TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA DU LỊCH HỌC
_______________
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
NHẬP MÔN DU LỊCH
Giảng viên:
Sinh viên:
Hà Nội, tháng 12 năm 2021
1
CÁC ĐẶC ĐIẺM CỦA ẨM THỰC VIỆT NAM VÀ TÍNH ĐẶC
TRƯNG VÙNG MIỀN CỦA ẨM THỰC VIỆT
TĨM TẮT
Tiểu luận có 4 phần, tập trung phân tích về những tính chất đặc trưng của ẩm thực Việt Nam cũng
như giới thiệu về sự khác nhau của ẩm thực các vùng miền. Phần thứ nhất là giới thiệu khái quát
về những đặc điểm nổi bật của ẩm thực Việt Nam nói chung so với các nền ẩm thực khác trên thế
giới, cũng như khẳng định những giá trị của ẩm thực Việt Nam trên trường quốc tế. Phần thứ hai
bao gồm những kiến thức về đặc trưng của ẩm thực miền Bắc, khơng chỉ trong bữa ăn hàng ngày
mà cịn cả trong những dịp đặc biệt như ngày lễ, ngày Tết, các dịp trọng đại,...Ngoài ra, bài viết
cũng dành một phần để nói về văn hóa quà sáng đặc trưng của miền Bắc. Phần tiếp theo, người
viết sẽ giới thiệu về văn hóa ẩm thực của miền Trung qua hai nền ẩm thực tiêu biểu là ẩm thực
Huế và ẩm thực Hội An. Ở phần cuối cùng, bài viết sẽ giới thiệu về nền ẩm thực có thể nói là non
trẻ nhất nước ta: văn hóa ẩm thực khu vực miền Nam.
Từ khóa: Ẩm thực Việt Nam, Vùng miền, Đa dạng, độc đáo, phong phú, văn hóa, truyền
thống.
I.
MỞ ĐẦU
Từ cổ chí kim, đời sống xã hội của loài người đã gắn với đồ ăn. Về mặt sinh học,
việc ăn uống là một bản năng sinh tồn của giống loài Homo Sapien để có thể cung cấp
năng lượng cho cơ thể sống. Theo lý thuyết về những bậc thang nhu cầu của Maslow, ăn
uống cũng là một trong số những nhu cầu sinh học cơ bản mà bâtf kì cá thể người nào cần
đáp ứng trước khi nghĩ đến những nhu cầu ở bậc cao hơn. Trải qua hàng ngàn năm tiến
hóa và phát triển, con người, vốn là một loài động vật xã hội, đã nâng tầm cái bản năng
“ăn để sống” đó thành một bộ mơn nghệ thuật, thành một cơng cụ cho các nhu cầu xã hội
và khẳng định bản thân và cao hơn nữa là một phần của bản sắc văn hóa truyển thống,
một đặc trưng của tộc người mình thuộc về. Có thể nói, ẩm thực là một trong những tinh
hoa của bất kì nền văn hóa , mà từ đó chúng ta có thể nhìn thấy được những khía cạnh
khác trong đời sống văn hóa của cư dân nền văn hóa đó. Việc ăn uống – vốn là cái gần gũi
với mỗi con người hàng ngày – hiển nhiên là cách lưu giữ bền chắc và lâu dài nhất những
gì thuộc về bản sắc riêng của ơng cha chúng ta để lại. Theo lẽ thường, chúng ta có thể bỏ
bộ quần áo này thay bằng y phục khác, hay chuyển đến căn nhà mới to đẹp, rộng rãi hơn,
nhưng hiếm thấy một người có thể thay đổi được khẩu vị ăn uống quen thuộc của mình.
Có nhiều trường hợp chứng kiến những người Việt xa xứ vẫn cố gắng tái tạo lại hương vị
quê hương nơi đất khách quê người, cũng như trong cộng đồng du học sinh Việt Nam thì
một trong những yếu tố dễ gây căng thẳng, trầm cảm nhất khi học tập và làm việc xa nhà
lại đến từ việc không hợp khẩu vị ăn uống. Việt Nam chúng ta vốn là một quốc gia có lịch
sử phát triển lâu địi cũng như có sự tách biệt về vùng miền, khi mà mỗi miền Bắc –
Trung – Nam lại có những sự khác biệt nhất định trong đời sống văn hóa hịa với cái bản
2
II.
sắc chung của cả dân tộc. Ẩm thực là một trong những yếu tố khác biệt đó, và bài tiểu
luận này mong muốn mang đến cái nhìn tổng quan cho người đọc về ẩm thực các vùng
miền ở Việt Nam, khơng chỉ nhằm mục đích cung cấp kiến thức mà còn giúp chúng ta
thêm yêu, thêm mến sự đa dạng, phong phú của kho tàng văn hóa ẩm thực của quê hương,
đất nước.
CÁC ĐẶC ĐIỂM VỀ ẨM THỰC VIỆT NAM
Việt Nam là một quốc gia rất đặc biệt, với lịch sử phát triển lâu đời và những đặc
điểm tự nhiên về vị trí địa lý và mơi trường, khí hậu; cũng như các quan niệm về tơn giáo,
tín ngưỡng đa dạng, tất cả những yếu tố ấy đã có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa ẩm thực
của nước ta, tạo nên một nền ẩm thực cực kì phong phú, đa dạng. Bên cạnh lối ẩm thực
cầu kì nặng tính lễ nghi thì cịn có lối ẩm thực rất bình dân, giản dị, đơn giản. Nói đơn
giản nhưng khơng có nghĩa là khơng có giá trị, kém hấp dẫn và ít ngon, ít bổ dưỡng; đơi
khi những món ăn đơn giản được bày bán ở vỉa hè lại hấp dẫn và đơng khách hơn những
món ăn nơi nhà hàng sang trọng. Chẳng thế mà trong show truyền hình ăn khách năm
2010 Gordon’s Great Escape, bếp trưởng nổi tiếng người Anh Gordon Ramsay, người sở
hữu hàng loạt nhà hàng danh tiếng trên toàn thế giới đã phải thốt lên đầy cay đắng khi thử
tự làm món bánh cuốn đường phố ở Việt Nam: “Thanks God I didn’t grow up in Vietnam,
or I would be useless as a chef” (Tạm dịch: Tạ ơn Chúa tôi không lớn lên ở Việt Nam,
bằng không tơi sẽ chỉ là một đầu bếp tồi). Có thể thấy ẩm thực của đất nước chúng ta có
sự phong phú và đa dạng tới mức có thể làm khó được cả những đầu bếp giỏi nhất trên
toàn thế giới.
