Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Phương pháp nghiên cứu doanh nghiệp xác sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.25 KB, 22 trang )

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
2.1 Phương pháp tiếp cận
Với các mục đích khác nhau nên phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu cũng có
những con đường, cách tiếp cận khác nhau:
- Tiếp cận lý thuyết: Trên cơ sở tri thức đã có, người nghiên cứu phát triển các học
thuyết, lý thuyết trên cơ sở lý luận logic và kiểm chứng với thực tiễn.
- Tiếp cận với quy luật tự nhiên: Trên cơ sở phát hiện các quy luật khách quan của
tự nhiên, sử dụng các công nghệ thơng tin, tốn học thống kê để xây dựng các mơ
hình khái qt quy luật, định hướng điều hành, dẫn đắt hướng đi cho việc quản lý
sử dụng tài nguyên thiên nhiên
- Tiếp cận có sự tham gia: Đây là một hoạt động tiếp cận xã hội để đánh giá nhu
cầu thực tế và đưa ra giải pháp thích ứng với quy luật phát triển xã hội trong sử
dụng các nguồn tài nguyên
- Tiếp cận thử nghiệm: Tiến hành các thử nghiệm chun mơn hố trong phịng thí
nghiệm, trên hiện trường, chế tạo máy, trên máy tính để phát hiện các quy luật, giải
pháp công nghệ cụ thể cho sản xuất.
2.2 Quy trình nghiên cứu
2.2.1.Đối tượng nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các "doanh nghiệp sống thực vật" trong nền
kinh tế và các phương pháp để xử lý các loại hình doanh nghiệp này.
2.2.2.Phạm vi nghiên cứu
Các doanh nghiệp trong lĩnh vực cơng nghiệp, tài chính ngân hàng và một số lĩnh
vực có liên quan khác tại các thành phố lớn trong nước Việt Nam
2.2.3Quy trình nghiên cứu
a) Xác định vấn đề cần nghiên cứu
Suy thoái kinh tế luôn đi kèm với sự xuất hiện của các "doanh nghiệp sống thực
vật" (còn gọi là các zombies). Đây là những doanh nghiệp yếu kém đáng lẽ phải bị
1


đào thải bởi thị trường thì bằng cách này hay cách khác vẫn được hỗ trợ để tiếp tục


tồn tại. Chúng khơng cịn năng động hay sáng tạo, khơng thể thay đổi để thích ứng
với mơi trường mới và đặc biệt là khơng đóng góp gì vào sự phát triển của nền
kinh tế, không tạo ra giá trị gia tăng cho xã hội. Những "doanh nghiệp sống thực
vật" này gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế vì chúng chiếm đoạt và sử
dụng rất nhiều tài nguyên, tiền bạc, nhân lực…đáng lẽ phải được phân bổ cho các
doanh nghiệp khác hoạt động hiệu quả hơn. Khi đó, nền kinh tế sẽ đi vào suy thoái
một cách nghiêm trọng hơn.
Vấn đề xử lý các "doanh nghiệp sống thực vật" ln là câu hỏi cho các nhà hoạch
định chính sách cũng như các nhà nghiên cứu. Câu hỏi đặt ra là nên để các doanh
nghiệp này "sống" hay "chết", "sống" thì sống như thế nào và "chết" thì chết theo
cách nào? Vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về các doanh nghiệp “xác sống” hiện
nay là công việc mang tính cần thiết và cấp bách.
b) Thu thập dữ liệu
Tại nhiều nước như Mỹ, Nhật, Úc và Tây Âu, tỷ lệ các công ty xác sống đã tăng
gấp 5 lần từ năm 1987, từ 2% lên 10%.
Nền kinh tế Việt Nam cũng có sự xuất hiện của các "doanh nghiệp sống thực vật".
Theo khảo sát công bố năm 2014 của Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt
Nam VCCI, hơn 75% doanh nghiệp cho biết đang gặp khó khăn về vốn kinh
doanh, kết quả kinh doanh sụt giảm so với các năm trước. Điển hình là tỉnh Thanh
Hóa có khoảng 9.200 doanh nghiệp thì hiện chưa tới 7.500 cịn hoạt động, trong đó
chưa đầy 70% phát sinh doanh thu và chưa đến 60% trong số này có lãi, nhiều
doanh nghiệp khác đang ở tình trạng chờ giải thể, tuyên bố phá sản. Tuy số các
doanh nghiệp này chưa đủ lớn đến mức tạo ra một cuộc khủng hoảng làm tê liệt
nền kinh tế, nhưng cũng có thể thấy rằng chúng đã góp phần khơng nhỏ vào việc
hình thành nhiều doanh nghiệp “xác sống” như hiện nay.
Số liệu từ các ngành công nghiệp và tài chính ngân hàng được lấy từ Tổng điều tra
doanh nghiệp trong khoảng thời gian 2000-2012 của Tổng cục Thống kê Việt
Nam.Đây là số liệu có nhiều thơng tin về doanh nghiệp như loại hình sở hữu,lao
động,doanh thu và tài sản của doanh nghiệp với 42 nghìn doanh nghiệp năm 2000
và tăng lên trên 350 nghìn doanh nghiệp vào năm 2012.Số liệu được điều tra theo

dạng bảng,mỗi doanh nghiệp được quan sát qua các năm cho đến khi doanh nghiệp
2


khơng cịn xuất hiện trong số liệu của năm tiếp theo.Điều này có nghĩa là doanh
nghiệp đó đã rút lui khỏi thị trường.Cụ thể,tất cả các ngành doanh nghiệp nhà
nước,doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) và doanh nghiệp tư
nhân có 10 lao động trở lên sẽ được điều tra toàn bộ trong tất cả các năm,cịn
doanh nghiệp có 10 lao động trở xuống sẽ được lựa chọn ngẫu nhiên để điều
tra.Từ kết quả điều tra,chúng tơi chọn các ngành cơng nghiệp và tài chính ngân
hàng để phân tích.Tổng số quan sát thu được khoảng 145 nghìn,trung bình khoảng
12 nghìn quan sát trên một năm,trong đó có gần 50 nghìn quan sát thuộc ngành tài
chính ngân hàng.Mục đích chọn những ngành này,vì nó chứa nhiều doanh nghiệp
lớn của Nhà nước.Những doanh nghiệp này thường được bảo trợ để tiếp cận vốn
vay cho dù chúng hoạt động khơng hiệu quả
c, Phương pháp ước lượng
Mục đích chính của nghiên cứu này là để xác định các nhân tố dẫn đến khả năng
doanh nghiệp rơi vào tình trạng “sống thực vật”.Dựa trên số liệu từ tổng điều tra
doanh nghiệp từ năm 2000-2012,chúng tôi lựa chọn doanh nghiệp thuộc ngành
công nghiệp và tài chính ngân hàng và số liệu dạng bảng không cân bằng.Biến phụ
thuộc được xác định ở phần trên,nhận giá trị bằng 1 nếu là doanh nghiệp “sống
thực vật”và các trường hợp ngược lại.Nghiên cứu này dựa trên nghiên cứu của
S.i.Fukuda and Nakamura (2011),có chỉnh sửa và sử dụng mơ hình Logit để ước
lượng.
d, Kết quả ước lượng
Kết quả ước lượng từ mơ hình logit nhằm xác định các yếu tố dẫn đến 1
doanh nghiệp có xác suất cao là doanh nghiệp “sống thực vật”.
2.3 Phương pháp nghiên cứu định lượng
2.3.1. Mô tả dữ liệu nghiên cứu
a. Phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu:

