gia phát
triển nhất Đông Nam Á này, trong quý đầu tiên, tổng sản phẩm trong nước của 8
Singapore đã giảm 10,6% so với 3 tháng trước đó và “vượt” qua con số mà Bloomberg
đưa ra là giảm 8,2%.
Trong điều kiện kinh tế quốc tế ảm đạm như vậy, lại là đất nước có mối quan hệ “sông
liền sông, núi liền núi” với Trung Quốc - quốc gia đầu tiên và đã từng dẫn đầu thiệt hại về
đại dịch Covid-19, bên cạnh đó, mối quan hệ với cả Hàn Quốc - từng là điểm đen dịch



bệnh đứng thứ hai toàn cầu, nhưng Việt Nam lại không chịu ảnh hưởng mạnh của dịch
bệnh như các dự báo. Trong quý I, kinh tế nước ta tăng trưởng 3,82%. Sang quý II, nền
kinh tế “lao dốc”, tốc độ tăng trưởng chỉ cịn 0,39% (do cách ly tồn xã hội). Khi dịch
Covid-19 tái bùng phát trong tháng 7, các chuyên gia kinh tế lo ngại tình hình kinh tế có
thể sẽ khó khăn hơn. Tuy nhiên, trong quý III, tăng trưởng GDP đạt 2,62%, đưa con số
tăng trưởng của 9 tháng lên 2,12%. Để đạt được những thành tích như vậy, ta phải công
nhận Nhà nước Việt Nam đã có những chỉ đạo, quyết định rất đúng đắn và kịp thời. Kết
luận số 77-KL/TW về chủ trương khắc phục tác động của đại dịch COVID19 để phục hồi
và phát triển nền kinh tế đất nước của Bộ chính trị đã đề ra định hướng như sau:
"Một là, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 có thể cịn kéo dài, kinh tế thế giới còn
tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định, khó lường, cần khai thác tối đa thị trường trong nước, đồng
thời phải phịng ngừa, ứng phó với các bất ổn từ bên ngoài, giữ vững ổn định kinh tế vĩ
mơ, kiểm sốt lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, sinh kế, việc làm, đời sống đối với người
lao động, người nghèo, người yếu thế. Phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020. Chủ động điều hành, điều chỉnh các chỉ tiêu
về ngân sách nhà nước, trong đó có thu ngân sách nhà nước, bội chi ngân sách nhà 9 nước
và nợ cơng cho phù hợp tình hình thực tiễn, góp phần phục hồi và phát triển kinh tế - xã
hội.
Hai là, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn, phù hợp với xu thế mới, có
khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế với những cơ chế, chính sách thu hút mạnh mẽ các
nguồn vốn đầu tư quốc tế và trong nước; hỗ trợ cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh, nhanh chóng tiếp cận các hình thức sản xuất kinh doanh mới, hiện đại, hiệu quả,
phù hợp để đủ sức tham gia ngay các chuỗi giá trị mới, mở rộng quan hệ đối tác gắn với
mở rộng thị trường khi cấu trúc kinh tế thế giới có sự thay đổi, điều chỉnh.
Ba là, xác định rõ các cơ hội và thách thức để đưa ra các giải pháp tận dụng, chuyển
hóa cơ hội và thách thức thành các động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy nhanh hơn quá
trình đổi mới, cơ cấu lại nền kinh tế. Khắc phục, tháo gỡ khó khăn về sản xuất kinh



doanh, chuẩn bị nguồn lực, xây dựng các chính sách đặc biệt, tận dụng cơ hội, nâng cao
năng lực nội tại và sức cạnh tranh, khả năng chống chịu và tính tự chủ của nền kinh tế."
Như vậy, rõ ràng ta có thể thấy được rằng, Nhà nước đã và đang thể hiện rất tốt vai trị
kinh tế của mình, đưa Việt Nam là quốc gia có điểm sáng nhất trong khu vực về phòng
chống Covid-19.