Theo ý kiến của Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã, ẩm thực Việt Nam có 9 đặc trưng như sau:
2.1 Tính hồ đồng hay đa dạng
Tính hịa đồng, đa dạng có thể được hiểu là việc dễ dàng tiếp thu văn hóa và đặc
trưng ẩm thực của nước khác và biến nó thành của mình. Đây là một đặc điểm nổi bật
trong ẩm thực của nước ta ở tất cả các vùng miền từ Bắc chí Nam. Là một nước nằm trọn
trong vùng nội chí tuyến Bắc và đồng thời có lãnh thổ trải dài theo hướng Bắc – Nam
cạnh biển Đơng, các vùng miền ở Việt Nam có những đặc điểm rất khác nhau về khí hậu.
Ở miền Bắc chịu ảnh hưởng một phần từ đới khí hậu lục địa khô, lạnh từ đất liền Trung
Quốc thổi vào, tạo nên 4 mùa rõ rệt Xuân – Hạ - Thu – Đơng. Tuy vậy, khí hậu chủ yếu
vẫn là nhiệt đới ẩm gió mùa do có sự điều hịa từ biển Đông , khiến cho hệ động thực vật
ở đây phát triển rất tươi tốt vào các mùa ẩm như Xuân và Hạ. Miền Nam với đặc điểm
khá gần với đường xích đạo lại có 2 mùa khơ và mùa mưa khá rạch rịi, cịn Miền Trung
thì chịu ảnh hưởng lớn từ địa hình bên núi bên biển nên cũng có khí hậu ấm áp và ẩm
quanh năm. Ngồi ra, với hơn 3000 km đường bờ biển nhưng cũng đồng thời có đến ¾
diện tích là đồi núi, hàng trăm con sông lớn nhỏ đan xen chằng chịt cũng là một yếu tố
làm nên sự đa dạng về sản vật và ngun liệu của ẩm thực Việt. Cịn ở khía cạnh lịch sử,
khởi nguồn là một quốc gia nhỏ tạo thành từ một bộ lạc ở vùng núi Bắc Bộ, trải qua suốt
chiều dài lịch sử tồn tại và phát triển, nhiều lần bị đô hộ bởi các triều đại phong kiến
phương Bắc đã để lại một dấu ấn không nhỏ của ẩm thực Trung Hoa trong các món ăn
3
của chúng ta. Khơng chỉ có vậy, vốn là một quốc gia có vị trí địa lý chiến lược cho việc
phát triển giao thương, hàng năm buôn bán, trao đổi với các quốc gia láng giềng Đông
Nam Á đã mang đến Việt Nam nhiều loại gia vị hay sản vật mới. Thêm vào đó, trong các
cuộc Nam tiến của các triều đại xưa, đặc biệt là phong trào khai hoang, mang gươm đi mở
cõi dưới thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã dẫn đến việc văn hóa của người Việt
chúng ta hòa vào những tộc người Chămpa ở miền Trung hay người Khmer ở phía Nam,
trong đó việc tiếp nhận những đặc điểm về ẩm thực là điều tất yếu. Cuối cùng, chính
người Pháp trong thời kì thuộc địa hóa nước ta đã để lại rất nhiều dấu ấn trong nền ẩm
thực Việt, với nhiều món ăn đã biến đổi và vươn tầm thế giới trong thời hiện đại như phở,
bánh mì,cà phê,....
2.2 Tính ít mỡ
Theo kiến giải của Ngô Đức Thịnh, người Việt truyền thống là người nông dân làm
ruộng trồng lúa, rau màu, đánh bắt tôm cá ở ven sơng hồ, ven biển, các gia đình người
Việt có chăn ni gia súc nhưng khơng nhiều mà chủ yếu phục vụ cho các dịp lễ Tết, hội
hè, lễ nghi. Điều này giải thích vì sao người Việt có khẩu phần ăn giàu các loại thực vật,
đồ ăn Việt Nam không thường được chế biến theo kiểu chiên ngập dầu hoặc mỡ động vật
như ở Trung Quốc hay sử dụng nhiều các sản phẩm từ sữa như bơ, phô mai như các nước
phương Tây. Cho dù trong thời đại hiện nay thì tỉ lệ thịt trong bữa cơm đã tăng lên đáng
kể, nhưng người Việt Nam nhìn chung vẫn chịu ảnh hưởng của văn hóa truyền thống và
tiêu thụ lượng thịt trong bữa ăn ít hơn, nhất là so với các quốc gia phương Tây. Trong
mâm cơm của người Việt cũng ít có những món dùng một khẩu phần lớn thịt cho một
người ăn như món bị bít tết của các nền văn hóa Âu- Mỹ mà thường là sự kết hợp hài hịa
hơn.
2.3 Tính đậm đà hương vị
Một đặc điểm nổi bật của các đầu bếp người Việt là việc sử dụng nước mắm để
nêm nếm, chế biến các món ăn. Khơng chỉ vậy, các gia vị khác như muối, tiêu, đường,
giấm, gừng, tỏi, hành, hồi, quế, thảo quả, nghệ,... cũng được sử dụng rất nhiều, không chỉ
trong những bữa ăn cầu kỳ mà còn cả ở trong các món ăn hàng ngày của người dân Việt
Nam. Mỗi món ăn lại có những loại nước chấm hay gia vị đi kèm tương ứng, chưa kể đến
với cùng một món ăn nhưng ở các vùng khác nhau, do thổ nhưỡng, khí hậu khác nhau lại
có các cách nêm nếm, tẩm ướp và pha chế gia vị và đồ ăn kèm theo khác nhau. Trong khi
món ăn của người Pháp nổi tiếng với nguyên tắc giữ trọn hương vị tươi ngon của nguyên
liệu bằng việc nêm nếm hầu như dựa trên ba loại gia vị cơ bản là muối – tiêu – đường, thì
gia vị Việt Nam lại đậm đà và phong phú hơn nhiều. Miếng bít tết của người Pháp có thể
rất hấp dẫn nhờ cái ngọt nhè nhẹ của thịt bò tái, nhưng cũng “kẻ tám lạng, người nửa cân”
khi so với bò lá lốt mỡ chài hay bún bị Huế đậm đà của người Việt.