- Phương pháp quan sát: Dựa trên tình hình thực tế, quan sát thấy sự tồn tại của các
công ty xác sống trên thị trường Việt Nam.
- Điều tra mẫu câu hỏi: Lập bảng câu hỏi dành cho các công ty xác sống để thu
thập dữ liệu chi tiết.
3


b. Loại dữ liệu trong nghiên cứu
- Dữ liệu thứ cấp: Thông tin về công ty xác sống tổng hợp từ các nguồn có sẵn: báo
chí, sách vở, nghiên cứu khoa học, báo cáo thực tế,…
- Dữ liệu sơ cấp: Kết quả điều tra khảo sát thực tế thu được từ bảng câu hỏi, phỏng
vấn trực tiếp,…
c. Mô tả dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu về công ty xác sống trong khoảng thời gian nghiên cứu:
- Số lượng công ty xác sống
- Thời gian trở thành công ty xác sống
- Lợi nhuân của công ty xác sống
- Tổn thất của công ty xác sống
- Thay đổi trong tổng doanh số
- Quy mơ nhân lực
- Quy mơ tài chính
- Sở hữu tài chính, phi tài chính và tài sản nước ngồi của cơng ty xác sống
- Chính sách miễn trừ nợ, tỉ lệ miễn trừ nợ đối với công ty xác sống
- Các chính sách nhà nước dành cho cơng ty xác sống
- Tỉ lệ tổng nợ của công ty xác sống
2.3.2 Đo lường các biến số
Các công ty zombie, có nghĩa là các cơng ty khơng thể trang trải chi phí trả nợ từ
lợi nhuận hiện tại trong thời gian dài, gần đây đã thu hút sự chú ý ngày càng tăng
trong cả giới học thuật và chính sách. Caballero và cộng sự (2008) đã đặt ra thuật
ngữ trong phân tích của họ về "thập kỷ mất mát" của Nhật Bản những năm 1990.

Gần đây, Adalet McGowan et al (2017) đã chỉ ra rằng tỷ lệ phổ biến của các công
ty như là một phần của tổng dân số của các cơng ty phi tài chính (cổ phần zombie)
4


đã tăng đáng kể sau cuộc khủng hoảng tài chính lớn (GFC) trên toàn thế giới nền
kinh tế tiên tiến nói chung hơn.
Trong tính năng đặc biệt này, chúng tơi khám phá sự phát triển của các công ty
zombie và ngun nhân cũng như hậu quả của nó. Chúng tơi có quan điểm quốc tế
bao gồm 14 quốc gia và thời gian dài hơn nhiều so với các nghiên cứu trước đây.
Việc tập trung vào các công ty niêm yết cho phép chúng tôi xem xét hai cách khác
nhau để xác định các công ty zombie: một biện pháp rộng rãi được đề xuất bởi
Adalet McGowan et al (2017), dựa trên việc thiếu lợi nhuận liên tục trong các công
ty trưởng thành; và một đề xuất hẹp do Banerjee và Hofmann (2018) đề xuất, trong
đó yêu cầu thêm về kỳ vọng lợi nhuận trong tương lai thấp được suy ra từ việc định
giá thị trường chứng khốn của một cơng ty.
Phân tích của chúng tơi giải quyết ba câu hỏi chính:
Đầu tiên, có phải sự gia tăng tỷ lệ các cơng ty zombie chỉ là tình tiết, liên quan đến
sự gián đoạn tài chính lớn, hay chúng phản ánh một xu hướng thế tục chung chung
hơn? Trả lời câu hỏi này địi hỏi phải có một viễn cảnh đủ dài. Cơ sở dữ liệu của
chúng tôi kéo dài đến những năm 1980 và bao gồm một số chu kỳ kinh doanh.
Chúng tơi tìm thấy một động lực tăng trưởng: thị phần của các cơng ty zombie đã
có xu hướng tăng theo thời gian thông qua sự thay đổi đi lên trong bối cảnh suy
thối kinh tế khơng hồn tồn đảo ngược trong các đợt phục hồi tiếp theo.
Thứ hai, nguyên nhân của sự gia tăng của các công ty zombie là gì? Các nghiên
cứu trước đây đã tập trung vào vai trò của các ngân hàng yếu kém chuyển các
khoản vay cho các cơng ty khơng có khả năng thay vì xóa nợ (Storz et al (2017),
Schivardi et al (2017)). Điều này giữ cho các công ty zombie trên hỗ trợ cuộc
sống. Một yếu tố liên quan nhưng ít được khám phá là lãi suất giảm kể từ những
năm 1980. Việc giảm mức lãi suất sau mỗi chu kỳ có khả năng làm giảm áp lực tài

chính đối với zombie để tái cấu trúc hoặc thoát ra (Borio và Hofmann (2017)). Kết
quả của chúng tôi thực sự cho thấy tỷ lệ thấp hơn có xu hướng đẩy cổ phiếu
zombie lên, ngay cả sau khi tính đến tác động của các yếu tố khác.
Thứ ba, hậu quả kinh tế của sự phát triển của các cơng ty zombie là gì? Các nghiên
cứu trước đây đã chỉ ra rằng zombie có xu hướng kém năng suất hơn (Caballero et
al (2008), Adalet McGowan et al (2017)). Do đó, tỷ lệ cao hơn của các cơng ty
zombie có thể ảnh hưởng đến năng suất tổng hợp. Hơn nữa, sự sống còn của các
5