Vấn đề 2: Làm rõ những khuyết tật của kinh tế trị trường. Để hạn chế những
khuyết tật đó cần phải giải quyết các vấn đề gì. Vì sao?
- Tổng quan về nền kinh tế thị trường:
+ Khái niệm nền kinh tế thị trường:
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là nền
kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua
thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
+ Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế thị trường:
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử từ kinh tế tự nhiên, tự túc,
kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển thành kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường cũng phải trải qua quá trình phát triển ở các trình độ khác nhau từ kinh tế thị
trường sơ khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay. Quá trình hình hành và phát triển
của kinh tế thị trường là q trình mở rộng phân cơng lao động xã hội, phát triển khoa học
– công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất – kinh doanh. Sự phát triển
của nền kinh tế thị trường gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại,
của khoa học – kỹ thuật, của lực lượng sản suất.
- Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường;


Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm năng suất, chất
lượng và hiệu quả cao, dư thừa và phong phú hàng hóa. Dịch vụ được mở rộng và coi như
là hàng hóa. Thị trường năng động luôn luôn đổi mới mặt hàng, cơng nghệ. Song ngồi
những ưu điểm trên, nền kinh tế thị trường vẫn tồn tại một số khuyết tật sau :

+ Thứ nhất, xét trên phạm vi toàn vi nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường luôn
tiềm ẩn những khủng khoảng. Sự vận động của cơ chế thị trường không phải khi nào cũng
tạo ra được những cân đối, do đó, ln tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng. Khủng
hoảng có thể diễn ra cục bộ, có thể diễn ra trên phạm vi tổng thể. Khủng hoảng có thể xảy
ra đối với mọi loại hình thị trường, với mọi nền kinh tế thị trường. Sự khó khăn đối với
các nền kinh tế thị trường thể hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó dự báo chính xác thời điểm
xảy ra khủng hoảng. Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được những rủi ro tiềm
ẩn này do sự vận động tự phát của các quy luật kinh tế. Các chủ thể hoạt động cạnh tranh
không lành mạnh nên thường xuyên tạo ra sự mất cân đối, bất hợp lý ở tầm vĩ mô, làm
giảm hiệu quả trên quy mô nền kinh tế quốc dân.
+ Thứ hai, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài
nguyên không thể tái tạo, suy thối mơi trường tự nhiên, mơi trường xã hội. Do phần lớn
các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ln đặt mục tiêu tìm kiếm
lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài ngun, suy thối
mơi trường, gây ô nhiềm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội
khơng được đảm bảo. Cũng vì động cơ lợi nhuận, các chủ thể sản xuất kịnh doanh có thể
vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục tiêu làm giàu thậm chí phi pháp, góp
phần gây ra xói mịn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức xã hội. Như Mỹ và Trung
Quốc hai nước đang có nền cơng nghiệp rất giàu vào tiềm năng và đang vận hành một nền
cơng nghiệp khổng lồ, thì tại đây cũng là nơi thải ra lượng khí thải lớn nhất, bằng ½ lượng
khí thải trên tồn thế giới. Gây hiểm họa khơn cùng cho bầu khí quyển, cho trái đất và cho
cuộc sống của con người.


+ Thứ ba, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu
sắc trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu nhập, về
cơ hội là tất yếu. Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được khía cạnh
phân hóa có xu hướng sâu sắc. Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ
và loại hình hoạt động tham gia thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến
sự phân hóa như một tất yếu. Gia tăng khoảng cách giữa giàu và ngheo dẫn tới bất bình