2.4 Tính tổng hồ nhiều chất, nhiều vị.
Đặc điểm này cũng có những điểm gần tương tự với đặc điểm ở trên. Như đã trình
bày, với việc có đa dạng về thổ nhưỡng, khí hậu tất dẫn đến sự phong phú về sản vật thì
4
bữa ăn Việt cũng sử dụng một lượng lớn các loại thực phẩm. Ngồi tinh bột thì trong bữa
cơm người Việt cũng thường có một món rau, một món mặn, một món xào và canh. Tinh
bột thường là cơm tẻ nhưng cũng có thể sử dụng các loại lương thực khác như khoai,
sẵn, gạo nếp,..... Món mặn có thể là thịt gia cầm hoặc gia súc, thậm chí là cả các loại
thủy hải sản,... đơn giản nhất có thể là mắm muối, các loại dưa, cà,....Món xào thì thường
là sự kết hợp của rau củ và chất đạm từ động vật. Cuối cùng, đa dạng nhất có lẽ là các
loại rau theo mùa được chế biến nhiều kiểu khác nhau. Những món ăn này tự bản thân
nó cũng đã có nhiều loại hương vị đậm đà như đã nêu ở tính chất trên. Phối hợp nhiều
loại đạm, chất xơ và đặc biệt là gia vị, món ăn Việt Nam trở nên hài hòa và tạo cảm giác
ngon miệng lạ thường cho những thực khách từ các quốc gia khác. Đồ ăn Việt Nam thường
được người phương Tây miêu tả là có gia vị hết sức “bùng nổ” dù chỉ có vẻ ngồi rất đỗi
tầm thường giản dị. Đó cũng là cách mà một món ăn dân dã như hủ tiếu đã làm khó được
những đầu bếp giỏi nhất nước Mĩ, khi được đưa ra làm đề bài trong một tập của cuộc thi
Vua đầu bếp: các thí sinh sẽ được thưởng thức một tô hủ tiếu Việt và nhiệm vụ của họ là
cần phải tái tạo lại hương vị của nó. Món ăn này đã làm rất nhiều thí sinh phải vị đầu bứt
tai vì sự phức tạp của nó, một minh chứng rõ ràng hơn cho tính chất nhiều vị này của đồ ăn
Việt.
2.5 Tính ngon và lành
Một trong điểm đặc biệt trong ẩm thực Việt Nam là sự áp dụng các quan niệm về
ngũ hành và âm dương trong nấu nướng. Triết lý này của ẩm thực Việt đến từ tư tưởng
truyền thống âm dương cân bằng, với dương là tươi sáng, cứng rắn, chủ động, còn âm đại
diện cho cái tối tăm, mềm mại, thụ động. Triết lý này cho rằng mọi sự trên đời đều cần có
2 yếu tố nói trên, chúng hịa quyện với nhau làm nên bản chất tồn tại của vạn vật. Chính
vì vậy, những giá trị triết học sâu sắc với âm dương phối triển và ngũ hành tương sinh –
hai nguyên tắc kết hợp trong nấu nướng, luôn được chú trọng trong mâm cơm truyền
thống nhằm đạt đến vẻ đẹp hài hòa theo đúng tiêu chuẩn mỹ học của người Việt. Cụ thể
hơn , một món ăn phải chứa đựng cả hai trạng thái âm dương cho cân bằng. Nếu một món
có ngun liệu chính có tính lạnh (âm) như trứng vịt lộn thì nó cần phải đi cùng với rau
thơm có tính nóng (dương) như rau răm; món thịt vịt mang tính lạnh (âm) phải có gừng
mang tính nóng (dương) mới ngon. Thậm chí, quy luật âm dương này cịn quy chiếu cả
đến thể trạng và sức khỏe của người ăn: Một người bị cảm lạnh thường sẽ được khuyên
hạn chế ăn các loại rau củ có tính hàn như dưa chuột và sẽ hay ăn các thực phẩm “ấm”
như gừng để nhanh khỏi bệnh.. Đi sâu một chút nữa vào nguyên tắc phối triển nguyên liệu
và phương thức nấu nướng của người Việt, ta sẽ bất ngờ khi biết đến luật tương sinh Ngũ
hành được quy định khá nghiêm ngặt trong nấu ăn. Ngũ hành sinh ra từ Âm Dương, đại
diện cho 5 trạng thái luân phiên thay đổi của vũ trụ: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ.
Từng cặp yếu tố trong Ngũ hành nếu kết hợp đúng sẽ tương sinh – hỗ trợ và nâng đỡ lẫn
nhau, trái lại sẽ gây ra tương khắc – triệt tiêu lẫn nhau. Trong nấu ăn, người Việt rất chú
trọng đến việc lựa chọn từng cặp nguyên liệu và gia vị thích hợp sao cho đạt đến trạng
thái Ngũ hành tương sinh, đưa hương vị và tác dụng bổ dưỡng của món ăn đến giá trị cao
nhất của nó.
5
2.6 Dùng đũa
Cũng như một vài các nước Châu Á khác (chủ yếu là sự ảnh hưởng từ các nước
đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản), người Việt Nam sử dụng đũa
thường xuyên trong ăn uống và nấu nướng. Theo ý kiến của tác giả Ngô Đức Thịnh
trong cuốn “Khám phá ẩm thực truyền thống Việt Nam”, đôi đũa có thể coi là một đặc
trưng của cư dân có thói quen ăn cơm tẻ, do đặc trưng phù hợp với việc ăn nhiều món
có nước, món xào, món nấu. Đây là một đặc điểm phân biệt với các dân tộc ăn lương
thực chính là đồ nếp như người Thái, Lào. Đôi đũa được sử dụng trong hầu hết các
món ăn, từ kho, xào, chiên, hay thậm chí là cả với món canh. Đơi đũa Việt có mặt
trong mọi bữa cơm gia đình, ngay cả khi ăn các món quay nướng, vốn là một nét
đặc trưng của văn hóa phương Tây, người Việt cũng ít dùng nĩa để xiên thức ăn như
người phương Tây. Kèm với đó thì gắp là một nghệ thuật, gắp sao cho khéo, cho
chặt đừng để rơi thức ăn…là một trong những điều đầu tiên phải học trên mâm cơm
Việt.
2.7 Tính cộng đồng hay tính tập thể.
Tính cộng đồng được thể hiện rất rõ trong ẩm thực Việt Nam, bao giờ trong bữa
cơm cũng có bát nước mắm chấm chung, hoặc múc riêng ra từng bát nhỏ từ bát chung
ấy. Không chỉ thế, tất cả các món ăn thường được đựng trong những bát đĩa chung, ai
muốn ăn bao nhiêu thì gắp bấy nhiêu, cả gia đình sum họp bên mâm cơm và cùng chia
sẻ những miếng ăn với nhau, đó cũng là sự thể hiện của tính gắn kết trong bữa cơm của
người Việt.
2.8 Tính hiếu khách.
Trước mỗi bữa ăn người Việt thường có thói quen mời. Lời mời thể hiện sự giao
thiệp, tình cảm, hiếu khách, mối quan tâm trân trọng người khác…Ngoài ra bữa cơm
cũng là một cách để thể hiện lòng hiếu khách của gia chủ, cũng như phần nào là cách
để gia chủ thể hiện điều kiện của mình.