cơng ty zombie có thể thu hút đầu tư và việc làm tại các công ty lành mạnh. Phát
hiện của chúng tôi xác nhận những hiệu ứng này cho nhiều quốc gia và thời gian
dài hơn. Tuy nhiên, chúng tôi tìm thấy bằng chứng về sự đơng đúc chỉ dành cho
các biện pháp hẹp của các công ty zombie. Điều này cho thấy điều quan trọng là
phải xem xét kỳ vọng về lợi nhuận trong tương lai bên cạnh lợi nhuận hiện tại khi
phân loại các công ty là zombie.
Phần cịn lại của tính năng đặc biệt được tổ chức như sau. Phần đầu tiên ghi lại xu
hướng tăng trong thị phần của các công ty zombie kể từ những năm 1980. Thứ hai
đánh giá nguyên nhân của sự gia tăng của họ. Phần ba khám phá những hậu quả
cho năng suất và hiệu suất của các công ty không phải zombie. Chúng tôi kết luận
bằng cách xem xét một số hàm ý chính sách.
Sự trỗi dậy của các hãng zombie
Khi nào một công ty là một thây ma? Thiếu lợi nhuận trong một thời gian dài rõ
ràng là một tiêu chí quan trọng, đặc biệt là nếu cơng ty khơng thể phục vụ các
khoản nợ của mình. Một tiêu chí thứ hai là tuổi tác: các cơng ty trẻ có thể cần
nhiều thời gian hơn cho các dự án đầu tư để mang lại lợi nhuận. Cuối cùng, lợi
nhuận kỳ vọng thấp nên rất quan trọng. Khả năng sinh lời hơm nay có thể thấp do
tái cấu trúc doanh nghiệp hoặc đầu tư mới cuối cùng có thể làm tăng lợi nhuận.
Ở đây, chúng tôi áp dụng hai phân loại zombie thay thế cho các tập đồn phi tài
chính được liệt kê ở 14 nền kinh tế tiên tiến sử dụng cơ sở dữ liệu Worldscope bao

gồm 32.000 công ty. Biện pháp đầu tiên, rộng hơn theo sau Adalet McGowan et al
(2017) và xác định một công ty là zombie nếu tỷ lệ bảo hiểm lãi suất (ICR) của nó
ít hơn một trong ít nhất ba năm liên tiếp và nếu nó ít nhất 10 tuổi. Biện pháp thứ
hai hẹp hơn. Theo dõi Banerjee và Hofmann (2018) và khai thác thực tế là cơ sở
dữ liệu của chúng tôi chỉ bao gồm các công ty niêm yết mà chúng tơi có thể quan
sát định giá thị trường chứng khốn, nó bổ sung thêm yêu cầu rằng zombie phải có
tiềm năng tăng trưởng trong tương lai thấp. Cụ thể, zombie được yêu cầu phải có tỷ
lệ giá trị thị trường của tài sản so với chi phí thay thế (Tobin q) thấp hơn mức trung
bình trong khu vực của chúng trong bất kỳ năm nào.

6


Các zombie theo hai định nghĩa rất giống nhau về khả năng sinh lời hiện tại của
chúng, nhưng khác biệt về chất lượng trong triển vọng lợi nhuận của chúng. Biểu
đồ 1 cho thấy, đối với các công ty không phải zombie, ICR trung vị cao hơn bốn
lần thu nhập theo cả hai định nghĩa. Do phần lớn các công ty zombie làm ăn thua
lỗ, các ICR trung vị ở dưới mức 7 dưới mức rộng và khoảng 5 dưới mức hẹp. Tuy
nhiên, một sự khác biệt nổi bật giữa biện pháp zombie rộng và hẹp xuất hiện liên
quan đến lợi nhuận dự kiến trong tương lai, được đo bằng Tobin q. Theo thước đo
rộng, trung bình Tobin q của các công ty zombie cao hơn so với phi zombie. Do
đó, các nhà đầu tư rất lạc quan về triển vọng tương lai của nhiều công ty zombie
này, hơn cả đối với những người không phải zombie. 4 Theo định nghĩa, biện pháp
hẹp, được thiết kế để thanh lọc số đo zombie khỏi sự bất thường này, có chỉ số
trung bình thấp hơn Tobin q, thấp hơn một chút.
Cả hai biện pháp zombie cho thấy rằng sự phổ biến của zombie đã tăng đáng kể kể
từ những năm 1980 ( Biểu đồ 2, đường màu đỏ). Trên khắp 14 nền kinh tế tiên tiến,
trung bình của họ đã tăng, từ khoảng 2% vào cuối những năm 1980 lên khoảng
7



12% vào năm 2016 theo định nghĩa rộng (bảng điều khiển bên trái) và từ 1% đến
khoảng 6% theo thước đo hẹp (bảng bên phải). Sự gia tăng không ổn định: những
thay đổi đi lên liên quan đến suy thoái kinh tế vào đầu những năm 1990, đầu những
năm 2000 và 2008 chỉ bị đảo ngược một phần trong những năm tiếp theo.

Sự gia tăng của các công ty zombie đã được thúc đẩy bởi các công ty ở trong trạng
thái zombie lâu hơn, thay vì phục hồi hoặc thốt khỏi phá sản ( Biểu đồ 2, đường
màu xanh). Cụ thể, xác suất zombie còn lại là zombie trong năm sau đã tăng từ
60% vào cuối những năm 1980 lên 85% vào năm 2016 (biện pháp rộng) và từ 40%
đến 70% (số đo hẹp).
Nguyên nhân
Làm thế nào zombie công ty có thể tồn tại lâu hơn trong quá khứ? Họ dường như
đối mặt với ít áp lực hơn để giảm nợ và cắt giảm hoạt động. Và trái ngược với
8


những gì có thể xảy ra, sự thay đổi chính không trùng với GFC, nhưng xảy ra vào
đầu những năm 2000. Ước tính hồi quy cho thấy, trước năm 2000, zombie (được
định nghĩa rộng và hẹp) đã cắt giảm nợ với tỷ lệ chỉ dưới 2% tổng tài sản một năm
so với các công ty không phải zombie. Tuy nhiên, sau năm 2000, hai nhóm trở nên
khơng thể phân biệt được, vì tốc độ hủy diệt của zombie (tương đối) đã chậm lại
đáng kể ( Biểu đồ 3, bảng điều khiển bên trái). Có một sự chậm lại nhẹ hơn sau
năm 2009, nhưng nó khơng có ý nghĩa thống kê. Khi việc hủy bỏ đã chậm lại,
zombie đã bị khóa nhiều tài nguyên hơn, cản trở việc tái phân bổ. Cụ thể, họ đã
làm chậm đáng kể việc xử lý tài sản của họ so với các đồng nghiệp có lợi nhuận
cao hơn (bảng điều khiển bên phải). Áp lực giảm đối với zombie không phản ánh
sự cải thiện tương đối về lợi nhuận của chúng. Thu nhập của zombie khơng tăng
đáng kể trước các khoản thanh tốn lãi và thuế (EBIT) so với tổng tài sản so với
không phải zombie, kể từ năm 2000 hoặc kể từ năm 2009.

2.3.3Nhóm mơ hình logit/ probit dùng để xác định yếu tố nhận diện doanh
nghiệp “xác sống”
2.3.3.1 Khái qt về mơ hình logit và probit
Một trong những phương pháp phân tích dữ liệu phổ biến nhất là phân tích hồi quy
tuyến tính hoặc bội. Nó giúp thiết lập mối quan hệ giữa các biến độc lập và phụ
thuộc. Trong hồi quy tuyến tính, biến phụ thuộc là liên tục trong hầu hết các trường
hợp. Tuy nhiên, nếu biến phụ thuộc là phân loại thì hồi quy đơn giản sẽ khơng cho
phép dự đốn. Vì vậy, các nhà thống kê đã giới thiệu phương pháp hồi quy logistic
trong đó biến phụ thuộc là khơng liên tục hoặc nó là phân loại. Giống như tất cả
hồi quy, nó cũng được sử dụng trong phân tích dự đốn. Tuy nhiên, nó giúp mơ tả
hành vi của một biến là nhị phân, tức là chỉ có thể nhận hai giá trị. Nếu có nhiều
hơn hai loại trong biến phụ thuộc, thì hồi quy logistic đa thức được áp dụng thay vì
hồi quy logistic đơn giản.
Các mơ hình logit và probit phù hợp khi cố gắng mơ hình hóa một biến phụ thuộc
nhị phân, ví dụ: có / khơng, đồng ý / khơng đồng ý, thích / khơng thích, v.v ... Các
vấn đề với việc sử dụng đường hồi quy tuyến tính quen thuộc dễ hiểu nhất một
cách trực quan.