đẳng trong xã hội. Người giàu sẽ sử dụng lợi thế của mình để trở nên giàu hơn. Trong khi
người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn. Sau một thời gian cạnh tranh, các nhà sản xuất nhỏ
lẻ sẽ bị các hãng sản xuất lớn mạnh thơn tính. Cuối cùng chỉ cịn lại một số ít các nhà sản
xuất lớn có tiềm lực mạnh. Họ sẽ thâu tóm phần lớn ngành kinh tế. Dần dần kinh tế thị
trường biến thành độc quyền chi phối.
+ Ngoài ra, xuất hiện độc quyền là 1 khuyết tật đặc trưng của kinh tế thị trường do
đặc điểm kinh tế kĩ thuật của một số ngành nên hình thành lên độc quyền tự nhiên. Sự độc
quyền bao giờ cũng gây thiệt hại cho người tiêu dùng và lợi ích xã hội, khi cạnh trạnh
khơng hồn hảo xảy ra thì hiệu lực của cơ chế thị trường sẽ giảm đi đáng kể. Chẳng hạn.
khi một nhà đôc quyền xuất hiện, họ có thể giảm số lượng sản phẩm bán ra, tăng giá trị để
thu về lợi nhuận cao. Độc quyền cũng không tạo được động lực phát triển khoa học kĩ
thuật do không chịu sức ép cạnh tranh. Bên cạnh đó là sự thiếu hụt các hàng hóa cơng
cộng. Chúng ta biết rằng hàng hóa cơng cộng là hàng hóa người này đã tiêu dùng mà
người kia vẫn tiêu dùng được như là: hàng hóa, dịch vụ, quốc phịng an ninh... Nhà nước
rất cần những hàng hóa công cộng nhằm đảm bảo cơ sợ hạ tầng, củng cố quốc phòng, an
ninh nhưng doanh nghiệp tư nhân lại ít hoặc không muốn đầu tư để cung ứng hàng hóa
đó.
- Các vấn đề cần giải quyết để hạn chế khuyết tật của kinh tế thị trường
Ngày nay, việc làm như nào để hạn chế khuyết tật của kinh tế thị trường đang được rất
nhiều các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm, trong đó có cả Việt Nam bởi hạn chế
những khuyết tật của kinh tế thị trường đồng nghĩa với việc hạn chế những rủi ro của nền


kinh tế quốc dân, đưa đất nước dần tiến tới trạng thái ổn định, cân bằng, phát triển nhanh
và bền vững đồng thời cải thiện, nâng cao chất lượng đời sống xã hội của nhân dân. Để
hạn chế các khuyết tật của nền kinh tế thị trường, ta cần thiết phải giải quyết những vấn
đề sau đây:
+ Thứ nhất, vấn đề phân hóa giàu nghèo:
Sự phân hóa giàu nghèo trên thực tế dẫn đến làm trầm trọng hơn những bất bình đẳng
xã hội. Đó là sự cách biệt giữa người giàu và người nghèo ngày càng rộng. Những người

giàu ngày càng có cơ hội phát triển do có những điều kiện về vốn và kỹ thuật… còn người
nghèo phải làm th và bị bóc lột. Họ rất ít có cơ hội tiếp cận và được đảm bảo những
điều kiện sống cơ bản, tối thiểu. Một mặt vì họ quá nghèo khơng đủ tài chính trang bị
vốn, tri thức, kĩ thuật… mặt khác trong cơ chế thị trường hoạt động dịch vụ cơ bản có xu
hướng phục vụ người giàu là chính. Ở nơng thơn người nghèo thường thiếu vốn làm ăn,
muốn có vốn họ phải thế chấp nhà cửa ruộng vườn nên khơng có khả năng đảm bảo tài
chính nếu thiên tai xảy ra, chính vì vậy họ khơng dám đầu tư nên khơng thốt khỏi tình
trạng nghèo thâm niên. Chính vì vậy trong xã hội sự bất bình đẳng ngày càng trầm trọng.  
Với nền kinh tế thị trường như hiện nay, thì phân phối khơng thể cơng bằng: Đối với một
số người giàu, giàu lên nhanh chóng nhờ một số hoạt động siêu lợi nhuận như kinh doanh
địa ốc, bất động sản, một số loại hình hoạt động thương mại… nhưng họ phải có vốn có
tri thức… tuy nhiên bên cạnh đó có một số người làm giàu bất hợp pháp (buôn lậu, trốn
thuế, tham nhũng…) Đặc biệt là tình trạng tham nhũng, quan liêu và các tệ nạn xã hội làm
ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị -xã hội và không tạo động lực cho sự phát triển kinh tế
– xã hội. Ảnh hưởng của phân hóa giàu nghèo cịn lệch lạc các định hướng giá trị và
chuẩn mực đạo đức, lối sống của xã hội nhất là đối với thế hệ trẻ. Giải quyết vấn đề phân
hóa giàu nghèo là một chiến lược dài hạn và khó khăn, cái cần thiết là các sách lược ngắn
hạn phù hợp với tình hình và điều kiện của từng vùng, từng địa phương và cũng cần cái
tâm từ lãnh đạo đến cộng đồng xã hội.