2.9 Tính dọn thành mâm.
Người Việt có thói quen dọn sẵn thành mâm, dọn nhiều món ăn trong một bữa
lên cùng một lúc chứ khơng như phương Tây ăn món nào mới mang món đó ra. Tính
chất này đảm bảo cho tính cộng đồng khi tránh tình trạng người nào mạnh ai nấy ăn,
tăng tính gắn kết tình cảm cho gia đình. Tuy vậy, trong cuộc sống hiện đại ngày nay thì
dần dần tính chất này cũng thường xuyên được bỏ qua để nhường chỗ cho sự tiện lợi và
thoải mái, linh động về thời gian dùng bữa, phù hợp với nhịp sống hối hả hơn của thời
đại. Mâm cũng là cách để thể hiện thứ bậc trong các dịp lễ Tết, hội hè khi những người
có địa vị, có tiếng nói sẽ được ngồi một mâm, còn những thanh niên trai tráng hay phụ
nữ cũng phải chia ra ngồi theo mâm.
III.
ĐẶC ĐIỂM CỦA ẨM THỰC MIỀN BẮC
6
Thường khi nói về ẩm thực miền Bắc, chúng ta có thể hiểu là đang nhắc đến
phần đồng bằng châu thổ Bắc Bộ và khu vực Thanh Nghệ Tĩnh. So với các vùng miền
khác trên cả nước, như đã trình bày ở trên thì miền Bắc bị ảnh hưởng khá rõ rệt bởi
chế độ gió mùa và ảnh hưởng của 2 đới khí hậu, khiến cho nguồn lương thực thực
phẩm, các kỹ thuật chế biến món ăn cũng như khẩu vị của người ăn có sự thay đổi để
đáp ứng những điều kiện này. Một điểm cần lưu ý nữa của ẩm thực miền Bắc là có sự
phân hóa khá rõ rệt giữa các mùa với nhau, khiến cho cùng một món ăn ở mùa khác
nhau cũng có cách chế biến khác biệt đi. Vào mùa hè người ta ưu tiên các món có vị
chua, thức ăn luộc, nhiều các loại rau và ít thịt cá để giải nhiệt. Ngược lại, vào mùa
đơng thì các món xào nấu, ninh hầm nhiều dầu mỡ lại được yêu thích, cũng như các
gia vị có tính nhiệt như ớt hay gừng cũng được sử dụng thường xuyên hơn.
Với dân tộc Việt thì đây là khu vực có lịch sử lâu đời hơn cả, chính vì vậy nơi
đây cũng là cái nơi của ẩm thực Việt và là nền tảng để cho ẩm thực các vùng miền
khác có sự phát triển lên đến đỉnh cao.
Trong khu vực miền Bắc lại có thể chia ra làm phong cách ẩm thực ở vùng
Trung du miền núi Bắc Bộ, ở vùng ven biển Thanh Nghệ Tĩnh và vùng Đồng bằng
Bắc Bộ mà đỉnh cao là ẩm thực xứ kinh kì Hà Nội. Tuy có một số sự khác biệt như
vậy, nhưng nhìn chung ẩm thực miền Bắc thường không đậm các vị cay, béo, ngọt
nhiều bằng các vùng khác. Người ở đây sử dụng nhiều món rau và các loại thủy sản
nước ngọt dễ kiếm như tôm, cua, cá, trai, hến v.v. và nhìn chung, do truyền thống xa xưa
có nền nơng nghiệp nghèo nàn, tự cung tự cấp, ẩm thực miền Bắc trước kia ít thịnh hành
các món ăn với ngun liệu chính là thịt, cá. Nhiều người đánh giá cao Ẩm thực Hà
Nội một thời, cho rằng nó đại diện tiêu biểu nhất của tinh hoa ẩm thực miền Bắc Việt
Nam với những món phở, bún thang, bún chả, bánh cuốn Thanh Trì v.v. và gia vị đặc sắc
như tinh dầu cà cuống, rau húng Láng
3.1 Bữa cơm ngày thường
Trong bữa cơm ngày thường của người miền Bắc thường khá giản dị, gồm
chủ yếu là cơm tẻ ăn cùng các loại rau củ luộc và mắm, tương, thỉnh thoảng có thêm
chút mùi mỡ, thịt cá. Do truyền thống là một vùng người dân phần đông sống bằng
nông nghiệp nên các bữa ăn thường ngày thường được chế biến đơn giản, đáp ứng
tiêu chí ăn nhanh, ăn no để tối đa thời gian làm việc. Ở vùng Nghệ Tĩnh thì thường
lương thực có khi được thay thế bằng sắn, khoai, ngô độn thêm với gạo. Một thành
phần không thể thiếu trong một mâm cơm miền Bắc truyền thống là các món cà
muối, dưa muối, vốn là các món mặn ăn kèm thay với cơm và các món rau luộc.
Cũng có khi người ta dùng các món nộm, gỏi dùng chất chua của chanh hay dấm để
thay cho dưa cà muối. Canh cũng là một món hết sức quan trọng của cư dân ăn gạo
tẻ nói chung, thường là nước luộc rau, luộc thịt nêm nếm thêm gia vị, cầu kì hơn thì
là canh rau nấu với thịt, tôm, gạch cua, cá,....Ở đây đặt ra một câu hỏi là trong thời
kì thịt cá chưa xuất hiện nhiều ở trên bữa ăn người Bắc thì lượng chất đạm sẽ được
bổ sung qua con đường nào ? Câu trả lời là qua các sản phẩm làm từ đậu tương. Đây
là một trong những loại cây lương thực có thể chế biến ra nhiều món giàu chất đạm
7
bổ sung cho mâm cơm người Việt, đơn giản nhất là tương bần, cầu kì hơn thì là đậu
phụ với nhiều cách chế biến đa dạng. Với người dân vùng Thanh Nghệ Tĩnh vốn dồi
dào về nguồn lợi thủy hải sản hơn thì ưa chuộng các loại mắm cá, mắm tơm.
3.2 Các món ăn trong dịp lễ tết, hội hè, cưới xin, tang ma
Nếu như các món ăn thường ngày có phần giản dị và đơn giản, thì những
món ăn trong những dịp trang trọng như lễ tết, hội hè, đám hiếu đám hỷ lại là
đỉnh cao của kỹ thuật nấu nướng tinh tế của ẩm thực miền Bắc. Thường những
món ăn trong các dịp này được chế biến hết sức cầu kỳ và cần nhiều công sức
chuẩn bị, khi bày biện hay ăn uống cũng cần tuân theo một loạt các lễ nghi và
quy định ngặt nghèo.
Với các lễ vật để cúng, dâng tại các đình, miếu, đền, chùa trong các dịp
lớn của cả làng cả tổng thì được chế biến khá đơn giản, gồm xôi nếp và thịt gà,
thịt lợn luộc. Theo quan niệm dân gian thì đây là những thực phẩm thiêng và đi
kèm với đó là cách chế biến cổ xưa. Tuy thế, những nguyên liệu được chọn để
chế biến cũng trải qua những quy trình chọn lựa, nuôi trồng, chăn nuôi kỹ lưỡng:
thịt gà, thịt lợn để cúng có khi được chuẩn bị từ hàng năm trước đó, được ni
theo cách riêng biệt, khi chế biến, mổ xẻ cũng phải có kỹ thuật để sao cho món
ăn cúng trơng được đẹp mắt. Tùy theo các nơi thì lại có thêm những thay đổi hay
các thức cúng thêm khác.