9


Các mơ hình logit và probit giải quyết từng vấn đề này bằng cách khớp một hàm
phi tuyến với dữ liệu trông như sau:

Đường thẳng đã được thay thế bằng một đường cong hình chữ S mà 1) tơn trọng
các ranh giới của biến phụ thuộc; 2) cho phép các tỷ lệ thay đổi khác nhau ở đầu
thấp và cao của thang bia; và 3) (giả sử đặc điểm kỹ thuật phù hợp của các biến
độc lập) sẽ khơng cịn tính khơng đồng nhất.

Những gì logit và probit làm, về bản chất, là lấy mơ hình tuyến tính và đưa nó qua

một hàm để mang lại một mối quan hệ phi tuyến. Trong khi đó, cơng cụ dự báo hồi
quy tuyến tính trơng như sau:

10


Các dự đốn logit và probit có thể được viết là:

2.3.3.2 Áp dụng nhóm mơ hình logit và probit dùng để xác định yếu tố nhận diện
doanh nghiệp “xác sống”:
Các biến giải thích được thơng qua trong các phân tích hồi quy sau đây có thể
phân thành nhiều loại. Tất cả các biến giải thích này bị trễ 1 năm để tránh sự thiên
vị đồng thời. Các loại đầu tiên của các biến giải thích gi ải thích các khía cạnh định
lượng của việc tái cấu trúc hoạt động của các công ty zombievà bao gồm Thay đổi
số lượng nhân viên, Thay đổi tài sản cố định, 6 và Không tiền thưởng thanh toán
giả (cho giám đốc điều hành). Thay đổi số lượng nhân viên và Thay đổi trong tài
sản cố định được tính là chênh lệch thời gian đã ghi trong số lượng nhân viên và
trong tài sản cố định, tương ứng. Khơng có tiền thưởng hình nộm mất một nếu một
công ty không trả tiền thưởng cho giám đốc điều hành của nó mặc dù báo cáo lợi
nhuận dương và bằng không. Sa thải nhân viên, bán tài sản cố định và cắt giảm tiền
thưởng cho giám đốc điều hành là các chương trình tái cấu trúc điển hìnhđược
thơng qua bởi các cơng ty Nhật Bản gặp khó khăn. Đến mức những đề án này có
hiệu quảcho sự phục hồi của các công ty zombie, những dấu hiệu tiêu cực đáng kể
cho hai người đầu tiên các biến và một dấu hiệu tích cực đáng kể cho biến thứ ba
được mong đợi.
Loại thứ hai của các biến giải thích tương ứng với mặt định tínhvề việc tái cấu trúc
hoạt động của các công ty zombie và bao gồm các khoản lỗ đặc biệt và lợi nhuận
đặc biệt, được bình thường hóa bằng tổng doanh số. Cho đến đầu những năm 2000,
hệ thống kế toán tại Nhật Bản dựa trên ngun tắc chi phí lịch sử, trong đócoi tổn
thất phi hoạt động là tổn thất đặc biệt và thu nhập phi hoạt động nhưlợi nhuận đặc

biệt bất cứ khi nào một công ty nhận ra lỗ và lãi vốn chưa thực hiện,tương ứng. Do
các quy tắc kế toán như vậy, các cơng ty gặp khó khăn đã được khuyến khích
đểche giấu mức độ thực sự của các vấn đề tài chính của họ bằng cách giảm giá trị
được báo cáo củatổn thất trên sổ sách của họ hoặc làm tăng vốn báo cáo của họ.
11


Do đó, mặc dù cả tổn thất đặc biệt và lợi nhuận đặc biệt đều đi kèm với tái cấu trúc
ý nghĩa định lượng, cụ thể là một số xử lý tài sản, chúng có ý nghĩa ngược lạication
theo nghĩa định tính Ít nhất là trong hồn cảnh kém minh bạch cho đến khi đầu
những năm 2000. Cụ thể, sự gia tăng tổn thất đặc biệt không nhất thiết là tin xấu
bởi vì nó có thể đã chỉ ra rằng công ty đã chọn thanh lý các di sản tiêu cực củaquá
khứ và cam kết cải cách hoạt động chính theo nghĩa thực sự. Ngược lại, mộttăng
lợi nhuận đặc biệt khơng nhất thiết là tin tốt vì nó có thể cóchỉ ra rằng cơng ty đã
chọn bán tài sản chính của mình để giảm thanh khoản tạm thời trongđể tiếp tục che
giấu những vấn đề thực sự của nó. Ở mức độ mà các khía cạnh định tính này rất
quan trọng đối với sự phục hồi của các công ty zombie, tích cực đáng kể và dấu
hiệu tiêu cực được dự kiến cho các khoản lỗ đặc biệt và lợi nhuận đặc biệt, tương
ứng.
Loại thứ ba của các biến giải thích tương ứng với tái cấu trúc tài chínhvà bao gồm
hình nộm Nợ, tỷ lệ xóa nợ và Giảm vốnhình nộm. Các biến này thể hiện sự hỗ trợ
tài chính bên ngồi được cung cấp bởicác bên liên quan. Hình nộm Nợ phải mất
một nếu một công ty nhận được khoản nợ từ chủ nợ trong thời gian t và bằng
khơng. Tỷ lệ xóa nợ là tỷ lệ xóa nợ trong giai đoạn t đến tổng dư nợ nước ngoài lúc
ban đầu của thời kỳ t. Giả giả giảm vốn mất một nếu một công ty tạo vốn giảm
trong thời gian t và bằng khơng. Trong phạm vi tài chính bên ngồi hỗ trợ tạo điều
kiện cho q trình tái cấu trúc đau đớn, dấu hiệu tích cực đáng kể làdự kiến cho ba
biến này.
Loại thứ tư của các biến giải thích được giới thiệu để kiểm sốt khoảng cách để
phục hồi, và nó bao gồm tỷ lệ nợ-tài sản và Thời gian trở thành zombie. Các Tỷ lệ

nợ-tài sản là tổng dư nợ nước ngồi được bình thường hóa bằng tổng sổ giá trị tài
sản. Các công ty zombie có nợ nước ngồi lớn hơn được coi là nhiều hơn Khó
phục hồi. Do đó, một dấu hiệu tiêu cực đáng kể được dự kiến cho nợ- tỷ lệ tài sản.
Chiều dài của một zombie biểu thị số năm mà một công ty tiếp tục là một thây ma
Sự phục hồi của các cơng ty zombie đã có kinh nghiệm thời gian kéo dài của rắc
rối tài chính là khá khó khăn. Đồng thời, ủng hộ vide rằng gánh nặng nợ được kiểm
soát bởi các biến khác, Thời gian tồn tại một zombie cũng có thể được hiểu là ảnh
hưởng của sự trì hỗn đối với sự phục hồi. Trong một trong hai trường hợp, một
dấu hiệu tiêu cực đáng kể được dự kiến.