+ Thứ hai, xây dựng nền kinh tế thị trường hoàn thiện, quyết tâm cải cách trong
đường lối và cả thực hiện:
Với mọi quốc gia, nền kinh tế hoàn thiện và toàn vẹn bao giờ cũng là động lực to lớn
để phát triển đất nước. Những chính sách mà nhà nước đưa ra cần cơng bằng, tồn diện,
đặc biệt những chính sách đó cần đi theo hướng cải cách doanh nghiêp, quản lí chức năng
kinh tế nhưng khơng can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất và kinh doanh của các nhà
máy, xí nghiệp. Như vậy sẽ ngăn chặn tối đa sự xuất hiện của các nhà độc quyền, thúc đẩy
cạnh tranh lành mạnh, giúp khoa học kĩ thuật phát triển. Đồng thời nhà nước cũng cần có
các chính sách cải cách tài chính, tiền tệ, thuế, ngoại thương, đầu tư, giá cả, các chính

sách về xã hội và việc làm. Các chính sách này cần được xem xét kĩ lưỡng, thực hiện một
cách toàn diện để hạn chế tối đa, cũng là đề phòng trước nguy cơ xảy ra khủng hoảng
kinh tế.
Chẳng hạn như giai đoạn từ đầu năm 2020 đến nay, dịch bệnh Covid-19 đã lan rộng
trên toàn thế giới, dịch bệnh đã gây ra những ảnh hưởng nặng nề trên mọi mặt đời sống xã
hội, y tế và cả nền kinh tế của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Quả thật, cho đến nay, các
triệu chứng của khủng hoảng kinh tế đang ngày một rõ nét: giá cổ phiếu đang trồi sụt trên
thị trường chứng khoán thế giới, giá vàng tăng cao, các mối ràng buộc kinh tế quốc tế
đang bị phá vỡ, bao gồm cả ngành cơng nghiệp tự động hóa tồn cầu, các hội chợ thương
mại quốc tế bị hủy bỏ và ngành cơng nghiệp du lịch đang bị suy thối. Theo Ngân hàng
đầu tư Mỹ JPMorgan Chase, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu đã giảm 15,6%
trong 6 tháng đầu năm 2020, lớn gấp 4 lần so với năm 2008. Mặc dù suy giảm đã được
phục hồi, nhưng IMF dự báo sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới sẽ giảm khoảng 4,9%
trong năm 2020, kể cả khi các chính phủ bắt đầu đưa ra các chương trình hỗ trợ. GDP ở
khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) và Anh được dự báo giảm khoảng 10,2%
trong năm 2020, trong khi nền kinh tế Mỹ giảm khoảng 8%. Theo nhiều nhà quan sát, cú
sốc mang tên corona virus sẽ khiến thế giới thay đổi sâu sắc, trong đó các quá trình vỡ
vụn của các nền kinh tế sẽ diễn ra trong nhiều năm. Việc Nhà nước cần làm hiện giờ đó
chính là vừa bảo vệ an tồn cho người dân trước dịch bệnh vừa phải đảm bảo các vấn đề


về kinh tế, văn hóa, xã hội và giáo dục được giải quyết ổn thỏa và hạn chế rủi ro hết mức
có thể. Xây dựng nền kinh tế thị trường hoàn thiện, quyết tâm cải cách trong đường lối và
cả thực hiện cịn hạn chế được sự cạnh tranh khơng lành mạnh giữa các doanh nghiêp,
giải quyết được các vấn đề liên quan đến nạn thất nghiệp,….. giúp cải thiện đời sống của
nhân dân.
+ Thứ ba, chế độ phân phối và các vấn đề về môi trường:
Quan hệ phân phối cần được nhận thức từ 2 góc độ: Thứ nhất, phân phối bảo đảm tiền
đề kinh tế - kỹ thuật để khuyến khích làm giàu theo pháp luật đối với mọi chủ thể tham
gia thị trường. Những cá nhân, cộng đồng, tập thể, doanh nghiệp có đủ năng lực và nguồn