Ngày giỗ ông bà tổ tiên thường cũng có hai món xơi nếp và thịt gà, thịt
lợn luộc, nhưng thường bổ sung thêm các món ăn mặn và canh khác như nem,
miến, thịt nấu giả cầy, canh bí hay canh đậu ninh xương, lòng xào với rau củ
quả,....
Cỗ ngày tang ma thì ngồi những món ăn cơ bản nêu trên thì nhất thiết
phải có một bát cơm trắng cùng quả trứng luộc, theo quan niệm là thức ăn dành
cho người chết. Đó là một đồ cúng khơng bao giờ được thiếu, cịn những món ăn
khác đãi khách thì tùy theo hoàn cảnh gia chủ mà sắm sửa.
Ngoài ra, tục lệ khao vọng và ngày cưới là những ngày lễ được chuẩn bị
cơng phu hơn cả, vì người xưa quan niệm đây là dịp trăm năm có một nên cần
làm thật hoàn hảo, đường hoàng. Những bữa cỗ cưới, cỗ khao có thể được chuẩn
bị từ lâu trước khi diễn ra, rất tốn kém và công phu. Với đặc điểm như vậy đã
sinh ra những người chuyên nấu cỗ, vốn là những người có tay nghề nấu nướng
cao, cũng như thông thạo các lễ nghi, quy tắc, được các gia chủ mời về giúp đỡ
việc làm cỗ. Ở trong những ngày trọng đại này có thể bắt gặp nhiều món ăn đặc
biệt sang trọng như giị, chả, nem, chạo, bóng, miến, mọc,.......Những món này
mỗi món có thẻ có đến hàng chục kiểu chế biến, mỗi kiểu lại thành ra một món
khác nhau, cũng như có những quy định bày biện nghiêm ngặt. Cịn có cả những
món ngọt như các loại chè, bánh, trái cây; với cỗ khao thì gia chủ còn cần chú ý
phần quà biếu cho khách đem về. Những tục lệ về bày biện có thể nói là hết sức
8
nghiêm ngặt và cầu kì, phải có đủ cỗ 5 tầng, 10 lớp bát đĩa, mỗi tầng mỗi lớp lại
có quy định khác nhau.
Dịp lễ Tết cũng là những dịp trọng đại trong năm mà đồ ăn được chuẩn bị
kỹ càng và cơng phu, phần nhiều mang tính phong tục, cổ truyền. Ví dụ như vào
dịp Tết nguyên đán sẽ có các món bánh chưng, món chè kho hay các loại mứt,
hoặc các món như thịt đơng, canh măng, dưa hành, giò chả nem, gà luộc, mâm
ngũ quả,....Tết Thanh Minh thì cần có bánh trơi bánh chay, thịt vịt, xơi gấc. Tết
Đoan Ngọ thì sẽ có các loại hoa quả mới hái và rượu nếp; ngày rằm tháng 7 thì
có cháo lỗng, bỏng nếp, ngơ rang; Tết Trung thu có các loại bánh nướng bánh
dẻo,.....
3.3 Các món quà, món ăn đặc sản
Một đặc trưng nữa rất Bắc bộ chính là những món q bánh. Đây khơng
phải là những món ăn để no những nó lại đem lại cho người ta nhiều háo hức, đặc
biệt, nó lưu giữ nhiều kỷ niệm đẹp trong tuổi thơ của mỗi người dân xứ Bắc.
Không phải là những món ăn trong bữa ăn thường ngày của các gia đình, tuy nhiên
hàng ngày ở các chợ, các hàng quán bên đường thì các thức quà ăn chơi vẫn là một
trong những thức được nhiều người săn đón. Các món quà thường dùng để ăn chơi
hoặc ăn thay một bữa phụ (thường là bữa sáng), là thức ăn để thưởng thức hay ăn
khi lỡ bữa, thường có dấu ấn của các địa phương. Một điểm đặc biẹt là so với khu
vực miền Trung và miền Nam thì các món quà của miền Bắc đặc biệt phát triển
mạnh mẽ, nó đã trở thành một phần trong kho tàng ẩm thực của dân tộc.
Gần như vùng nào, tỉnh nào cũng có những thức quà, đồ đặc sản của địa
phương. Ngay cả vùng Nghệ Tĩnh vốn có lối ăn uống giản dị, kham khổ nhưng
cũng có đủ các thức quà như bánh đúc, bánh tráng nướng, bún cá, miến lươn, kẹo
cu đơ, bánh chè lam. Đặc biệt, ở tỉnh Bắc Ninh, vốn là nơi có nhiều sản vật ngon
có đến hành chục loại quà như nem chua, bánh tro Phủ Từ, cốm non Tổng Dậu,
rượu Làng Vân, bánh đúc Đồng Quan, bánh mật Đức Thắng, kẹo vừng Chợ Chìu,
chả cá Bố Hạ, thịt chuột Đình Bảng,bánh gai Chợ Hồ,..........Các thức q thì có thể
được phân chia ra làm các thứ như: Bún, bánh, cháo, chè, xơi, cốm, phở, nem, chả,
giị,...... Có những món như Bún Chả, Phở hay Cà phê sữa đã vươn tầm thành
những món ngon nức tiếng khơng chỉ trong nước mà còn với bạn bè quốc tế.
IV.