12


Loại thứ năm của các biến giải thích được giới thiệu để kiểm sốt cho cơng tyvấn
đề quản trị về mặt thành phần cổ đơng, và nó bao gồm Tài chínhquyền sở hữu tổ
chức (theo phần trăm), tổ chức phi tài chính Quyền sở hữu (theo phần trăm) và
quyền sở hữu nước ngồi (tính theo phần trăm). Cho đến những năm 1990, theo
nghĩa rộng,Thành phần cổ đông của các công ty Nhật Bản có hai đặc điểm riêng
biệt là ngân hàngquyền sở hữu và cổ phần chéo, ảnh hưởng đến việc ra quyết định
của công tyrõ rệt Quyền sở hữu ngân hàng đã giảm đáng kể kể từ khi quy định
làđược giới thiệu vào năm 1998, với mức giới hạn trên 5% cho mỗi cổ phiếu của
ngân hàng về các điều khoảnquyền biểu quyết. Ngược lại, các nhà đầu tư nước
ngồi nhanh chóng tăng cổ phần của họtrong suốt những năm 1990 và 2000 cùng
với số lượng các nhà hoạt động. Tỷ lệ sở hữu ngân hàng và cổ phần chéo từng
được coi là một lợi thế lớn củahệ thống cơng ty Nhật Bản trước những thập kỷ mất
mát, vì những đặc điểm này được cách lyCác công ty Nhật Bản từ chủ nghĩa ngắn
hạn trên thị trường. Tuy nhiên, như người Nhậtnền kinh tế chậm lại trong những
năm 1990, sở hữu ngân hàng và cổ phần chéo đã trở thànhbị chỉ trích vì bảo vệ
khơng hiệu quả các nhà quản lý lười biếng khỏi kỷ luật thị trường.
Vì thế, trong trường hợp các công ty zombie, quyền sở hữu ngân hàng và cổ phần

chéo được coi là có hại cho sự phục hồi (tức là, vì chúng tạo điều kiện cho sự trì
hỗn), trong khi nước ngồi quyền sở hữu được coi là có lợi cho sự phục hồi (tức
là, vì nó thúc đẩy tái cấu trúc). Theo những quan điểm được chấp nhận rộng rãi,
tiêu cực đáng kể Các dấu hiệu được mong đợi cho cả các tổ chức tài chính Sở hữu
tài sản của người dùng như một ủy quyền cho ngân hàng quyền sở hữu và các tổ
chức phi tài chính Sở hữu như một ủy quyền cho chia sẻ chéo nắm giữ, 9 trong khi
một dấu hiệu tích cực đáng kể được dự kiến cho sở hữu nước ngồi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
/>2.3.4 Nhóm mơ hình đánh giá tác động của doanh nghiệp “xác sống” đến nền
kinh tế Việt Nam
Không phải bây giờ trên thị trường tài chính mới xuất hiện khái niệm ngân hàng
zombie, mới nói nhiều đến vấn đề phá sản những ngân hàng yếu kém, song những

13


người có thẩm quyền, có trách nhiệm vẫn khơng đưa ra lời giải thích phù hợp về sự
tồn tại của các zombie.

Nợ xấu, nợ khó địi tiếp tục tăng với mức chóng mặt. Theo báo cáo tài chính của
các ngân hàng niêm yết đến hết quý II, tổng nợ xấu của tám ngân hàng Vietinbank,
Vietcombank, ACB, MB, Sacombank, Eximbank, BIDV và SHB tăng gần 13.400
tỉ đồng. Con số nợ xấu còn lớn hơn rất nhiều nếu cơ cấu lại nợ theo Quyết định
780, Ngân hàng Nhà nước ước tính có thể chiếm tới 9,71% tổng dư nợ.
Nhìn vào hệ thống ngân hàng thương mại nước nhà, một chuyên gia tài chính,
ngân hàng nhận xét: "Nợ xấu khơng chỉ khiến hàng trăm ngàn doanh nghiệp ngừng
hoạt động, phá sản mà còn "giết chết" chính hệ thống ngân hàng thương mại
(NHTM). Điều đó cho thấy trách nhiệm quản lý nhà nước áp dụng trong hệ thống
ngân hàng rất lỏng lẻo".
1.Chỉ quét nợ tạm thời

Ngân hàng Nhà nước hồi cuối năm 2013 báo cáo có trên 380 ngàn tỉ đồng nợ xấu,
nhưng chỉ vài ngày sau đó đã rút xuống cịn 200 ngàn tỉ đồng với giải thích trên
180 ngàn tỉ đồng nợ quá hạn đã được cấu trúc lại bằng cách đảo nợ. Để xử lý nợ
xấu, tăng khả năng tiếp cận vốn vay của khách hàng, theo nhiều chuyên gia thì cơ
cấu lại nợ không phải là giải pháp giải quyết tận gốc vấn đề.
2.Không phá sản bởi chủ trương
Con số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải giải thể, hoặc tạm ngừng hoạt động
trong bảy tháng đầu năm 2014 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra đã lên tới 37.612
doanh nghiệp, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm 2013, đưa các NHTM lâm vào tình
cảnh khốn đốn hơn.
Lãnh đạo một NHTM có nợ xấu xấp xỉ 20% than thở, doanh nghiệp "chết" nhưng
nợ vẫn cịn và nó biến thành nợ khó địi, nợ xấu. Vị lãnh đạo này cho hay: "Bây giờ
các ngân hàng phải cố gắng cầm cự vì chủ trương khơng cho ngân hàng phá sản".
Trên thế giới, chỉ 1% nợ xấu là NHTM bị đưa vào diện kiểm tra đặc biệt, 3% là bị
xử lý, giải thể, nhưng ở Việt Nam nợ xấu lên đến 5 - 7% vẫn không bị xử lý.
14


Mấy năm nay, các NHTM cho vay không theo quy luật, lãi suất vượt nhiều lần so
với mức Luật Dân sự quy định (150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước),
không bảo vệ rủi ro cho chủ tài khoản… cũng không bị xử lý.
Nếu cho rằng không thể để các ngân hàng phá sản, ảnh hưởng nặng nề đến nền
kinh tế và thị trường tài chính quốc gia, dù ngân hàng không đủ điều kiện hoạt
động theo Luật Các tổ chức tín dụng, thì chúng ta phải đề nghị Quốc hội ra đạo
luật mới phù hợp. Nếu không, cứ để như hiện nay thì bao giờ mới làm "sạch" được
hệ thống ngân hàng.
3.Các luật không ăn khớp
Luật Phá sản sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2015, trong đó đưa ra một số điều khoản về
phá sản của các NHTM, nhưng những điều khoản đó chưa đủ để giải quyết những
vấn đề của NHTM, vì NHTM khác với doanh nghiệp.