lực hợp pháp được phép làm giàu hợp pháp để tối ưu hóa lợi ích cá nhân. Đó chính là
động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Thứ hai, phân phối bảo đảm sự cơng bằng có thể cho
những nhóm người dễ bị tổn thương hay yếu thế trong xã hội dưới tác động của các quá
trình phát triển. Đối với các đối tượng này, sự quan tâm của nhiều bên liên quan, nhất là
của Nhà nước là vô cùng cần thiết. “Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn
chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”.Phải
căn cứ vào yếu tố sản xuất và yếu tố cống hiến để định ra hình thức phân phối cho phù
hợp. Các chính sách về thuế quan, pháp luật cũng cần được làm rõ ràng, siết chặt các khâu
kiểm tra và giám sát. Bởi trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp ln đặt mục tiêu
tìm kiếm lợi nhuận tối đa tạo ra các tác động xấu đến môi trường và cuộc sống của con
người. Trong dài hạn, khi môi trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng sẽ không chỉ gây mất
mỹ quan, ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân mà còn khiến cho nền kinh tế chung
của đất nươc bị đình trệ do phải theo sau giải quyết các hậu quả về môi trường do doanh
nghiệp gây ra. Tự nền kinh tế thị trường không thể khắc phục được các khuyết tật này mà
phải cần đến sự can thiệp của nhà nước để giải quyết.
Vấn đề phát triển công nghiệp và dịch vụ của nền kinh tế toàn cầu đang tác động xấu
đến mơi trường tồn cầu trong đó có Việt Nam. Theo thống kê, 10 năm đầu của thế kỷ
XXI đánh dấu sự gia tăng nhiệt độ lớn với sức nóng kỷ lục của Trái đất. Nhiệt độ trung


bình tồn cầu tính trên mặt đất và mặt biển đã tăng khoảng 0,74 độ C trong thế kỷ qua.
Tại Việt Nam nhiệt độc trung bình tăng khoảng 0.1 độ C và mực nước biển dâng từ 2,5-5
cm trong võng mỗi thập kỉ qua. Sự thay đổi chế độ mưa với lượng mưa tăng vào mùa hạ
giảm vào mùa khô gây ra lũ lụt và hạn hán thường xuyên hơn. Một số vùng miền Trung
có mực nước vượt qua lịch sử năm 1979, 1999, xác lập kỷ lục mới về thiên tai bão lụt.
Đợt lũ thứ ba từ ngày 25 tháng 10, với hai cơn bão đổ bộ, đặc biệt cuồng phong nghiêm
trọng của bão Molave ngày 28, 29 gây tổn thất vô cùng lớn. Tiếp nối là đợt lũ thứ tư từ
ngày 06 tháng 11, gây biến động toàn miền Trung, đặc biệt chuyển vị trí về phía Nam
Trung Bộ. Lũ lụt miền Trung 2020 được xem là một đợt lũ lụt lịch sử mới, được đặt mức
báo động IV, thuộc về cấp bậc thiên tai nguy hiểm, rủi ro rất lớn của Việt Nam, ảnh hưởng

sâu rộng và tác động gây tổn thất, thiệt hại toàn khu vực, phá hủy, trì hỗn và đẩy ngược
nền kinh tế – xã hội của miền Trung Việt Nam.
+ Thứ tư, phát triển kinh tế phải đi liền với phát triển chính trị, văn hóa, xã hội:
Nhìn một cách tổng qt, phát triển kinh tế chính là tạo tiền đề vật chất cho sự phát
triển văn hóa và con người, tạo điều kiện để con người có thể tham gia vào quá trình sáng
tạo, sản xuất, truyền bá và thụ hưởng các giá trị văn hóa ngày càng nhiều. Tuy nhiên, phát
triển kinh tế bền vững, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế bền vững với bảo
đảm các vấn đề xã hội và mơi trường, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của con
người là mục tiêu hàng đầu. Mặt khác, văn hóa phát triển sẽ góp phần xây dựng và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực lao động, tạo lập mơi trường văn hóa tinh thần lành mạnh,
nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học công nghệ, nâng cao kỷ cương, kỷ luật và đạo
đức nghề nghiệp, góp phần làm động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Vấn đề đạo
đức con người từ đó cũng được nâng cao và chính những điều trên sẽ tạo nên một nền
kinh tế vững mạnh, đồng thời hạn chế những vấn đề xấu còn tồn tại trong xã hội. Do đó,
phát triển kinh tế khơng thể tách dời phát triền chính trị, văn hóa và xã hội.
+ Thứ năm, thị trường và các vẫn đề xoay quanh thị trường:


Các loại hình kinh tế khác nhau ln cần có động lực phát triển, chúng cần phát huy
ưu thế cả mình và đồng thời cùng cần thúc đẩy lẫn nhau để phát triển trong nền kinh tế thị
trường. Cần phát triển đồng bộ và quản lí có hiệu quả các loại thị trường theo cơ chế cạnh
tranh lành mạnh: phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ, phát triển vững chắc thị
trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ có cơ
cấu hoàn thiện; phát triển thị trường lao động trên mọi khu vực kinh tế cùng với đó là thị
trường bất động sản và thị trường công nghệ... điểu này sẽ đảm bảo cho việc phân bố và
sử dụng các yếu tố đầu, đầu ra của quá trình sản xuất phù hợp với nhu cầu của sự phát
triển kinh tế thị trường.
+ Thứ sáu, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu trong thời đại ngày nay, sự ra đời và phát
triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các thị trường quốc gia, hình thành thị

trường khu vực và quốc tế thống nhất. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để các quốc gia
giải quyết các vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều, tận dụng các thành
tựu của cách mạng cơng nghiệp, biến nó thành động lực cho sự phát triển. Quá trình hội
nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế
khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội. Mở của hội nhập còn giúp
các nước giao lưu văn hóa, tạo nên nền văn hóa phong phú nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân
tộc, cải thiển đời sống tinh thần của nhân dân, rút ngắn khoảng cách giữa các quốc gia.
Đối với Việt Nam, HNKTQT tác động mạnh đến tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát
triển KT-XH. GDP bình quân đầu người tăng từ 2.109 USD (năm 2015) lên 2.587 USD
(năm 2018), khoảng 7.650 USD theo sức mua tương đương. Đặc biệt, sau khi gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm
2007, tăng trưởng GDP đạt 8,46% (mức cao nhất trong vòng 11 năm trước đó). Hiện nay,
có gần 26.000 doanh nghiệp (DN) FDI đang hoạt động ở Việt Nam, với số vốn cam kết
đầu tư trên 330 tỷ USD đến từ gần 130 quốc gia và đối tác. Vốn FDI vào Việt Nam chiếm


25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Các đối tác đã cam kết viện trợ hơn 3 tỷ USD cho Việt
Nam trong giai đoạn 2018-2020.
Tựu chung lại, Nhà nước cần có thái độ quyết liệt với những mặt hạn chế của kinh tế
thị trường, Đảng, lực lượng lãnh đạo cần tiên phong, gương mẫu, trong sạch; thúc đẩy
môi trường kinh doanh an toàn và thuận lợi, phát huy sức mạnh cộng đồng, giảm thiểu tối
đa phân hóa giàu nghèo, cải tiến chính sách lưu thơng, phân phối; thực hiện cơng bằng,
bình đẳng xã hội và điểu tiết các quan hệ xã hội; giữ vững mơi trường chính trị - xã hội,
an ninh trật tự tốt; mở rộng giao lưu hội nhập kinh tế quốc tế... Cuối cùng cần có sự hài
hịa giữa chính trị và kinh tế thị trường, giữa kế hoạch và thị trường, giữa tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội.

TƯ LIỆU THAM KHẢO
(1) V.I. Lênin. Tồn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2005, t.27, tr.402
(2) Bill Porter (2012). What America looked like during the Great Depression, HBS

News.
(3) Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019). Lịch sử 11, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
(4) Steven Mintz (2004). Digital History, digitalhistory.uh.edu.
(5) Báo cáo kết quả khảo sát tại Mỹ của Đề tài: “Mối quan hệ giữa nhà nước và thị
trường trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thực trạng,
vấn đề và định hướng chính sách”; Mã số: KX.04.12/16-20.
(6) Báo cáo Cập nhật tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB)
(7) Nguyễn Phú Trọng, Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
(3/2/1930-3/2/2020), 03/02/2020, Hà Nội.


(8) Nhật Minh. (2020). Kinh tế thế giới trước dịch bệnh covid-19. tạp trí cộng sản.



×