ĐẶC ĐIỂM CỦA ẨM THỰC MIỀN TRUNG
Đồ ăn miền Trung với tất cả tính chất đặc sắc của nó thể hiện qua hương vị
riêng biệt, nhiều món ăn cay và mặn hơn đồ ăn miền Bắc và miền Nam, màu sắc
được phối trộn phong phú, rực rỡ, thiên về màu đỏ và nâu sậm, chế độ ăn nhiều các
loại thủy hải sản tươi sống. Tinh hoa của ẩm thực miền Trung có lẽ có thể được thể
hiện qua ẩm thực xứ Huế và ẩm thực xứ Quảng
9
4.1 Ẩm thực Huế
Có thể nói, Huế có những lợi điểm để trở thành một trung tâm về ẩm thực
lớn trên cả nước. Một mặt, với vị trí địa lý nằm ở giữa hai đầu Tổ Quốc, ở khu vực
thường được ví như cái địn gánh của dải đất hình chữ S, ở nơi mà biển và núi chỉ
cách nhau những khoảng tính bằng vài chục km, dường như ẩm thực Huế được ưu
ái cho những loại sản vật kết hợp cả tính biển và các sản vật của núi rừng trong đó,
chứ khơng hề một màu như của khu vực miền Bắc. Hơn nữa, Huế vẫn chịu ảnh
hưởng từ thời tiết theo 4 mùa như ở miền Bắc, thế nhưng lại được hưởng lợi từ
nguồn lợi thủy hải sản hết sức phong phú từ phương Nam. Mặt khác, yếu tố lịch sử
đóng góp một phần quan trọng làm nên sự độc đáo của ẩm thực Huế. Trong lịch sử,
Huế đã từng có thời gian bị tách khỏi Đại Việt mà nhập vào một quốc gia Chămpa
cổ đại, rồi lại được sát nhập vào. Ở cả hai nơi thì Huế đều là nơi nằm giữa hai
phong cách ẩm thực, để rồi được hưởng những tinh hoa từ cả hai phía. Quan trọng
nhất có lẽ chính là khi Huế được nhà Nguyễn chọn làm kinh đô. Cũng là một kinh
đô, nhưng vị thế của Hà Nội và Huế có rất nhiều sự khác biệt: Hà Nội từ trước đó
đã là một trung tâm kinh tế lớn, thu hút nhiều người từ khắp nơi đổ về, trong khi
Huế từ trước khi được chọn làm Kinh đô không hề là một trung tâm như vậy, dẫn
đến việc trong khi ẩm thực thành Thăng Long chịu ảnh hưởng và là đại diện cho cả
khu vực miền Bắc, ẩm thực của Huế có một nét riêng biệt hết sức độc nhất, cộng
thêm với việc được nhiều người có tay nghề cao cũng như những nguyên liệu tinh
túy nhất dồn về để phục vụ triều đình thì Huế có cái tính ngun bản mà ở Hà Nội
khó tìm thấy được. Nhìn vào những món ăn nổi tiếng xứ Huế như các loại mắm
chua, mắm ruốc, bún Tuần, cơm Âm Phủ, bún bò Gia Hội, cơm hến, bánh canh,
bánh lá,.... hồn tồn là những món ăn cực kì bình dân, giản dị từ những ngun
liệu sẵn có ở trong vùng. Chúng là sự kết hợp tinh tế giữa cái thuần phác, mộc mạc
và sự tinh vi, tinh tế, cầu kỳ; vừa không dứt bỏ cội nguồn xa xưa, lại vừa vươn tới
cái hồn mỹ mới.
Tuy thế, khơng phải chỉ có mình những ưu đãi của thiên nhiên và những
thuận lợi từ lịch sử một mình làm nên bản sắc ẩm thực của Huế, điều tiên quyết
chính là lối nấu và lối ăn theo kiểu Huế. Với hơn 600 món ăn, thật khó có thể nói
cách chế biến và cách ăn khơng có đóng góp gì trong việc tạo ra một kỉ lục về số
lượng món ăn mà một địa phương có thể đạt tới. Lối nấu xứ Huế rất mạnh về việc
chế biến, khi mà cùng một thứ ngun liệu là ruốc và tơm thì người Huế có thể tạo
ra đến hàng chục loại mắm khác nhau; cũng là nước chấm nhưng để dùng cho các
món ăn khác nhau cũng có hàng chục kiểu khác nhau.
Ở Huế, trước hết món ăn được phân loại thành món chay và món mặn. Với
món chay, khơng như ở miền Bắc đồ ăn chay chỉ là đặc biệt dùng cho nhà chùa và
một vài gia đình, thì ở Huế văn hóa ăn đồ chay cực kì phổ biến ở tất cả các hàng
quán. Người ta đã thống kê được có đến 125 món ăn chay ở Huế, chứng tỏ cho
chúng ta thấy sự phát triển của loại hình đồ ăn này. Là nơi có số lượng phật tử lớn,
cũng như có văn hóa ăn chay thực dưỡng nở rộ, điều này đã giải thích cho số lượng
lớn các món cơm chay ở đây.
10
Món ăn mặn ở Huế được chế biến thì mọi loại lương thực thực phẩm có thể
kiếm được, từ cá tơm từ biển, các lồi giáp xác, nhuyễn thể ở sơng ngịi, gạo và rau
màu ở các cánh đồng, các loài rau dại mọc ở các vùng đồi núi,....Một điểm khác
biệt khác của ẩm thực Huế đó là khơng phân chia thành đồ ăn các dịp lễ Tết, đồ ăn
thường nhật và các thức quà như ở miền Bắc, tất cả các món ăn từ bình dân đến
cầu kì đều vừa có thể là món ăn chơi, ăn thưởng thức mà cũng có thể góp mặt
trong bữa ăn thường ngày, có khi là thức ăn với cơm, có khi là món chính và
thường xun hơn là đồ ăn tráng miệng sau khi dùng bữa.
Bữa ăn của Huế cũng có sự thay đổi theo mùa tùy theo sản vật giống như
miền Bắc, tuy thế lợi điểm về số lượng sản vật trong vùng giúp cho đồ ăn Huế đa
dạng và linh hoạt hơn rất nhiều lần. Một bữa ăn xứ Huế cũng có tính chất hỗn hơp
và đa dạng rất lớn, một bữa cơm có thể rất nhiều món, được chế biến nhiều kiểu
cách, giúp người ăn vẫn có thể được ăn no mà lại có thể thưởng thức được nhiều
hương vị, khơng có cảm giác nhàm chán.
Gia vị của bữa ăn Huế cũng là một điểm cần lưu ý khi tìm hiểu về ẩm thực
xứ này. Cách sử dụng gia vị nơi đây vẫn giữ được điểm đặc trưng là nhiều hương
vị của ẩm thực Việt nói chung, thế nhưng những gia vị được nêm nếm tài tình và
chừng mực hơn so với miền Nam và miền Bắc, có lẽ chỉ trừ vị cay: Người Huế ăn
cay một cách khó hiểu, những người ở nơi khác mới đến thường rất vất vả để làm
quen.
Cuối cùng, sự tinh vi và tỉ mỉ trong việc chế biến và ăn uống ở Huế cũng là
một trong những lý do làm nên bản sắc của thành phố cố đô trên bản đồ ẩm thực
nước nhà. Người Huế quan niệm người nấu bếp như một nghệ sĩ đang tạo nên một
tác phẩm nghệ thuật, và người ăn cũng thưởng thức nó với tâm thế đang thưởng
thức nghệ thuật. Có thể nói, ăn uống Huế cịn là một bộ phận thể hiện lối sống nơi
đây, lối sống của những người sáng tạo, làm chủ được những giá trị văn hóa của
mình.