Hiện nay, các NHTM hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng, vậy áp dụng luật
này như thế nào khi có thêm các điều khoản của Luật Phá sản. Đơn cử, Luật Phá
sản quy định, ngân hàng mất khả năng thanh toán là tự nguyện phá sản hay bị tòa
án tuyên bố phá sản. Đối với một tổ chức tín dụng, huy động vốn trong nhân dân
và có trách nhiệm đối với các chủ tài khoản, không đơn giản như thế.
Một vấn đề nữa đặt ra khi ngân hàng tuyên bố phá sản, ai giải quyết các vấn đề tài
khoản của những người gửi tiền? Vốn điều lệ, vốn tự có của ngân hàng chỉ là một
phần nhỏ của tổng tài sản, phần còn lại là tiền của khách hàng ký gửi.
Ngân hàng khơng cịn tiền, bởi đã cho vay 100% tiền huy động bằng cách đi vay
thêm trên thị trường liên ngân hàng và 20 - 30% các khoản vay đó đã biến thành nợ
khó địi, biến thành nợ mất vốn, ngân hàng trả lại cho chủ tài khoản bằng cách nào?
Theo quy định của pháp luật, công ty bảo hiểm tiền gửi chỉ đền bù cho mỗi chủ tài
khoản 50 triệu đồng. Có nghĩa là các chủ tài khoản sẽ bị mất trắng số tiền trên 50
triệu đồng gửi ở tài khoản.
Mặt khác, khi công ty bảo hiểm tiền gửi chi 50 triệu đồng/tài khoản thì họ có được
quyền gì đối với tổng tài sản của ngân hàng đó, tài sản của NHTM sẽ thuộc về ai…
Như vậy, Luật Phá sản không đáp ứng được việc xử lý phá sản của một ngân hàng,
không thể đem áp dụng cho các tổ chức tín dụng.
15


(Nguồn: />Tóm lại, "doanh nghiệp xác sống “ gây ra sự bóp méo cho hoạt động của những
doanh nghiệp khỏe mạnh bình thường khác, ngăn cản những doanh nghiệp tiềm
năng ra nhập thị trường, trầm trọng hơn chúng làm những chỉ số hiệu quả hoạt
động của những doanh nghiệp khỏe mạnh bình thường bị xấu đi, càng làm cho nền
kinh tế trở nên trì trệ, lấn vào khủng hoảng hoặc khó thốt khỏi khủng hoảng nếu
như khơng có những biện pháp phù hợp để giải quyết vấn nạn những "doanh
nghiệp xác sống”.
2.4 Phương pháp nghiên cứu định tính
2.4.1Mục tiêu của việc sử dụng phương pháp định tính trong việc nghiên cứu

các doanh nghiệp xác sống
Những mục tiêu chủ yếu như
 Định hướng cho các nghiên cứu định lượng,phát triển các khám phá mới và
các giả thuyết mới trong chiến lược đầu tư để giảm bớt thua lỗ
 Xác định và định nghĩa các vấn đề xảy ra với các doanh nghiệp xác sống
trong thời kì đầu và thời kì sau của doanh nghiệp
 Xác định được nhu cầu thông tin đối với các nhóm dân số trong tương lai để
đưa ra các phương án dự phòng trong tương lai về việc phát triển lâu dài
 Giúp phát triển các chiến lược truyền thông , phát triển các khái niệm và
cách ứng xử trong tương lai

Định hướng và phát
triển
Xác định nhu cầu và
đưa ra phương án

Xác định và định nghĩa
16

Phát triển
Mục tiêu sử dụng


2.4.2 Nội dung phỏng vấn chuyên gia
 Theo: Báo Đất Việt
( />Tham gia Hội thảo định hướng phát triển các thành phần kinh tế Việt Nam, TS
Trần Đình Thiên chỉ ra nhiều điểm nghẽn cản trở sự tăng trưởng của nền kinh
tế.Những điểm nghẽn được ông Thiên điểm mặt như cấu trúc kinh tế của Việt Nam
rời rạc, thiếu sự đan kết giữa các thành phần kinh tế; vẫn còn tồn tại sự phân biệt
đối xử giữa các thành phần kinh tế. Việt Nam khơng có lực lượng phát triển, chỉ có

yếu tố phát triển.Cụ thể trong việc xác định vai trò của danh nghiệp Nhà nước
(DNNN) đang bị hiểu sai lệch, thậm chí những đóng góp của khu vực này đối với
nền kinh tế rất hạn chế, còn là rào cản cho phát triển.
"Hiệu quả sử dụng vốn, tốc độ tăng năng suất lao động của DNNN giảm mạnh.
Hiện nay, DNNN "đóng góp" nhiều nhất vào gánh nặng nợ quốc gia — cục
máu đông cản trở phát triển kinh tế lớn nhất. Thậm chí, DNNN cịn là yếu tố
gây mất cân đối, phá vỡ ổn định vĩ mô, gây tổn thất lớn cho nền kinh tế, cả trực
tiếp (mất vốn, gây lãng phí lớn) lẫn gián tiếp (làm méo mó môi trường kinh
doanh)", tờ Tiền phong dẫn lời ông Thiên đánh giá.
17


Ông Thiên cho rằng, tình trạng nhiều dự án đắp chiếu, nhiều DN "xác sống", gánh
nặng nợ (nợ xấu của khu vực DNNN) đang trở thành vấn nạn phát triển thật sự của
nền kinh tế.Trong khi đó, DNNN có nhiều thuận lợi về đất đai, tiền vốn và được
giao những dự án lớn, có vị trí độc quyền… nhưng hiệu quả kinh doanh cịn
thấp.Mặc dù có 96,5% DNNN được cổ phần hóa nhưng tỷ lệ vốn nhà nước được
phép bán rất hạn chế, chỉ đạt khoảng 8%.
Thực tế, đây không phải lần đầu tiên TS Trần Đình Thiên đề cập tới vấn đề này.
Trước đó, khi nhận xét về DNNN, ông Thiên cũng chỉ ra hai trạng thái đối nghịch.
Thứ nhất, DNNN vẫn góp phần to lớn trong sự phát triển của nền kinh tế và phát
huy vai trò của kinh tế nhà nước.Thực tế cho thấy những doanh nghiệp này vẫn
"chốt giữ" những ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng. Bên cạnh đó,
DNNN vẫn là lực lượng vật chất quan trọng để bảo đảm các cân đối lớn của nền
kinh tế và góp phần thúc đấy phát triển kinh tế — xã hội, là công cụ quan trọng
giúp ổn định vĩ mơ, đối phó với những biến động thị trường, kiềm chế lạm phát,
giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của các "cú sốc" từ bên ngoài.Tuy nhiên,
nhìn về tổng thể, DNNN chưa đóng trịn vai "lực lượng nòng cốt" của lực lượng
kinh tế "chủ đạo", chưa hoàn thành sứ mệnh dẫn dắt và tạo động lực phát triển cho
cả nền kinh tế.Cụ thể, dù được giao trọng trách là "nòng cốt" của khu vực kinh tế