4.2 Ẩm thực xứ Quảng
Một trong những địa điểm nổi bật cho đặc điểm ẩm thực của tỉnh Quảng
Nam có lẽ phải kể đến phố cổ Hội An. Là thành phố nằm ở khu vực cửa nhiều con
sơng đổ ra biển, khơng có gì khó hiểu khi đặc sản ở trong mâm cơm của người Hội
An là những loại thủy hải sản, mà đặc biệt là cá. Các loại cá và các món ăn chế
biến từ cá có thể nói là một trong những thức ăn được ưa chuộng bậc nhất ở nơi
đây. Các cụ cao niên ở thành phố đã từng nói rằng trước đây thậm chí các loại thịt
heo gà vịt là của hiếm, chỉ có vào dịp lễ Tết, giỗ chạp. Cịn cá thì trở thành món ăn
thường ngày của người dân nơi đây, đến mức mà các khu vực bán đồ ăn nơi đây
người dân quen gọi là chợ cá. Cùng với cá là các loại rau. Giống như hầu hết các
cư dân ở các địa phương khác thì bữa ăn của người Hội An cũng có rau luộc hoặc
rau sống. Rau luộc thường là tổng hợp các loại rau luộc chung với nhau, gọi là rau
tập tàng. Rau sống thường chú trọng dùng nhiều các loại chung có nhiều vị với
nhau. Các loại mắm cũng có vai trị cực kì quan trọng trong đời sống của người
11
dân nơi đây, họ có hàng chục các loại mắm làm từ nhiều loại cá khác nhau, cũng
như có cả loại mắm khô đặc biệt dùng cho thời tiết mưa gió, khan hiếm thức ăn.
Bữa cơm của người Hội An thường có món rau, món canh, món kho, cơm và thỉnh
thoảng có món xào – đặc biệt khơng bữa nào được thiếu mắm. Người Hội An cũng
có đặc điểm là thường kho cá mặn với rất nhiều các loại gia vị khác nhau, mỗi loại
cá lại có những loại gia vị để tạo nên hương vị độc đáo riêng. Với thói quen ăn các
bữa khuya, các khu vực chợ đêm của Hội An lúc nào cũng tấp nập với các quán
bán những món ăn nhẹ như phở, cháo vịt, chè,....Các loại quà vặt cũng hết sức phát
triển ở chốn này, và thường được bà con gọi là “ăn hàng”, với đủ thứ đồ ăn từ xôi,
các loại bánh đúc, bánh gói, các loại cháo xương, cháo hến... mở từ tờ mờ sáng cho
đến những món như bún cà ru, phở, hồnh thánh, xơi thịt xíu,.... và đến buổi trưa là
sự áp đảo của các hàng mì Quảng, cao lầu, bánh vạc,..... Không thể kể hết được số
lượng quà ở Hội An, khi mà thành phố này cũng là một điểm đến du lịch rất nổi
tiếng và những quán bán các thức quà được thế mà ngày càng nở rộ.
Cách bài trí thức ăn và cách ăn ở Hội An cũng có nhiều điểm độc đáo. Như
mọi người dân Quảng Nam khác, họ ưa trộn lẫn tất cả các món ăn chính và ăn kèm
vào cùng một tơ để dùng cùng lúc, nhằm cảm nhận vị ngon của các món ăn đầy ắp
trong miệng. Tuy thế, khi cần thì người Hội An cũng có thể bày biện các món ăn
cầu kì và khéo khơng thua gì cư dân xứ Huế. Những quy tắc về bày biện, lễ nghi
trong ăn uống của Hội An cũng nghiêm ngặt và trọng ngôi thứ không khác gì ở
miền Bắc.
Về gia vị, ngồi việc ưa thích vị mặn mịi của các lồi thủy hải sản biển,
người Hội An cũng có thói quen ăn cay, tuy vậy khơng q cay như người Huế.
Hơn thế nữa, các món ăn của thành phố cổ này thường có vị cay từ tiêu chứ không
phải từ ớt như ở Huế.
V.
ĐẶC ĐIỂM CỦA ẨM THỰC MIỀN NAM
So với các vùng miền, địa phương khác thì miền Nam có lịch sử hình thành và
phát triển non trẻ hơn khá nhiều. Vào khoảng thế kỉ 16 17 thì mới có những di dân đầu
tiên bắt đầu tiến về phương Nam, và đặc biệt nở rộ phong trào này vào thời kì của các
chúa Nguyễn, khi dựa vào nhiều phương pháp quân sự và ngoại giao mà dần dần các
mảnh đất ở phía Nam thuộc các quốc gia mà ngày nay là Campuchia rơi vào tay chính
quyền Đàng Trong. Những người đầu tiên di cư vào đây thường là những người nông
dân ở Bắc Bộ và Trung Bộ, vốn là những kẻ bị bần cùng hóa vì cuộc chiến tranh giữa
Trịnh Nguyễn mà phải bỏ xứ ra đi tìm vùng đất hứa mới. Cũng khơng thiếu những kẻ
là tù nhân, binh lính được triều đình sai phái vào phía Nam để lập đồn điền bảo vệ
biên cương. Đã vậy, nơi đây vốn được mệnh danh là nơi rừng thiêng nước độc, mà
theo như lời Phan Huy Chú và Lê Q Đơn thì:”từ Sài Gịn trở vào vẫn là rừng rậm
đến mấy nghìn dặm”,”đất nhiều khe suối, kênh rạch, đường thủy như mắc cửi, không
thể đi đường bộ vào được”.
12
Một chốn hiểm trở, khó khăn mn trùng như thế, nhưng lại được thiên nhiên
ưu ái cho một nguồn lợi thủy hải sản khổng lồ, cũng như đa dạng các sản vật, các lồi
động vật phong phú có thể lấy làm thức ăn. Chính những hệ thống kênh rạch chằng
chịt mà lúc đầu làm cho công việc của những người khai hoang mn bề khó khăn lại
cũng là nơi cung cấp sự sung túc tưởng như vô tận về các loại sản vật, các loại thức
ăn. Ở vùng rừng U Minh người ta có thể tìm thấy tất cả các loại thủy sản như nghêu,
sị, chem chép, ốc, móng tay, tơm, khía, rùa, đước,.....đủ loại tơm, cua, cá,..... Khơng
khó hiểu khi người dân Nam bộ là khu vực dẫn đầu trong tỉ lệ các đồ thủy hải sản có
trong mỗi bữa ăn ở nước ta. Ngoài đánh bắt, người dân nơi đây cịn có những phương
pháp ni được tơm cá trong các ao, đìa để làm đồ dự trữ, cũng như có các kỹ thuật
chế biến nguồn lợi trời cho này một cách hết sức sáng tạo và phong phú như phơi khô,
ướp, hong lửa, làm mắm – đặc biệt các ở miền Nam có những loại mắm hết sức đặc
biệt mà khơng nơi đâu có được như mắm ba khía, mắm tơm chà,....