chủ đạo, song các DNNN chưa thực sự làm tốt vai trò nòng cốt, mở đường, hướng
dẫn, hỗ trợ phát triển. Trên thực tế, nhiều khi DNNN lại là yếu tố gây mất cân đối,
phá vỡ ổn định vĩ mô, gây tổn thất lớn cho nền kinh tế, cả trực tiếp như mất vốn,
gây lãng phí lớn, lẫn gián tiếp như méo mó mơi trường kinh doanh…Nó được
minh chứng bởi thực trạng của nhiều dự án đắp chiếu, tạo gánh nặng nợ cho quốc
gia.Mặt khác, TS Trần Đình Thiên cũng cho rằng so với nguồn lực được giao, với
những ưu đãi, đặc quyền, hỗ trợ của Nhà nước… thì những đóng góp của DNNN
là chưa tương xứng.Một đặc điểm gây lo ngại cho hoạt động kinh doanh của các
DNNN, theo TS. Trần Đình Thiên, là tình trạng "tay khơng bắt giặc". "Trong cấu
trúc tài sản của DNNN, vốn tự có chiếm tỷ lệ thấp hoặc rất thấp. Tỷ lệ nợ phải trả
so với vốn chủ sở hữu ở các tập đoàn, tổng cơng ty nhà nước gấp 3-10 lần", ơng
nói.
 Theo VnEconomy, báo điện tử thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Việt Nam
( )
18


"Đối với cá nhân tôi, cứu sống một doanh nghiệp có khi cịn tốt hơn việc thành
lập ra một doanh nghiệp mới", ông Trần Anh Vương - Tổng giám đốc SAM
Holdings chia sẻ về "khẩu vị đầu tư" của mình khi cơng ty của ơng rót vốn đầu
tư vào khơng chỉ những cơng ty làm ăn tốt mà có cả những cơng ty "xác sống"
Khi nói về những lợi thế khi mua những cơng ty yếu kém hay có thể gọi là "cơng
ty xác sống,Ơng Vương cho rằng: ‘‘Quan điểm về việc đầu tư vào những công ty
yếu để vực lên có thể nói khơng phải là điều mới và đã có rất nhiều người làm
từ trước đến nay. Và những thương vụ thành công lớn và gây tiếng tiếng vang
thường là những thương vụ như thế. Tôi cho rằng đây là một trong những hình
thức đầu tư mang lại hiệu quả cao.
Hơn nữa, trong 2 năm vừa rồi, những chuyển biến về tín dụng hay những vấn
đề liên quan đến ngân hàng là rất lớn, phát sinh ra chuyện nợ xấu của ngân
hàng và những câu chuyện mà trước đây khơng ai đề cập đến.Khi có nợ xấu thì

đương nhiên phát sinh chuyện nhiệm vụ mua bán nợ. Những cơng ty để có nợ
xấu là những cơng ty yếu về mặt tài chính, nhưng khi đi vào nghiên cứu các
cơng ty thì có nhiều cơ hội mở ra.Thứ nhất, cơng ty yếu hoặc thậm chí gần chết
là bởi vấn đề dịng tiền. Tài chính làm cho cơng ty đó suy yếu chứ không phải là
sức sống về kinh doanh. Nó có truyền thống và sức sống về kinh doanh, thậm
chí có những cơng ty từng là số một và số hai.Những cơng ty đó nội tại có
những năng lượng nhất định. Và đương nhiên nhà đầu tư nhìn thấy chuyện đó
thì mới đầu tư. Chứ cơng ty vừa khó khăn về tài chính lại khơng có gì thì khó
mà cứu được.Năm vừa rồi Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 42/2017/QH14 về
thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Tơi cho rằng đây là một trong
những nghị quyết đi vào cuộc sống nhanh nhất, giải quyết ngay được vấn đề và
năm vừa rồi, cứu được nhiều doanh nghiệp trên bờ vực phá sản.
Ví dụ một đơn vị nợ 100 tỷ đồng và nợ lãi khoảng 30 tỷ, ngân hàng khơng thể
trích được, đơn vị đấy cũng khơng có khả năng trả. Khi đó, đơn vị mua nợ vào
đàm phán với ngân hàng. Ngân hàng đằng nào cũng đã trích lập bỏ các khoản
đó rồi, nên lãi có thể được xóa, cịn gốc có thể được mua theo một tỷ lệ nhất
định. Có những món nợ có thể được mua chỉ bằng 30 - 50% giá trị gốc. Tất
nhiên cũng có những món mua tới 70 - 100% giá trị gốc, tùy chất lượng tài
sản.Khi hoạt động mua bán như vậy, cả ba bên đều có lợi. Ngân hàng đằng nào
cũng trích lập nợ khơng địi được, mà bán được tới 50% thì cũng đã có lợi.
19


Người mua thì cũng phải nhìn thấy lợi ích thì mới mua. Cịn bản thân doanh
nghiệp bị mua thì đằng nào cũng chết rồi, được mua thì tốt q.Khi đó, việc
mua bán nợ, đầu tư vào những công ty yếu trở thành cách làm tôi cho là rất
hay.”
 Theo Báo Nhân Dân( Chủ Nhật, 23/10/2016): Những con nợ của nền
kinh tế ( />Có thể thấy, thời gian qua, hàng trăm nghìn tỷ đồng đầu tư hàng loạt nhà máy, dự
án lớn thuộc đủ mọi lĩnh vực đã bị “ném qua cửa sổ”, làm suy kiệt nền kinh tế đất