Sự đan xen chằng chịt của kênh rách nơi đây là một hệ thống phục vụ tưới tiêu
cực kì hiệu quả mà lại thường xuyên được bồi đắp phù sa mới màu mỡ từ dịng sơng
Mê Kơng, không như những ô ruộng tù đọng nằm bên trong đê của vùng Đồng bằng
Bắc Bộ - chẳng thế mà hiện nay khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long đang là vựa lúa
chính của cả nước. Đâu chỉ có các loại thủy hải sản, vùng Nam Bộ cịn có những cánh
rừng rậm với đủ thứ sản vật của rừng già: Thịt heo rừng, trâu rừng, mật ong, hươu nai,
cá sấu, kỳ đà, kỳ nhơng,...... và vơ số các lồi chim, nhiều đến mức những mảng rừng
trống nơi mn lồi chim cùng chung cư ngụ được gọi là sân chim.
Bữa ăn của người Nam bộ, ngoài cơm và các loại cá chế biến đủ món, thường
sẽ cịn có một món canh và một món rau. Các loại rau thường là rau sống hay các loại
rau quả dầm chua để ăn cùng với cá cho đỡ ngán, và đặc biệt là sự xuất hiện của món
canh chua trứ danh của miền Nam. Dù cho cả 3 miền trên khắp Việt Nam đều có món
canh chua này, nhưng khơng ở đâu làm được hương vị chua đặc trưng như Nam bộ, và
cũng không nơi nào được thiên nhiên ban tặng cho nhiều loài cá để nấu canh chua đến
như thế. Có thể kể tên hàng loạt các món canh chua ở Nam Bộ như canh chua cá lóc,
canh chua cá bơng lau, canh chua cá linh nấu với bông điên điển, canh chua cá kèo
nấu với lá giang,.....
Một trong những loại món ăn được xếp vào hàng đặc sản khác của người dân
Nam bộ chính là các món chế biến từ đng dừa, thịt chuột hay các món cóc, rùa,
lươn, rắn,..... Nơng nghiệp phát triển cũng đồng thời mời gọi các loài trên đến sinh
sống ở trên cánh đồng lúa, gây hại cho người và vật nuôi. Thế nhưng, qua bàn tay chế
biến tài tình của những người dân nơi đây, những con vật khiến ta ghê sợ đấy lại có
thể trở thành những món ăn độc đáo ngon nức tiếng ở vùng này. Đuông dừa chiên bột,
thịt chuột nướng, thịt chuột cuốn lá lốt, cháo rắn,...... Có lẽ chỉ có ở vùng này người
dân mới có thể dùng chế biến ra những món ăn ngon và giàu chất dinh dưỡng từ chính
những con vật mà vùng khác ghê tởm thành. Dơi, rùa và đuông dừa cũng là một trong
những thục phẩm được dùng thường ở đây.
13
Khi nhắc đến về ẩm thực Nam Bộ thì khơng thể bỏ qua một nguyên liệu đặc
biệt: dừa. Loại trái này được người dân miền Nam sử dụng làm đủ các loại món: các
món ăn từ quả dừa như nước dừa, cơm dừa, cùi dừa,.... trong đó được sử dụng phổ
biến hơn cả có lẽ là nước dừa khi có vơ số món ăn ở nơi đây dùng các loại nước dừa,
từ trong việc nấu bữa cơm gia đình, có thể liệt kê ra một số món như nấu cơm, nấu cá
kho,... Nước cốt dừa còn được sử dụng trong các món chè thập cảm, nhằm tạo độ ngậy
và sự thơm ngon cho món chè.
Dù có một lượng lớn người Hoa di cư đến và sống ở khu vực này, mâm cơm
của người Nam bộ không bị ảnh hưởng bởi thói quen nấu ăn nhiều món xào, chiên
ngập mỡ của người Trung. Để có thể tiếp tục thích nghi và phát triển, người Việt đã
liên tục tiếp thu và cải biến các món ăn cũng như các dụng cụ nấu nướng của các quốc
gia khác. Ví dụ như thói quen sử dụng nhiều dừa trong nấu nướng là một trong những
điểm quan trọng trong nền văn hóa ẩm thực của người miền Nam, và phương pháp
này thì học hỏi từ người Khmer mà ra. Chúng ta cũng đã sử dụng các bình gốm và
niêu cơm bằng đất để cơm chín đặt cơm trên bếp cà ràng, vốn phù hợp hơn với cuộc
sống sông nước phải liên tục di chuyển.
Vốn là một vùng có lịch sử phát triển mới mẻ, lại cịn có thành phần dân cư
nhiều sắc tộc, đa văn hóa, khơng ngạc nhiên khi chúng ta thấy những món ăn như cà ri
Ấn Độ, hủ tiếu, cơm chiên Dương Châu, ragu bò Pháp hay canh chua và bún
Khmer,.... Ngay cả trên mâm cơm cúng thì việc xuất hiện những món ăn có phần lạ
lẫm ấy lại thể hiện rõ tính giao thoa văn hóa giữa 1 hay nhiều quốc gia, dân tộc khác
nhau ở con người miền Nam.
Có thể thấy, khác với miền Bắc là nơi lưu giữ nghệ thuật ăn uống cổ truyền của
dân tộc hay miền Trung là sự thừa hưởng của truyền thơng ấy và có những phát triển
riêng, thì món ăn Nam Bộ là một sản phẩm độc đáo của một vùng đất mới, giàu tiềm
năng và mang hơi thở của nhiều dân tộc hòa trộn trong đó, đúng với cái tinh thần hào
sảng, xởi lởi và năng động của người dân nơi đây. Không quá cầu kỳ, tiểu tiết như của
Hà Nội hay Huế, các món ngon Nam Bộ chú trọng đến sự dư dật, phong phú trong
việc ăn uống, sự thoải mái trong việc tiếp đãi bạn bè, người thân tất cả những gì có
thể.
VI.
LỜI KẾT
Trên đây là bản trình bày những kiến thức cơ bản nhất về tổng quan đặc trưng
ẩm thực Việt Nam cũng như khái quát về những sự khác biệt trong ẩm thực các vùng
miền khác nhau của Việt Nam, được tổng hợp thơng qua q trình học tập trên lớp và
tìm hiểu và nghiên cứu từ nhiều nguồn khác nhau.
Nhận biết được rằng bài làm này có thể cịn nhiều thiếu sót, nên em hy vọng sẽ được
nhận được những đóng góp chân thực nhất từ các thầy cô cô để em cải thiện cho
những lần tới.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã cho em cơ hội để thử sức bản
14
thân mình, cũng như những kiến thức và kỹ năng quan trọng mà thầy cô đã truyền đạt
trong học kỳ vừa qua ạ.
VII.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngô Đức Thịnh (2010). Khám phá ẩm thực truyền thống Việt Nam. TP HCM – Nhà Xuất
Bản Trẻ
VĂN HÓA ẨM THỰC VIỆT,
, xem
11/12/2021.
2019. Nét đặc trưng trong văn hóa ẩm thực Việt Nam | Khám phá ẩm thực #1. ,
, xem 11/12/2021
15