nước. Hệ lụy mà các đại dự án, cơng trình “chết lâm sàng” gây ra cho nền kinh tế
là vô cùng nghiêm trọng. Tuy mỗi “xác sống” có một kiểu “chết” khác nhau, song
một điểm chung nhất là đều sử dụng công nghệ “bãi rác”, lạc hậu, thiếu đồng bộ,
nhưng suất đầu tư được đẩy lên với giá “trên trời”. Theo chuyên gia kinh tế Vũ
Đình Ánh : “ xét trên bình diện chung, ngồi yếu tố thị trường khơng thuận lợi,
việc các dự án sử dụng công nghệ lạc hậu khiến sản phẩm làm ra khơng có sức
cạnh tranh. Suất đầu tư các dự án bị thổi phồng, cho nên ngay khi đầu tư đã
nhen nhóm nguy cơ thua lỗ. Để xảy ra những thảm cảnh trên, lỗi do quản lý và
quản trị doanh nghiệp (DN) của người đứng đầu yếu kém, có hiện tượng tham
nhũng, thất thốt. Ngồi hậu quả nặng nề về tài chính khơng dễ gì khắc phục
trong vài ba năm, những cơng nghệ cũ nát này cịn khơng biết chôn vào đâu,
báo động đỏ về nguy cơ ô nhiễm, rất khó xử lý triệt để. Q trình hội nhập, cơng
nghệ đóng vai trị then chốt trong việc tạo ra năng lực cạnh tranh cho nền kinh
tế. Trong nhiều năm trước, chúng ta đã phải hết sức vất vả mới loại trừ được
“bệnh dịch” xi-măng lò đứng. Tưởng chừng đó đã là bài học q đắt giá, thì
bây giờ, hàng loạt dự án quy mô đầu tư lớn vẫn đi vào “vết xe đổ”, nhập về
những dây chuyền “bãi rác” với mức độ thảm hại hơn”. Danh sách những dự án
sử dụng công nghệ phế thải ngày càng nối dài, từ Gang thép Thái Nguyên (giai
đoạn 2), Đạm Ninh Bình, đến Xơ sợi Đình Vũ, các nhà máy bio-ethanol,... Nhà
máy Đạm Ninh Bình tuy được “gắn mác” cơng nghệ châu Âu, G7 tiên tiến, nhưng
toàn bộ dây chuyền, thiết bị là hàng Trung Quốc, nhập từ keo dán, hộp sơn đến dây
điện, kết cấu thép,... Cơng nghệ khí hóa than của nhà máy lạc hậu, chất lượng sản
phẩm thấp, cho nên sản phẩm làm ra chất đống trong kho. Tập đồn Hóa chất Việt
Nam (Vinachem) đã phớt lờ lợi ích của những người nông dân nghèo khổ, kiến
nghị Chính phủ có chính sách hạn chế nhập khẩu, ưu đãi sản phẩm u-rê trong
20


nước, cố tình đi ngược lại xu thế hội nhập và gây thiệt hại kép cho nơng dân vì
phải mua loại u-rê chất lượng thấp với giá cao. Mặc dù được hưởng nhiều cơ chế

ưu đãi “vượt khung”, nhưng Đạm Ninh Bình vẫn lỗ tới hơn 2.600 tỷ đồng. Ngồi
khoản vay của Ngân hàng Eximbank Trung Quốc, Đạm Ninh Bình còn vay của
nhiều ngân hàng với tổng số vốn vay lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Trong bối cảnh
hiện nay, việc thu hồi nợ ra sao, tài sản bảo đảm là gì, các khoản vay đã bị chuyển
nhóm nợ xấu hay chưa... đang là “dấu hỏi” không dễ giải đáp đối với các ngân
hàng.
Quá trình thực hiện dự án với nhà thầu ở các lĩnh vực nhiệt điện, xi-măng, gang
thép thời gian qua, DN trong nước lãnh đủ những ưu phiền, bị gây khó dễ khi cung
cấp thiết bị, bớt xén chủng loại, hạ chuẩn chất lượng, điều chỉnh tăng vốn. Điều hết
sức lạ lùng là nhiều bài học đã diễn ra ngay trước mắt, nhưng các DN vẫn cứ “lao
đầu vào chỗ chết”. Một số người đứng đầu DN quen thói làm ăn chụp giật, bị lịng
tham làm mờ mắt, vì lợi ích nhóm, tầm nhìn ngắn hạn, đã biết rõ hiểm họa nhưng
vẫn bất chấp, liều lĩnh nhúng tay vào bùn không cần biết ngày mai. Ngay cả ở vai
trò cơ quan quản lý chuyên ngành, cũng thấy đây đó lấp ló hiện tượng một số cá
nhân coi việc đầu tư là cơ hội để kiếm chác, vun vén lợi ích bản thân, “tiếp tay”
cho những hành vi sai trái, chà đạp lên quyền lợi đất nước.
Gần như để xử lý tất cả các con nợ của nền kinh tế bị thua lỗ thời gian qua, phương
án đưa ra chỉ duy nhất là xin cơ chế bảo hộ, ưu đãi. Dư luận đang đặt câu hỏi: Liệu
có nên tiếp tục sử dụng ngân sách nhà nước để giải cứu, hỗ trợ các dự án bết bát
này? Theo PGS, TS Ngơ Trí Long: “trong nền kinh tế thị trường, yếu tố hiệu
quả phải đặt lên hàng đầu. Quy luật cạnh tranh có đào thải cho nên, quan
niệm “đâm lao phải theo lao” là hồn tồn sai lầm. Nếu khơng quyết tâm
“khai tử” các dự án trên, hậu quả càng tai hại, làm khê đọng vốn, ảnh hưởng
lớn đến trần nợ công và bội chi ngân sách. Cách hữu hiệu nhất là cho phá sản,
thu hồi vốn cho Nhà nước. Đồng thời, quy trách nhiệm những tổ chức, cá
nhân liên quan và xử lý nghiêm minh”. TS Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng
Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho rằng: “Bộ Kế hoạch và Đầu
tư cần tổng rà soát các dự án vốn Nhà nước đầu tư, kiểm điểm lại cơng tác
phân cấp, phân tích rõ mặt được và hạn chế để khắc phục. Dự án nào phải
chấm dứt thì xử lý dứt điểm, càng dai dẳng càng gây hệ lụy khó lường”.

2.4.3 Phương pháp chọn mẫu
21


Đề tài sử dụng chọn một mẫu toàn diện qua cuộc khảo sát các doanh nghiệp vừa và
nhỏ trên hai địa bàn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh nhằm xây dựng các biến số
về lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp, số lượng lao động
trong doanh nghiệp, trình độ nhân lực trong doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp, khả năng tiếp cận vốn vay của doanh nghiệp. Tổng điều tra doanh
nghiệp trong khoảng thời gian 2000- 2015 của Tổng cục thống kê Việt Nam với
nhiều thơng tin về loại hình sở hữu, lao động, doanh thu và tài sản của doanh
nghiệp với 42 nghìn doanh nghiệp năm 2000 và tăng lên trên 450 nghìn doanh
nghiệp vào năm 2015. Mỗi doanh nghiệp được quan sát qua các các năm cho đến
khi doanh nghiệp không còn xuất hiện trong số liệu của năm tiếp theo.Cụ thể tất cả
các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi , doanh
nghiệp tư nhân có lao động trở lên sẽ được điều tra toàn bộ trong tất cả các năm,
cịn doanh nghiệp có 10 lao động trở xuống sẽ được lựa chọm ngẫu nhiên để điều
tra.Từ kết quả điều tra,các ngành công nghiệp và tài chính ngân hàng, bất động
sản được chọm để phân tích.
Nguồn: Doanh nghiệp “sống thực vật” trong nền kinh tế Việt Nam: thực trạng,
nguyên nhân và một số hàm ý chính sách- Nguyễn Thị Tường Anh

22



×